10
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa, có nguy cơ cao và có tốc độ
phát triển rất nhanh. Bệnh được đặc trưng bởi sự tăng glucose trong máu do
hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin hoặc hoạt động kém hiệu quả của
insulin hoặc phối hợp cả hai. Đái tháo đường thai kỳ là một thể đặc biệt của
đái tháo đường. Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ đang có chiều hướng ngày càng
gia tăng nhất là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam.
Đái tháo đường thai kỳ thường xuất hiện vào khoảng tuần thai thứ 24 –
28 của thai kỳ[1], [2], [3], khi nhau thai sản xuất ra một lượng lớn các hormon
gây kháng insulin. Đái tháo đường thai kỳ nếu không được chẩn đoán sớm và
điều trị kịp thời sẽ gây ra nhiều tai biến cho cả mẹ và thai nhi như tiền sản
giật, thai chết lưu, sảy thai sớm, thai to và tăng tỷ lệ tử vong chu sinh…[4],
[5]. Vì vậy trên thế giới bệnh đái tháo đường trong thời gian mang thai đã và
đang là vấn đề được nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu.
Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh được rằng mô mỡ không chỉ
có vai trò dự trữ năng lượng, mà nó còn có chức năng như một cơ quan nội
tiết tiết ra các phân tử có hoạt tính sinh học khác nhau, được gọi các
Adipokines[6], [7]. Adipokines tham gia vào một loạt các quá trình như cầm
máu, chuyển hóa lipid, xơ vữa động mạch, điều chỉnh huyết áp, độ nhạy cảm
insulin và chúng được biết là có vai trò quan trọng trong bệnh sinh của các
bệnh liên quan đến rối loạn chuyển hóa và bệnh đái tháo đường. Trong số các
Adipokines thì Adiponectin là một protein được phát hiện vào nhưng năm
1990[8], nó làm tăng tính nhạy cảm insulin, chống viêm, kích thích sự hấp thu
glucose trong cơ xương, giảm sản xuất glucose ở gan…[9]. Chính vì thế nồng
độ adiponectin có liên quan đáng kể với đái tháo đường thai kỳ, béo phì, tăng
huyết áp.
11
Trong thai kỳ bình thường, sự tiết adiponectin của mẹ giảm dần và
giảm nhiều hơn ở những phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ [10]. Hơn nữa nồng
độ adiponectin cũng giảm sau khi sinh ở những phụ nữ có tiền sử đái tháo
đường thai kỳ. Nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng phụ nữ có nồng độ
adiponectin trong 3 tháng đầu mà dưới 25% thì khả năng bị đái tháo đường
thai kỳ gấp 10 lần so với những phụ nữ có nồng độ adiponectin cao
hơn[11]. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đã cho thấy nồng độ adiponectin
tương quan chặt chẽ với mức độ kháng insulin và tăng insulin [12], có mối
tương quan nghịch với nồng độ triglycerid huyết tương và tương quan
thuận với nồng độ HDL – Cholesterol [13], [14]. Trong những năm gần đây
vai trò của adiponectin trong bệnh đái tháo đường thai kỳ đã được làm sáng
tỏ một cách chi tiết hơn. Tuy nhiên, ý nghĩa sinh lý của adiponectin trong
những biến chứng của thai kỳ và mối liên quan của nó với các yếu tố nguy
cơ gây đái tháo đường thai kỳ vẫn còn chưa rõ ràng.
Ở Việt Nam hiện vẫn chưa có nghiên cứu nào về adiponectin và vai trò
của nó trong đái tháo đường thai kỳ nói riêng và trong thai kỳ nói chung. Xuất
phát từ thực tế trên chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nồng độ
Adiponectin huyết thanh và một số yếu tố liên quan trên thai phụ mắc
đái tháo đường thai kỳ” với các mục tiêu:
1.
Khảo sát nồng độ adiponectin huyết thanh trên bệnh nhân đái tháo
đường thai kỳ và phụ nữ có thai bình thường.
2.
Khảo sát nồng độ adiponectin huyết thanh với một số yếu tố liên quan
trong thai kỳ.
12
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đái tháo đường thai kỳ
1.1.1. Định nghĩa
Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là tình trạng rối loạn dung nạp glucose
ở bất kỳ mức độ nào, khởi phát hoặc phát hiện lần đầu tiên trong lúc mang
thai. Định nghĩa này được áp dụng dù người bệnh có cần phải điều trị bằng
insulin hay chỉ cần điều chỉnh chế độ ăn và dù cho diễn biến sau đẻ còn tồn tại
hay không. Định nghĩa này không loại trừ trường hợp bệnh nhân đã có rối
loạn dung nạp glucose từ trước (nhưng chưa được phát hiện) hay xảy ra đồng
thời với quá trình mang thai [1].
1.1.2. Lịch sử phát hiện, nghiên cứu chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Vào đầu thế kỷ XIX, năm 1828, Bennwitz lần đầu tiên công bố một
trường hợp đái tháo đường phát hiện trong thời gian mang thai [1], [2].
Năm 1882, Matthews Ducan lần đầu tiên công bố nghiên cứu bệnh đái
tháo đường ở phụ nữ có thai tại hội nghị sản khoa Anh Quốc.
Năm 1954 nghiên cứu đầu tiên về bất thường chuyển hóa carbonhydrat ở
thai phụ được tiến hành tại Boston. Nghiệm pháp sàng lọc với 50g glucose lần
đầu tiên được sử dụng.
Năm 1964 O'Sullivan và Mahan đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo
đường thai kỳ dựa trên các kết quả khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose
trên 752 thai phụ.
Năm 1979 tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ của O'Sullivan
và Mahan dựa vào kết quả dung nạp glucose, uống 100g glucose, sau 3 giờ
13
định lượng đường huyết đã được Hội phụ khoa Mỹ khuyến cáo sử dụng, ủy
ban quốc gia về đái tháo đường của Mỹ cũng đã công nhận điều này.
Năm 1980, tổ chức y tế thế giới lần đầu tiên đưa ra tiêu chuẩn chẩn
đoán đái tháo đường thai kỳ. Sau đó nhiều nghiên cứu về chẩn đoán, điều
trị và theo dõi đái tháo đường thai kỳ ở các nước trên thế giới lần lượt được
công bố [1], [2].
1.1.3. Tình hình mắc bệnh ĐTĐTK
Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ thay đổi khác nhau tùy theo quốc gia, vùng,
theo chủng tộc và tùy theo tiêu chuẩn chẩn đoán nào. Tỷ lệ dao động từ 114% [1], [2], [15], [16].
Bảng 1.1: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ của một số quốc gia trên thế giới [1], [2].
Năm
1975
1980
1980
1984
1984
1988
Quốc gia
Đan Mạch
Bắc Ailen
Mỹ
Thụy Điển
Anh
Australia
Tỷ lệ ĐTĐTK (%)
1–7
0,2 – 3
12,3
1,3
4
2,4
Tại Việt Nam chưa có số liệu thống kê trên toàn quốc về tỷ lệ ĐTĐTK,
tuy nhiên qua một số nghiên cứu tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cho
thấy tỷ lệ ĐTĐTK của các thai phụ không hề thấp và có chiều hướng gia tăng.
Bảng 1.2: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ qua các nghiên cứu trong nước [1], [17], [18].
Tác giả
Năm
Địa điểm
Tỷ lệ (%)
Ngô Thị Kim Phụng
1999
Quận 4 TP Hồ Chí Minh
3,9
Ng.T.Kim Chi và CS
2000
BV Phụ Sản Hà Nội
3,6
Tạ Văn Bình và CS
Vũ Bích Nga và CS
BV Phụ Sản TW và BV
Phụ Sản Hà Nội
BV Phụ Sản TW và Khoa
2006-2008
sản BV Bạch Mai
2002-2004
5,7
7,8
14
1.1.4. Sinh lý bệnh của đái tháo đường thai kỳ
Mang thai là yếu tố thuận lợi thúc đẩy sự xuất hiện các rối loạn điều hòa
đường máu do tăng tình trạng kháng insulin. Đái tháo đường thai kỳ có thể
xảy ra khi tình trạng kháng insulin sinh lý này tăng kịch phát và cùng xuất
hiện song song với sự thiếu hụt insulin tương đối.
Sinh lý bệnh đái tháo đường thai kỳ tương tự như sinh lý bệnh của đái
tháo đường type 2, bao gồm kháng insulin và bất thường về tiết insulin.
1.1.4.1. Bài tiết các hormon trong thời gian mang thai
Sản xuất các hormon có khuynh hướng tăng trong thời gian mang thai và
phần lớn các hormon này đều góp phần kháng insulin và gây rối loạn chức
năng tế bào bêta của tụy. Nửa đầu thai kỳ có sự tăng nhạy cảm với insulin tạo
điều kiện cho sự tích trữ mỡ của cơ thể mẹ. Vào nửa sau của thai kỳ có hiện
tượng kháng insulin, đồng thời nhu cầu insulin của các thai phụ cũng tăng khi thai
càng phát triển gây thiếu hụt insulin tương đối. Sự kết hợp của hai yếu tố trên làm
thai phụ có xu hướng dẫn tới đái tháo đường ở nửa sau của thai kỳ. Đái tháo
đường thai kỳ thường xuất hiện vào khoảng tuần thứ 24 của thai kỳ, khi mà rau
thai sản xuất một lượng đủ lớn các hormon gây kháng insulin [1], [2].
Vai trò của estrogen và progesterone với sự kháng insulin.
Vào giai đoạn sớm của thai kỳ, estrogen và progesterone đều được tăng
bài tiết nhưng tác động của hai loại hormon này trên hoạt động của insulin lại
khác nhau. Estrogen có thể làm tăng đáp ứng của cơ đối với tác dụng của
insulin trong khi progesterone thì lại là chất đối kháng nhẹ tác dụng của
insulin, làm giảm sự nhạy cảm của mô với insulin, vì vậy hai hormonnày có
thể trung hòa tác dụng của nhau.
15
Vai trò của cortisol với sự kháng insulin.
Nồng độ cortisol tăng khi mang thai, vào giai đoạn cuối của thai kỳ,
nồng độ cortisol tăng gấp 3 lần ở người không mang thai. Rizza và cộng sự sử
dụng kỹ thuật kẹp clamp trong nghiên cứu ở những người được truyền liều
cao cortisol, các tác giả nhận thấy có sự tăng sản xuất glucose ở gan và giảm
nhạy cảm với insulin [19].
Vai trò của prolactin với sự kháng insulin.
Trong thời gian mang thai, nồng độ prolactin tăng cao gấp 7-10 lần [20].
Skouby thăm dò mối liên quan giữa nồng độ prolactin và tình trạng dung nạp
glucose ở thai phụ bình thường và thai phụ đái tháo đường thai kỳ bằng cách
tiến hành làm nghiệm pháp dung nạp glucose vào nửa sau của thai kỳ và sau
đẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: vào nửa sau của giai đoạn mang thai,
nồng độ glucose máu lúc đói của thai phụ đái tháo đường thai kỳ cao hơn một
cách có ý nghĩa so với nhóm chứng, còn sau khi uống đường thì đáp ứng tiết
insulin ở nhóm đái tháo đường thai kỳ lại giảm hơn một cách có ý nghĩa so
với nhóm chứng. Sự khác nhau về chuyển hóa glucose ở hai nhóm càng rõ rệt
hơn ở giai đoạn ngay sau đẻ.Trong khi đó nồng độ prolactin ở cùng thời điểm
của hai nhóm hoàn toàn không có sự khác nhau. Nồng độ prolactin cũng
không bị rối loạn trong thời gian làm nghiệm pháp dung nạp glucose. Tác giả
đi đến kết luận rằng không có mối liên quan giữa tình trạng dung nạp glucose
và nồng độ prolactin [21]. Như vậy prolactin không giữ vai trò quan trọng
trong cơ chế bệnh sinh đái tháo đường thai kỳ.
Vai trò của lactogen (HPL: human placental lactogen) với sự kháng insulin.
Lactogen (HPL) có cấu trúc hóa học và chức năng miễn dịch giống như
GH. Nồng độ HPL vào thời điểm cuối của thai kỳ gấp 1000 lần nồng độ của
GH. Ngoài tác dụng đồng hóa protein và ly giải mỡ, HPL còn có tác dụng lên
16
tuyến vú và hoàng thể.Dùng một liều HPL duy nhất có thể gây tình trạng rối
loạn dung nạp glucose nhẹ từ 5 – 12 giờ.
Vai trò của leptin với sự kháng insulin.
Leptin là một protein, TLPT 16kDa, được mô mỡ bài tiết.Nó đóng một
vai trò quan trọng trong việc điều tiết tiêu thụ năng lượng, hơn nữa leptin còn
tham gia vào chức năng nội tiết, viêm, phản ứng miễn dịch, sinh sản. Do đó
nó làm tăng độ nhạy cảm insulin qua ảnh hưởng đến bài tiết insulin, sử dụng
glucose, tổng hợp glycogen và chuyển hóa acid béo. Nồng độ leptin ở phụ nữ
có thai cao hơn người không mang thai, nhất là vào ba tháng giữa và ba tháng
cuối của thai kỳ. Kautzky và cộng sự tiến hành nghiên cứu đo nồng độ leptin
ở ba nhóm: các thai phụ bị đái tháo đường thai kỳ, các thai phụ không đái
tháo đường thai kỳ và phụ nữ không có thai. Các tác giả thấy nồng độ leptin
cao nhất ở nhóm đái tháo đường thai kỳ, thấp nhất ở người không có thai và
sự khác nhau có ý nghĩa thống kê [22].
1.1.4.2. Ảnh hưởng của tăng glucose máu lên sự phát triển của thai nhi
Mỗi thai kỳ bình thường kéo dài khoảng 9 tháng (40 tuần). Thai kỳ được
chia thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo dài 3 tháng [1],[17],[23].
Ba tháng đầu thai kỳ
Sự điều hòa glucose trong giai đoạn đầu thai kỳ có ý nghĩa to lớn đối với
sự hình thành và đóng của ống thần kinh. Tăng glucose máu nặng có thể gây
các dị tật như: ống thần kinh hở, sọ nhỏ, phù màng ngoài tim. Ngoài ra tăng
glucose máu cùng với tăng ceton máu còn gây ra nhiều dị tật bẩm sinh khác
trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tóm lại, các rối loạn chuyển hóa trong giai đoạn
hình thành tổ chức dễ dẫn đến các khuyết tật cho thai nhi. Vì vậy, cần kiểm
tra glucose máu cho những thai phụ có nguy cơ cao bị đái tháo đường thai kỳ
ngay từ lần khám thai đầu tiên trong giai đoạn này [1].
17
Ba tháng giữa thai kỳ.
Đây cũng là giai đoạn tất cả các tế bào não có mặt trong suốt cuộc đời
đều được hình thành và là giai đoạn có vai trò quan trọng đến sự phát triển
của não người. Giả thiết cho rằng, tăng ceton máu trong thai kỳ gây giảm trí
thông minh của trẻ đã có nhiều tranh cãi. Thực ra các tế bào não của thai nhi
cũng như của người trưởng thành sử dụng ceton làm năng lượng oxy hóa. Trong
trường hợp tăng ceton máu do đói hoặc toan ceton do đái tháo đường đều có thể
làm giảm hình thành pyrimidin trong não thai chuột, tác dụng của ceton là gây
ức chế vào các bước gần phản ứng hình thành acid orotic. Qua quan sát trên,
người ta thấy rằng nếu số lượng tế bào não và hoạt động trí tuệ có tương quan
với nhau thì tăng ceton máu có ảnh hưởng tới trí tuệ của trẻ[20].
Ba tháng cuối thai kỳ.
Tăng đường máu vào giai đoạn này không gây các dị tật bẩm sinh cho
thai nhưng lại gây thai to. Vì tăng glucose máu mẹ làm glucose máu thai tăng,
kích thích tụy của thai sản xuất insulin làm phát triển nhanh các tế bào mỡ, cơ.
Việc phát hiện ra hiện tượng quá sản của tiểu đảo tụy, tăng khối lượng của các tổ
chức nhạy cảm với insulin ở những thai to của bà mẹ bị đái tháo đường thai kỳ đã
chứng minh giả thiết tăng glucose máu gây tăng tiết insulin của Perdersen.
1.1.5. Yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ
1.1.5.1. Yếu tố nguy cơ
Tuổi mẹ ≥ 25 được coi là yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ[24].
Béo phì hoặc thừa cân trước khi có thai: Hầu hết các nghiên cứu đều
nhận thấy tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở nhóm phụ nữ béo phì trước mang thai
cao hơn nhóm có BMI bình thường[25], [26], [27]. Theo khuyến cáo của Tổ
chức Y tế Thế giới đề nghị cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tháng
2/2000, BMI ≥ 23 được gọi là thừa cân và béo phì [28].
18
Tiền sử gia đình có người mắc bệnh đái tháo đường, đặc biệt là có
người đái tháo đường thế hệ thứ nhất. Phụ nữ có thai ở gia đình có người bị
đái tháo đường thì nguy cơ bị đái tháo đường thai kỳ chiếm 50-60% so với
nhóm không có tiền sử gia đình đái tháo đường [5].
Có tiền sử bị rối loạn dung nạp glucose hoặc rối loạn đường huyết khi
đói hoặc đã được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ trong lần mang thai trước.
Đây là yếu tố nguy cơ rất cao của đái tháo đường thai kỳ.
Có tiền sử sản khoa bất thường trong lần mang thai trước: thai chết lưu,
sảy thai không rõ nguyên nhân, nhiễm độc thai nghén, đẻ non… Các yếu tố
này vừa là hậu quả của đái tháo đường thai kỳ, vừa được coi là yếu tố nguy cơ
trung bình [2].
Tiền sử đẻ con ≥ 4,0kg: cân nặng của trẻ lúc đẻ vừa là hậu quả của đái
tháo đường thai kỳ, vừa là yếu tố nguy cơ cho người mẹ mang thai lần sau.
Glucose niệu dương tính: Đây cũng là một yếu tố nguy cơ cao đối với
đái tháo đường thai kỳ. Tuy nhiên có khoảng 10-15% phụ nữ mang thai có
đường niệu dương tính mà không phải đái tháo đường thai nghén. Theo
Welsh nghiên cứu 101 sản phụ có đường niệu dương tính thì 64/101 người
(61,4%) được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Thị Kim Chi, Trần Đức Thọ, Đỗ Trung Quân (2001), nghiên cứu 196
sản phụ, có 32 sản phụ có glucose niệu dương tính thì có 6/32 người bị đái
tháo đường thai kỳ chiếm 18,8% [29].
Chủng tộc: Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ có
tỷ lệ rất khác nhau tùy chủng tộc. Những chủng tộc có nguy cơ thấp như
người da đen, thổ dân châu Mỹ, các đảo Thái Bình Dương hoặc người AnhĐiêng (Úc). Nhóm người có nguy cơ cao là người Trung và Nam Mỹ, người
Mỹ gốc châu Á, người Mỹ gốc Ấn Độ. Đáng chú ý là rất nhiều nghiên cứu
19
khẳng định phụ nữ châu Á trong đó có Việt Nam tỷ lệ mắc đái tháo đường
thai kỳ cao[30], [31].
1.1.5.2. Phân loại yếu tố nguy cơ.
Phân loại nguy cơ theo khuyến cáo sàng lọc của Hội nghị quốc tế lần thứ
IV về đái tháo đường thai kỳ (1998)[30].
Nhóm nguy cơ cao
Khi có một hoặc nhiều hơn các yếu tố sau:
Thừa cân, béo phì trước khi mang thai.
Trong gia đình có người bị đái tháo đường.
Tiền sử đái tháo đường thai kỳ.
Tiền sử đẻ con to ≥ 4,0kg.
Glucose niệu dương tính.
Nguy cơ trung bình
Là những thai phụ không có các đặc điểm của nhóm nguy cơ cao và
nguy cơ thấp.
Nguy cơ thấp
Có tất cả các đặc điểm sau:
Tuổi < 25.
Thuộc chủng tộc mà tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ rất thấp.
Trong gia đình không có ai bị đái tháo đường.
Cân nặng trước mang thai và trong quá trình mang thai bình thường.
Không có tiền sử đái tháo đường thai kỳ.
Không có tiền sử sản khoa xấu.
20
Năm 2005 hội nghị quốc tế về đái tháo đường tại Bỉ cũng khuyến cáo
sàng lọc cho các thai phụ có nguy cơ cao ngay từ lần khám thai đầu của thai
kỳ vì nếu nhóm nguy cơ thấp không được sàng lọc có thể sẽ bỏ sót khoảng
10% đái tháo đường [32].
1.1.5.3. Yếu tố nguy cơgây đái tháo đường thai kỳ của các thai phụ Việt Nam.
Năm 2006 – 2008, Vũ Bích Nga và cộng sự[1], nghiên cứu trên 1327
thai phụ quản lý thai tại hai bệnh viện lớn của Hà Nội thấy rằng, có 223 thai
phụ có yếu tố nguy cơ cao, chiếm tỷ lệ 16,8%. Yếu tố nguy cơ cao hay gặp
nhất là tiền sử gia đình đái tháo đường thế hệ thứ nhất (13,2%) và thừa cân
béo phì trước khi mang thai (9,9%). So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Thị
Kim Chi cùng cộng sự cách đây khoảng 10 năm[29]và nghiên cứu của Tạ
Văn Bình cùng cộng sự cách đây khoảng 5 năm [17], thì tỷ lệ 2 yếu tố nguy
cơ này trong nghiên cứu của Vũ Bích Nga và cộng sự cao hơn hẳn.
Bảng 1.3: So sánh một số yếu tố nguy cơ gây đái tháo đường thai kỳ qua các
nghiên cứu ở Việt Nam
Tỷ lệ tiền sử
Tác giả
gia đình bị
ĐTĐ thế hệ
thứ nhất (%)
Tỷ lệ thừa cân và
béo phì trước khi
mang thai (%)
BMI
trung bình
N.T.K Chi,
T.Đ.Thọ,
3,6
3,6
19,7±2,3
6,7
19,5±2,1
9,9
20,3±2,2
Đ.T.Quân
T.V.Bình, N.Đ.Vy,
P.T.Lan
V.B.Nga,
T.V.Bình
13,2
21
1.1.6. Hậu quả của đái tháo đường thai kỳ
1.1.6.1. Hậu quả đối với mẹ
Hậu quả trong thời gian mang thai
Tăng huyết áp: thai phụ đái tháo đường thai kỳ dễ bị tăng huyết áp
hơn các thai phụ bình thường. Nghiên cứu của Vambergue và cộng sự tại 15
trung tâm phía Bắc nước Pháp đã chỉ ra rằng, các thai phụ bị đái tháo đường
thai kỳ có tỷ lệ bị tăng huyết áp là 17% tăng hơn so với nhóm chứng chỉ là
4,6% (p<0,05) [33].
Tiền sản giật và sản giật: tiền sản giật là hội chứng xảy ra trong thời kỳ
mang thai, gồm các triệu chứng: tăng huyết áp, có protein niệu, acid uric máu
tăng > 6mg/dl. Tỷ lệ các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ bị tiền sản giật khoảng
12% cao hơn các phụ nữ không bị đái tháo đường thai kỳ (8%) [1], [34].
Sảy thai và thai chết lưu: ĐTĐTK tăng nguy cơ bị sảy thai tự nhiên
nếu glucose máu kiểm soát không tốt ở 3 tháng đầu. Ngược lại các thai phụ
hay bị sảy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân thì cần phải kiểm tra glucose
máu cho họ xem có phải họ bị đái tháo đường không.
Thai chết lưu ở thai phụ bị đái tháo đường gặp với tần suất cao hơn so
với nhóm chứng. Phần lớn các trường hợp thai chết lưu ở người ĐTĐTK xảy
ra đột ngột mặc dù tỷ lệ tử vong chu sinh giảm đi một cách có ý nghĩa so với
trước đây nhưng tỷ lệ thai chết lưu vẫn còn: tỷlệ thai chết lưu/tử vong chu
sinh là 2/1 [1].
Nhiễm trùng tiết niệu: phụ nữ đái tháo đường thai kỳ dễ bị nhiễm
trùng tiết niệu. Nhiễm trùng tiết niệu có thế không có triệu chứng lâm sàng
nhưng làm cho glucose máu của người mẹ mất cân bằng và cần phải được điều
trị. Nếu không được điều trị sẽ dễ dàng dẫn tới viêm đài bể thận cấp, từ đó gây ra
nhiều các tai biến khác như nhiễm toan ceton, đẻ non, nhiễm trùng ối [1].
22
Đẻ non: người bị đái tháo đường thai kỳ tăng nguy cơ đẻ non so với
thai phụ không bị đái tháo đường. Tỷ lệ đẻ non ở phụ nữ đái tháo đường thai
kỳ là 26% trong khi ở quần thể thường chỉ là 9,7%. Các nguyên nhân dẫn đến
đẻ non là kiểm soát glucose máu kém, nhiễm trùng tiết niệu, đa ối, tiền sản
giật, tăng huyết áp…[1].
Đa ối: đa ối hay gặp ở phụ nữ mang thai bị đái tháo đường. Tỷ lệ đa
ối ở các thai phụ đái tháo đường thai kỳ cao gấp 4 lần so với các thai phụ
không đái tháo đường thai kỳ. Trong nghiên cứu của Farooq và cộng sự cho
thấy, tỷ lệ đa ối ở các thai phụ đái tháo đường thai kỳ chiếm tỷ lệ 18%, cao
hơn so với các thai phụ không bị đái tháo đường thai kỳ. Dịch ối nhiều thường
thấy từ tuần thai thứ 26 – 32. Dịch ối nhiều cũng làm tăng nguy cơ đẻnon [1].
Hậu quả lâu dài
Tăng nguy cơ bị đái tháo đường type 2 trong tương lai: những phụ
nữ có tiền sử ĐTĐTK sau khi sinh 6 – 8 tuần được làm lại nghiệm pháp dung
nạp đường huyết (OGTT) , nếu có sự bất thường dung nạp đường huyết trong
giai đoạn này thì đó là yếu tố dự báo nguy cơ cao các bà mẹ sẽ bị đái tháo
đường trong tương lai. Còn nếu nghiệm pháp dung nạp đường huyết kết quả
bình thường thì hàng năm cần phải kiểm tra đường máu lúc đói để phát hiện
sớm đái tháo đường. Nguy cơ mắc đái tháo đường type 2 càng lớn nếu bệnh
nhân có tình trạng kháng insulin nhiều. Tóm tắt của 28 nghiên cứu cho thấy,
tỷ lệ bị đái tháo đường type 2 của các phụ nữ có tiền sử đái tháo đường thai
kỳ từ 2,6% tới trên 70% với thời gian theo dõi từ 6 tuần tới 28 năm [35].
Tăng nguy cơ bị đái tháo đường thai kỳ ở những lần mang thai sau.
Bên cạnh nguy cơ bị đái tháo đường type 2, phụ nữ có tiền sử đái tháo
đường thai kỳ còn tăng nguy cơ bị đái tháo đường thai kỳ trong những lần có
thai sau đó. Họ cũng dễ bị béo phì, tăng cân quá mức sau đẻ nếu không có chế
độ ăn và luyện tập thích hợp.
23
1.1.6.2. Hậu quả đối với thai nhi và trẻ sơ sinh
Thai to (macrosomia): theo Thomas R.Moore, tỷ lệ thai to ở các bà mẹ
bị ĐTĐTK từ 15 – 45%, cao gấp 3 lần so với những bà mẹ có glucose máu
bình thường [36]. Thai to với phân bố mỡ chủ yếu ở vùng ngực làm tăng nguy
cơ đẻ khó và có các sang chấn tổn thương sau đẻ như liệt đám rối thần kinh
cánh tay, gẫy xương đòn, trật khớp vai, ngạt. Thai to làm tăng nguy cơ phải
mổ đẻ. Tỷ lệ mổ đẻ với các thai to là 47% [32].Pedersen cho rằng thai to là do
tăng glucose máu mẹ đi qua rau thai làm đường máu thai tăng sẽ kích thích
tụy thai tăng sản xuất insulin gây cường insulin ở thai [37]. Mà insulin có tác
dụng đồng hóa kích thích tăng trưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua các yếu tố tăng trưởng.
Hạ glucose máu sau sinh trong những ngày đầu sau đẻ: khi glucose
máu mẹ tăng và 3 tháng cuối thai kỳ và đặc biệt là vào giai đoạn chuyển dạ thì
glucose máu của thai cũng sẽ tăng sẽ kích thích tụy thai nhi tăng sản xuất
insulin. Sau khi sinh, nguồn glucose máu từ mẹ cung cấp cho thai ngừng đột
ngột nhưng nồng độ insulin trong máu con vẫn cao. Insulin cao làm cho các
mô bắt giữ glucose nhiều hơn trong gan khi gan trẻ sơ sinh vẫn chưa sản xuất
được đủ glucose dẫn đến hạ glucose máu.
Hạ canxi máu sơ sinh: trong 3 ngày đầu tỷ lệ hạ canxi máu có thể đạt
tới 50% nếu kiểm soát glucose máu mẹ không tốt. Khi glucose máu của mẹ
không kiểm soát tốt, mẹ sẽ bị mất ion Mg qua nước tiểu làm nồng độ Mg máu
mẹ giảm dẫn đến nồng độ Mg máu con giảm. Mất Mg sẽ ảnh hưởng tới sự bài
tiết hormon PTH của thai nhi gây hạ canxi máu.
Đa hồng cầu: tỷ lệ đa hồng cầu gặp từ 12 – 40% tùy theo nghiên cứu.
Hiện tượng đa hồng cầu ở trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị ĐTĐ là: thứ nhất do
thiếu oxy máu làm tăng sản xuất erythropoietin, nồng độ erythropoietin của
trẻ vào lúc sinh sẽ tương quan với nồng độ glucose máu và nồng độ insulin
24
trong nước ối và máu cuống rốn. Thứ hai do thay đổi phân bố dòng máu giữa
nhau và thai nhi.
Vàng da do tăng bilirubin máu: do nhiều yếu tố như tăng khối lượng tế
bào máu, tan máu, chấn thương, chậm sản xuất các men của gan… Nhưng
nguyên nhân chủ yếu là đa hồng cầu và đẻ non.
Hội chứng suy hô hấp cấp chu sinh: con của các bà mẹ bị đái tháo
đường thường có xu hướng to hơn bình thường và tăng nguy cơ đẻ non. Do đẻ
non mà phổi của thai nhi chưa trưởng thành nên dễ bị suy hô hấp lúc được
sinh ra. Ngoài ra nếu kiểm soát glucose máu cho các bà mẹ ĐTĐTK không tốt
sẽ dẫn đến bất thường sản xuất chất surfactant ở phổi gây bệnh màng trong.
Tử vong chu sinh: tử vong chu sinh là hậu quả nghiêm trọng và thường
xảy ra ở những trẻ có mẹ bị ĐTĐTK không được điều trị. Tỷ lệ chết chu sinh
của các trẻ em sinh ra từ những bà mẹ bị ĐTĐTK đã giảm 30 lần kể từ khi
phát hiện ra insulin vào năm 1922 và nhất là khi có sự chăm sóc tích cực sau
những năm 1970. Tuy nhiên, người ta nhận thấy rằng tỷ lệ tử vong chu sinh
của các trẻ sinh ra từ các thai phụ đái tháo đường thai kỳ vẫn cao hơn các thai
phụ không bị đái tháo đường.
Dị tật bẩm sinh: trẻ có mẹ bị đái tháo đường thai kỳ tăng nguy cơ bị các
dị tật bẩm sinh hơn các trẻ có mẹ không bị bệnh này. Trong nghiên cứu của
Schaefer, tác giả nhận thấy trẻ của các bà mẹ đái tháo đường thai kỳ tăng tỷ lệ
bị các dị tật bẩm sinh và đặc biệt các dị tật bẩm sinh này thường chỉ xảy ra ở
những trẻ có mẹ bị tăng đường máu lúc đói vượt quá 6,7mmol/l. Cũng trong
nghiên cứu này tác giả chỉ ra rằng, nếu đường máu lúc đói càng cao thì càng
có dị tật bẩm sinh ở nhiều cơ quan[38].
Một số nguy cơ khác như: thai chậm phát triển trong tử cung, phì đại cơ
tim, tăng độ nhớt máu, huyết khối tĩnh mạch thận…
25
Hậu quả lâu dài: trẻ sinh ra từ những bà mẹ đái tháo đường thai kỳ nói
riêng và những bà mẹ đái tháo đường nói chung trong tương lai dẽ bị béo phì
và tăng nguy cơ bị ĐTĐ type 2.
Tóm lại ĐTĐTK nếu không được chẩn đoán và điều trị có thể gây ra rất
nhiều các biến chứng cho cả mẹ và con, đặc biệt là có thể có những biến
chứng nguy hiểm tới tính mạng của mẹ và thai nhi. Tuy nhiên qua các nghiên
cứu đều thấy rằng hầu hết các biến chứng này đều có thể dự phòng được nếu
kiểm soát đường máu của mẹ tốt. Vì vậy, chẩn đoán và điều trị kịp thời đái
tháo đường thai kỳ là hết sức quan trọng giúp cho dự phòng các biến chứng
một cách có hiệu quả.
1.1.7. Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
Cho tới nay vẫn chưa có tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ
thống nhất trên toàn thế giới như là tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường cho
người không mang thai. Theo khuyến cáo của ADA (2012) [39] đưa ra tiêu
chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp đường
huyết 2 giờ với 75 gram đường.
Các thai phụ ở thời điểm thai từ 24 – 28 tuần được làm nghiệm pháp dung
nạp glucose với 75g glucose, đo glucose máu lúc đói và glucose máu ở thời điểm
sau 1 giờ và 2 giờ.Nghiệm pháp này được thực hiện vào buổi sáng sau khi thai
phụ nhịn đói qua đêm ít nhất là 8 giờ. Chẩn đoán ĐTĐTK khi thai phụ có bất kỳ
chỉ số glucose máu nào bằng hoặc lớn hơn ngưỡng chẩn đoán:
Thời điểm lấy mẫu
Ngưỡng giá trị chẩn đoán
Glucose máulúc đói
≥ 5,1mmol/l
Glucose máu sau 1 giờ
≥ 10,0mmol/l
Glucose máu sau 2 giờ
≥ 8,5mmol/l
26
1.2. Các adipokines trong thai kỳ
Mô mỡ không chỉ liên quan đến việc dự trữ năng lượng mà còn có chức
năng như một cơ quan nội tiết tiết ra các phân tử có hoạt tính sinh học khác
nhau, được gọi chung là adipokines hoặc adipocytokin. Adipokines tham gia
vào một loạt các quá trình sinh lý bao gồm cầm máu, chuyển hóa lipid, xơ
vữa động mạch, điều chỉnh huyết áp và độ nhạy cảm với insulin. Trong các
adipokines thì leptin, resistin, visfatin, retinol-binding protein 4 (RBP4) đã
được tìm hiểu và chứng minh trong quá trình mang thai nhưng vai trò của nó
vẫn chưa được tìm hiểu rõ ràng.
1.2.1. Leptin
Leptin là một loại protein, có TLPT 16 kDa, được phát hiện vào năm
1994, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết tiêu thụ năng lượng. Leptin
được sản xuất chủ yếu từ các tế bào mỡ, nồng độ leptin trong huyết thanh tỷ
lệ thuận với khối lượng chất béo.Leptin còn tham gia vào một số quá trình
sinh lý trong đó có chức năng về nội tiết, viêm, phản ứng miễn dịch, sinh sản
và hình thành mạch. Do đó nó làm tăng độ nhạy cảm với insulin qua việc ảnh
hưởng đến bài tiết insulin, sử dụng glucose, tổng hợp glycogen, chuyển hóa
acid béo, bài tiết gonadotropin để quy định việc tiết hormon từ vùng dưới đồi
và kích thích hệ thống thần kinh giao cảm [39].
Trong thời kỳ mang thai, nồng độ leptin tăng, đạt đỉnh điểm vào tuần thứ
28 của thai kỳ và giảm ngay sau khi sinh [40]. Trong đái tháo đường thai kỳ
thì hầu hết các nghiên cứu đã tìm thấy sự gia tăng nồng độ leptin trong
ĐTĐTK [22], [41].
1.2.2. Resistin
Resistin là một loại protein, có TLPT 12.5kDa, được phát hiện vào năm
2001 [42]. Nó được gọi là “resistin” vì quan sát thấy có sự kháng insulin trong
con chuột được tiêm resistin [42]. Resistin được tiết ra từ các mô mỡ ở các
27
loài gặm nhấm, còn ở người nó có thể được sản xuất ở cơ, đảo tụy, tế bào
đơn nhân và nhau thai[43], [44]. Những nghiên cứu gần đây cho rằng
resistin có vai trò trong sự đề kháng insulin và adipokine này có thể là mối
liên hệ giữa béo phì và kháng insulin[42].Nồng độ resistin ở phụ nữ mang
thai tăng đáng kể so với những phụ nữ không mang thai, hơn nữa nó cũng
tăng lên trong quá trình thai nghén [45]. Trong một số báo cáo cho rằng
nồng độ resistin ở bệnh nhân ĐTĐTK không thay đổi so với những phụ nữ
mang thai khỏe mạnh [46].
1.2.3. Visfatin
Visfatin là một loại protein, có TLPT 52kDa. Nó được sản xuất bởi các
mô mỡ nội tạng. Ngoài ra nó còn được sản xuất ở cơ, gan, bạch cầu đơn nhân,
tim và thận [47]. Sự biểu hiện của visfatin tăng lên trong sự phát triển của
bệnh béo phì và ĐTĐ type 2 [48]. Ở những phụ nữ mang thai bình thường có
cân nặng bình thường thì nồng độ visfatin trong huyết thanh của mẹ cao nhất
từ 19 – 26 tuần thai và có một điểm thấp nhất từ 27 – 34 tuần thai [49]. Ở phụ
nữ bị ĐTĐTK, theo nghiên cứu của Lewandowski và cộng sự [50] thì nồng
độ visfatin được tăng lên trong điều kiện kháng insulin, tuy nhiên mối quan hệ
giữa visfatin và kháng insulin trong thai kỳ vẫn chưa rõ ràng. Nhưng theo
nghiên cứu của Chan và cộng sự [51] thì có sự giảm nồng độ của visfatin ở
những bệnh nhân bị ĐTĐTK. Vì thế nồng độ của visfatin trong ĐTĐTK vẫn
còn phải đi sâu nghiên cứu thêm.
1.2.4. Retinol – binding protein 4 (RBP4)
RBP4 có TLPT 21 kDa, được tổng hợp trong tế bào gan và mỡ, phuc vụ
cho việc vận chuyển retinol trong máu. Tăng nồng độ RBP4 quá mức hoặc
tiêm RBP4 tái tổ hợp vào những con chuột bình thường sẽ gây ra tình trạng
kháng insulin. Tăng nồng độ RBP4 có thể gây ra nhiều biến chứng về chuyển
hóa như béo phì, kháng insulin, hội chứng buồng trứng đa nang, bệnh lý tim
28
mạch [52]. Nghiên cứu về nồng độ RBP4 huyết thanh trong thời kỳ mang thai
bình thường cho ra kết quả trái ngược nhau, nồng độ RBP4 được tăng lên ở
đầu và cuối thai kỳ, đó là mối liên quan với sự suy giảm độ nhạy cảm insulin
[52]. Ngược lại, Inoue và cộng sự [53],lại cho rằng nồng độ RBP4 có xu
hướng giảm ở giai đoạn đầu thai kỳ và có sự khác biệt đáng kể từ giữa và cuối
thai kỳ. Ở những bệnh nhân bị ĐTĐTK, một số tác giả cho thấy có sự tăng
đáng kể nồng độ RBP4 trong huyết thanh [54], một số tác giả khác lại cho
rằng không tìm thấy sự khác biệt hoặc nồng độ thấp hơn của adipokine so với
những phụ nữ mang thai khỏe mạnh [55]. Vì thế mối liên quan của RBP4 ở
bệnh nhân ĐTĐTK vẫn đang được làm sáng tỏ.
1.3. Tổng quan về Adiponectin
1.3.1. Cấu trúc
1.3.1.1. Lịch sử phát hiện Adiponectin
Adiponectin được phát hiện vào những năm 1990 bởi bốn nhóm nghiên
cứu độc lập, vì thế Adiponectin được biết đến với những tên gọi khác nhau
xuất phát từ các nghiên cứu trên [8].
Acrp30 (adipocytes complement-related protein of 30 kDa)
AdipoQ, GBP28 (gelatin binding protein of 28 kDa)
apM1 (adipose most abundant gen transcript 1)
Adiponectin là một protein giống collagen, được cấu tạo bởi 224 acid
amin, trọng lượng phân tử là 30kDa, nó được tổng hợp gần như hoàn toàn từ
các tế bào mỡ.Cấu trúc của adiponectin gồm có 4 vùng phân biệt.Đầu tiên là 1
chuỗi tín hiệu ngắn, là đích tác dụng để hormon được bài tiết ra bên ngoài tế
bào.Tiếp theo là vùng rất thay đổi giữa các loài khác nhau, vùng thứ 3 gồm có
65 acid amin có cấu trúc tương tự protein collagen, cuối cùng là vùng có cấu
trúc hình cầu. Trong máu adiponectin tồn tại ở 3 dạng khác nhau là trimer,
29
hexamer và trọng lượng phân tử cao (HMW: high molercular weight) là các
adiponectin có từ 12-mer đến 18-mer [56].
Hình 1.1. Cấu trúc không gian của Adiponectin
Hình 1.2. Các dạng phân tử của Adiponectin
30
1.3.1.2. Gen mã hóa và thụ thể Adiponectin
Gen adiponectin nằm trên nhiễm sắc thể 3q26, thuộc khu vực có liên quan với
sự phát sinh hội chứng chuyển hóa và đái tháo đường type 2 [57]. Sự biểu lộ
mRNA adiponectin phụ thuộc vào vị trí của mô mỡ ở cơ xương hay ở gan.
Có hai gen mã hóa thụ thể của adiponectin là adipoR1 và adipoR2 theo thứ tự
nằm trên nhiễm sắc thể 1q32 và 12p13 với sự biểu lộ tương ứng của mRNA
adiponectin ở cơ xương và gan [58]. Tuy nhiên con đường truyền tín hiệu trong
các thụ thể adipoR1 và adipoR2 đến nay vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ.
Thụ thể adipoR1 có liên quan chặt chẽ với sự hoạt hóa thông qua con
đường tín hiệu AMPK có vai trò điều hòa ức chế chuyển hóa tân tạo glucose
và phối hợp với tăng oxy hóa mỡ [58].
Thụ thể adipoR2 có liên quan mạnh mẽ với sự hoạt hóa con đường tín
hiệu PPAR-γ (peroxisome proliferator-activated receptor-γ), con đường tín
hiệu này kích thích quá trình tiêu thụ năng lượng bằng tăng cường oxy hóa
mỡ, ức chế viêm và stress oxy hóa [59], [60].
Hình 1.3. Sơ đồ con đường tín hiệu của các thụ thể Adiponectin
31
Vai trò của PPAR-γ là làm tăng tổng hợp và bài tiết adiponectin, ngược
lại khi dư thừa năng lượng adiponectin giảm xuống hoặc thiếu hụt hay đề
kháng leptin [58]. Ngoài ra sự tương tác của protein điều biến APPL1 với
adipoR1 có vai trò quan trọng đối với dòng tín hiệu adiponectin [61]. Sau khi
gắn với adipoR1, adiponectin có tác dụng làm tăng nhạy cảm insulin và tăng
tiêu thụ mỡ làm phục hồi lại tác dụng của leptin.Trong khi đó lại có khả năng
chống lại quá trình xơ vữa động mạch, chống viêm và chống oxy hóa, vì vậy
adiponectin ngăn cản được sự phát triển của béo phì [49].
1.3.2. Vai trò sinh học của Adiponectin
1.3.2.1. Adiponectin trong đái tháo đường
Adiponectin là một trong nhưng protein do mô mỡ bài tiết, có tác động
lên một số quá trình chuyển hóa trong cơ thể, trong đó có điều hòa chuyển
hóa glucose do đó đã gợi ý về vai trò của nó trong quá trình phát triển bệnh
đái tháo đường. Adiponectin có tác dụng làm tăng nhạy cảm với insulin ở các
mô ngoại vi, chống viêm và chống xơ vữa. Nó kích thích sự hấp thu glucose
trong cơ xương và làm giảm sản xuất glucose ở gan. Các tác động này là do
adiponectin hoạt hóa trực tiếp 5' Adenosin monophosphat activated protein
kinase (AMPK) ở cơ, làm tăng phosphoryl hóa acetyl coenzym A (CoA), hoạt
hóa enzym protein kinase và hoạt hóa thụ thể α của vi thể peroxi. Một cơ chế
khác trong chức năng bảo vệ của adiponectin là khả năng cải thiện chức năng
bài tiết insulin của tế bào β, do adiponectin có tác dụng kháng lại các rối loạn
do cytokine và acid béo gây ra trong tế bào[62]. Hơn nữa nồng độ adiponectin
tương quan nghịch với nồng độ triglycerid huyết tương và tích cực liên quan
đến nồng độ HDL - cholesterol [13].Masubara và cộng sự [14] đã chứng minh
rằng nồng độ adiponectin huyết thanh không chỉ tỉ lệ nghịch với nồng độ chất
béo trung tính, chỉ số xơ vữa , apolipoprotein B và E mà còn tích cực liên
quan đến HDL – cholesterolvà apo A1 trong đái tháo đường ở bệnh nhân nữ.
32
Nồng độ adiponectin trong huyết tương cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
như: giới tính, tuổi tác, phong cách sống. Nồng độ adiponectin ở nam giới
giảm hơn ở nữ giới, và điều này có thể gây ra bởi nội tiết tố androgen [63].
Nồng độ adiponectin giảm có liên quan chặt chẽ với mức độ kháng insulin và
tăng insulin trong một nghiên cứu tiến hành ở người Ấn Độ và người da trắng
có biểu hiện rối loạn dung nạp glucose [12]. Dân tộc cũng đóng một vai trò
trong sự thay đổi nồng độ adiponectin, trong một nghiên cứu cho thấy nồng
độ cao hơn đáng kể của adiponectin ở người da trắng so với người Ấn Độ Châu Á với chỉ số BMI phù hợp [64]. Hơn nữa biểu hiện gen adiponectin bị
ức chế bởi β – adrenergic, glucocorticoids và TNFα [65], [66]. Các stress oxy
hóa cũng ức chế biểu hiện của các adiponectin [67]. Nồng độ adiponectin thấp
có lên quan đến đái tháo đường type 2, kháng insulin, béo phì, tăng huyết áp
và phì đại thất trái [13].
Tóm lại, mức adiponectin thấp có giá trị tiên lượng, dự báo khả năng
phát triển bệnh đái tháo đường và cho đến nay adiponectin tiếp tục là mối
quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học nhằm đưa ra những giải pháp
mới trong việc chẩn đoán sớm, tiên lượng, theo dõi sự phát triển và điều trị
bệnh đái tháo đường nói riêng và bệnh chuyển hóa nói chung.
1.3.2.2. Adiponectin và kháng insulin
Có một sự tương quan mạnh mẽ giữa adiponectin và sự nhạy cảm insulin
trong các nghiên cứu ở chuột, động vật có vú khác và con người.
Trong các thí nghiệm được tiến hành bởi Berg và cộng sự [68], tiêm
adiponectin vào trong phúc mạc của những con chuột hoang dại bị đái tháo
đường type 1 và đái tháo đường type 2, nhận thấy rằng lượng đường trong
những con chuột này giảm đáng kể, nhưng nồng độ insulin ở những con chuột
bị ĐTĐ type 1 không tăng trong khi đó nồng độ insulin tăng ở những con
chuột bị ĐTĐ type 2. Các nghiên cứu của Yamauchi và cộng sự [69], cũng đã
33
cho thấy tác dụng tương tự, cụ thể là cải thiện độ nhạy cảm insulin và cải
thiện đường huyết ở những con chuột bị béo phì, đái tháo đường.
Nồng độ adiponectin đã được chứng minh là giảm song song với sự tiến
triển của kháng insulin trong quá trình phát triển của bệnh ĐTĐ type 2 ở khỉ
nâu [70].Một nghiên cứu của Bogan và Lodish [71], đã chỉ ra rằng sự chế tiết
adiponectin bởi các tế bào mỡ 3T3-L1 đòi hỏi phosphatidylinositol 3-kinase
(PI-3K), một trung gian chính của hoạt động truyền tín hiệu insulin. Insulin
kích thích nền thụ thể insulin 1 (IRS-1) liên quan đến hoạt động PI-3K đã
được chứng minh là giảm trong các tế bào mỡ ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 [72].
Do đó nó làm giảm hoạt động của PI-3K adipocyte ở bệnh nhân ĐTĐ type 2
gây giảm nồng độ adiponectin.
Mối liên hệ giữa nồng độ adiponectin và kháng insulin đã được khẳng
định thêm bởi các nghiên cứu với TZDs (thiazolidinediones).Kết quả cho thấy
là TZDs có tác dụng làm tăng nồng độ adiponectin huyết tương ở người
kháng insulin, ở động vật gặp nhấm và các đối tượng có bệnh ĐTĐ type 2
[73], [74]. Hơn nữa, adiponectin có thể là một dấu ấn sinh học của cơ thể, có
sự gia tăng nồng độ adiponectin huyết tương chỉ sau 14 ngày điều trị với
rosiglitazone. Phát hiện này đã được hỗ trợ bởi một nghiên cứu gần đây ở
chuột, cho thấy một sự gia tăng tương tự trong nồng độ adiponectin sau 2 tuần
điều trị với TZDs [70].
Vai trò của adiponectin trong việc giảm sự đề kháng insulin đã được
chứng minh bởi các nghiên cứu xa hơn ở người và chuột với lipodystrophies
[69], [75], [76]. Lipodystrophies được đặc trưng bởi sự mất mát những mô
mỡ trong cơ thể và đề kháng insulin. Nồng độ adiponectin huyết thanh thấp ở
những bệnh nhân có lipodystrphies và có thể liên quan đến sự vắng mặt của
các mô mỡ và liên quan đến tình trạng kháng insulin. Yamauchi và cộng sự
34
[69], cho thấy điều trị chuột lipoatrophic với liều adiponectin sinh lý thì thấy
tình trạng tăng đường huyết được cải thiện và tăng insulin.
Nghiên cứu của Bauche và cs (2007); Dietze-Schroeder và cs (2005) cho
thấy thông qua cơ chế ức chế biểu hiện TNF-α và ức chế viêm ở mô mỡ,
adiponectin có tác dụng làm tăng cường và cải thiện sự nhạy cảm của insulin
[77]. Các nghiên cứu khác gần đây trên người đều chứng minh tăng nồng độ
adiponectin huyết tương có liên quan chặt chẽ và độc lập với giảm nguy cơ
mắc bệnh ĐTĐ type 2 ở những người khỏe mạnh [78], [79].
1.3.2.3. Adiponectin trong thai kỳ bình thường
Trong quá trình mang thai có sự trao đổi chất dinh dưỡng giữa mẹ và
thai nhi để duy trì sự tăng trưởng của thai nhi. Sự đề kháng insulin phát triển
trong nửa cuối thai kỳ, đồng thời với sự tăng trọng lượng của mẹ cũng như
của thai nhi. Như vậy sự thay đổi của người mẹ trong quá trình mang thai có
thể ảnh hưởng đến nồng độ adiponectin. Những nghiên cứu gần đây đã kiểm
tra nồng độ adiponectin huyết thanh ở phụ nữ mang thai trong những thời
điểm cố định của thai kỳ[80]. Cseh và cộng sự đã cho thấy nồng độ thấp hơn
của adiponectin trong 30 phụ nữ mang thai bị đái tháo đường so với 40 phụ
nữ mang thai bình thường [81]. Kết quả tương tự được quan sát bởi Worda và
cộng sự ở 20 phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ với 21 phụ nữ mang thai không
bị đái tháo đường [82].
Trong quá trình mang thai sự tiết adiponectin của mẹ giảm dần [10]. Sự
giảm này có liên quan đến giảm 60% nồng độ adiponectin mARN trong mô
mỡ trắng[12].Cả nồng độ adiponectin huyết thanh và adiponectin mARN đều
tỷ lệ nghịch với khối lượng chất béo, điều đó cho thấy rằng các mô mỡ có liên
quan đến tín hiệu cho việc giảm sản xuất adiponectin ngay cả trong trường
hợp không có béo phì[12].