Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN và NGHĨA vụ của NGƯỜI nộp THUẾ TRONG QUAN hệ PHÁP LUẬT THUẾ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.76 KB, 51 trang )

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ
3
1.1. BẢN CHẤT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA NGƯỜI
NỘP

THUẾ

TRONG

QUAN

HỆ

PHÁP

LUẬT

THUẾ

3
1.1.1. Bản chất pháp lý của quan hệ pháp luật thuế và vị trí pháp lý của
người

nộp



thuế

trong

quan

hệ

pháp

luật

thuế

3
1.1.2. Bản chất quyền của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế
7
1.1.3. Bản chất nghĩa vụ của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế
9
1.2. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ THEO
PHÁP

LUẬT

HIỆN

HÀNH

11

1.2.1. Các quyền cơ bản của người nộp thuế theo pháp luật hiện hành


2

11
1.2.2. Các nghĩa vụ cơ bản của người nộp thuế theo pháp luật hiện hành 21
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT
NAM 31
2.1. THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI NỘP
THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM
31
2.1.1.

Thực

tiễn

thi

hành

quyền

của

người

nộp


thuế

31
2.1.2.

Thực

tiễn

thi

hành

nghĩa

vụ

của

người

nộp

thuế

35

2.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO KHẢ
NĂNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA

NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT
NAM
39
2.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
nộp

thuế

trong

quan

hệ

pháp

luật

thuế

39
2.2.2. Các giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về quyền và nghĩa
vụ

của

người

nộp


thuế

trong

quan

hệ

pháp

luật

thuế


3

40
KẾT

LUẬN

45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


4

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới được hơn hai mươi năm, trong

hơn hai mươi năm đó chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu quan trọng, đồng
thời cũng rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu cho mình. Công cuộc đổi mới
xây dựng đất nước với mục tiêu đưa Việt Nam phát triển nhanh, mạnh mẽ và
bền vững tiến theo kịp thời đại, hòa nhịp chung cùng sự phát triển của thế giới.
Với công cuộc xây dựng đổi mới này chúng ta cần rất nhiều nguồn vốn để thực
hiện các mục tiêu đề ra. Nhiều nguồn vốn được huy động như vốn trong nước,
vốn nước ngoài… được tập hợp lại trong ngân sách nhà nước và được gọi là
nguồn thu ngân sách nhà nước. Trong ngân sách nhà nước của chúng ta thì
nguồn thu chủ yếu vẫn là từ thuế, nguồn thu từ thuế giữ vai trò chủ đạo trong
nguồn thu ngân sách nhà nước.
Một điều mà chúng ta cũng dễ nhận thấy là Việt Nam đang ngày càng hội
nhập với thế giới điều đó được thể hiện qua việc chúng ta tham gia và hoạt động
rất tích cực ở các tổ chức kinh tế và tổ chức chính trị như AFTA, ASEAN, WTO,
APEC và trong năm 2008-2009 Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội
đồng bảo an Liên hợp quốc. Việc tham gia và hoạt động rất tích cực này của Việt
Nam cùng chính sách muốn làm bạn với các nước, cùng hợp tác và phát triển đã
giúp chúng ta nâng cao vị thế, vai trò và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế, làm thay đổi cách nhìn của các quốc gia đối với Việt Nam, chính điều này đã
làm tăng nguồn vốn đầu tư từ các nước tới Việt Nam. Như vậy lại có một nguồn
thuế nữa được thu cho ngân sách.
Do những yếu tố kể trên mà trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế
quốc tế như Việt Nam hiện nay thì việc nâng cao quản lý nhà nước về thuế là
một tất yếu khách quan. Phải tạo cho tất cả đối tượng nộp thuế, không chỉ là tổ
chức cá nhân trong nước mà cả tổ chức cá nhân nước ngoài hiểu rõ quyền và
nghĩa vụ của mình. Thuế là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của người nộp
thuế do vậy phải làm sao để người nộp thuế tự nhận thấy trách nhiệm của mình


5


trong việc nộp thuế, phải hướng tới người nộp thuế như là một vị trí trung tâm
trong quan hệ pháp luật thuế. Bên cạnh đó cũng phải tạo ra một cơ chế quản lý
và điều hành cho cơ quan quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu quả trong việc nộp
thuế của người nộp thuế và thu thuế của cơ quan nhà nước. Qua đề tài này ta sẽ
nghiên cứu để làm rõ bản chất quyền và nghĩa vụ người nộp thuế trong quan hệ
pháp luật thuế ở Việt Nam. Với cấu trúc nội dung đề tài gồm 2 Chương;
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN THI HÀNH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên của em do đó không thể
tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được ý kiến nhận xét đánh giá của
thầy cô và các bạn.


6

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
NỘP THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ
1.1. BẢN CHẤT QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA NGƯỜI NỘP
THUẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT THUẾ
1.1.1. Bản chất pháp lý của quan hệ pháp luật thuế và vị trí pháp lý
của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế
1.1.1.1. Bản chất pháp lý của quan hệ pháp luật thuế
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu
khách quan, gắn với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Từ những nhà
nước sơ khai đầu tiên thì thuế được biểu hiện với hình thức đơn giản dưới dạng
những vật phẩm được cống nạp, càng phát triển về sau thì thuế lại được biểu

hiện khác đi, nó dần chuyển sang hình thức giá trị. Sự xuất hiện và phát triển của
thuế gắn với mỗi giai đoạn lịch sử và lợi ích mà nhà nước sử dụng làm công cụ
điều tiết nguồn thu cho nền kinh tế, xã hội ấy.
Nhiều quan niệm về thuế được đưa ra, mỗi quan niệm lại nhìn nhận thuế
ở mỗi khía cạnh khác nhau, nhưng hiện nay thuế được hiểu chung là khoản thu
ngân sách của ngân sách nhà nước mà theo đó các tổ chức cá nhân đủ điều kiện
luật định phải đóng cho nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả, không đối
giá. Bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, loại quan hệ
giữa nhà nước với người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã
hội có chế độ kinh tế, chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể hiện quan
hệ thu và nộp như nhau [1,tr10]. Thuế có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì
hoạt động của bộ máy nhà nước, nên các nhà nước đều tạo cơ sở pháp lý cho
việc thu thuế bằng cách ban hành các đạo luật về thuế, do vậy hệ thống pháp luật
thuế được hình thành, thể hiện ý chí của nhà nước và giai cấp thống trị trong
việc thu thuế.


7

Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước
để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Pháp luật thuế có vai trò tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho
nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Nhà nước sử dụng pháp luật
thuế như một công cụ để điều tiết nền kinh tế, định hướng chi tiêu, thực hiện
chính sách xã hội và thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà
nước. Trong quá trình hoạt động, phát triển các tổ chức, cá nhân chạy theo lợi
ích và nhu cầu của mình, điều này làm tổn thương đến trật tự xã hội cũng như
những định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn nên pháp luật thuế có thể

làm thay đổi hoặc can thiệp vào hoạt động của các tổ chức cá nhân nhằm đạt tới
mục tiêu nhất định. Còn trong quá trình tiêu dùng pháp luật thuế ghi nhận rõ sự
hạn chế chi tiêu của các đối tượng hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp với hiện tại.
Thông qua pháp luật thuế Nhà nước có thể kiểm tra gián tiếp các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế là quan hệ pháp luật thuế. Quan
hệ pháp luật thuế ở đây là quan hệ giữa người nộp thuế và Nhà nước mà đại diện
của Nhà nước ở đây lại là các cơ quan có thẩm quyền. Ta có thể đưa ra khái
niệm quan hệ pháp luật thuế là “ Quan hệ xã hội giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với cá nhân, tổ chức được điều chỉnh bởi hệ thống văn bản pháp luật
thuế”
Xét về bản chất, quan hệ pháp luật thuế là quan hệ pháp luật hành chính,
thiết lập giữa Nhà nước với các pháp nhân và thể nhân khác trong xã hội và
được điều chỉnh bởi phương pháp mệnh lệnh quyền uy. Đây là một quan hệ
pháp luật hành chính nên ở đó cơ quan nhà nước được sử dụng quyền lực nhà
nước để đảm bảo rằng các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế phải thực hiện
nghĩa vụ này đúng luật định.


8

Dưới góc độ kinh tế, quan hệ pháp luật thuế được thiết lập để tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, tiền đề thiết lập quan hệ pháp luật thuế là sự hình
thành nhà nước để điều hành quản lý các hoạt động trong xã hội, bộ máy nhà
nước đó cần có một nguồn vật chất để hoạt động nên thuế được hình thành. Khi
đó phát sinh nghĩa vụ thuế của các tổ chức cá nhân là phải chuyển dịch quyền sở
hữu một phần tài sản của mình cho nhà nước. Do vậy việc nộp thuế ở đây không
phải là sự lựa chọn của đối tượng nộp thuế mà do yêu cầu cầu nhà nước.
Có thể nhận thấy rằng trong quan hệ pháp luật thuế thì Nhà nước với tư
cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi

phối quan hệ pháp luật đó và quan hệ pháp luật thuế luôn hướng tới việc chuyển
giao bắt buộc một nguồn tài chính vào cho nhà nước.
1.1.1.2 Vị trí pháp lý của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật
thuế
Trong quan hệ pháp luật thuế chủ thể tham gia bao gồm Nhà nước mà
đại diện của nhà nước ở đây là các cơ quan có thẩm quyền và tổ chức cá nhân có
đủ điều kiện do nhà nước quy định.
Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Quản lý thuế 2006 thì người nộp
thuế là: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về
thuế; Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà
nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy
định của pháp luật; Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục
về thuế thay người nộp thuế.
Tại Nghị định 85/2007/NĐ-CP đã đưa ra đối tượng nộp thuế cụ thể hơn:
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, phí, lệ phí hoặc các khoản thu
khác thuộc ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước.


9

- Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế
thay người nộp thuế bao gồm:
+ Tổ chức, cá nhân là bên Việt Nam ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo quy định của pháp luật về đầu tư
và không thực hiện chế độ kế toán Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho người có thu
nhập thuộc diện nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
+ Tổ chức làm đại lý tàu biển, đại lý cho các hãng vận tải nước ngoài có
trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh

vận chuyển hàng hóa bằng tàu biển từ các cảng biển Việt Nam ra nước ngoài
hoặc giữa các cảng biển Việt Nam;
+ Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế;
+ Đại lý làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát
nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế cho tổ chức, cá nhân nộp thuế;
+ Tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của Luật
các Tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh nộp thuế cho tổ chức, cá nhân
nộp thuế.
Như vậy người nộp thuế là một chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế,
một chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ pháp luật thuế. Đây là chủ thể có
mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết và trực tiếp sáng tạo, quản lý các lợi ích vật chất
được hình thành trong xã hội. Cũng như các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp
luật khác, để trở thành người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế đòi hỏi các
tổ chức, cá nhân phải có năng lực chủ thể và năng lực hành vi và với tư cách là
một chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế người nộp thuế có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ để tham gia quan hệ pháp luật thuế, các quyền và nghĩa vụ này cũng
chính là một phần nội dung của quan hệ pháp luật thuế. Tuy nhiên do bản chất


10

của quan hệ pháp luật thuế là quan hệ pháp luật hành chính có sự tham gia của
Nhà nước nên không có sự bình đẳng giữa các chủ thể trong đó.
1.1.2. Bản chất quyền của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật
thuế
Trong quan hệ pháp luật nói chung thì quyền của chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật là cách xử sự mà pháp luật cho chủ thể được phép tiến hành. Nói
cách khác quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định
được pháp luật cho phép [2]. Người nộp thuế là một chủ thể trong quan hệ pháp

luật thuế mà quan hệ pháp luật thuế cũng là một quan hệ pháp luật do vậy quyền
của người nộp thuế chính là khả năng của người nộp thuế được phép xử sự theo
một cách nhất định mà pháp luật thuế cho phép. Quyền của người nộp thuế cũng
mang những đặc điểm chung của quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật đó là;
khả năng xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép; khả năng yêu
cầu các chủ thể khác chấm dứt hoạt động cản trở việc thực hiện quyền nghĩa vụ
của mình và yêu cầu họ tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền và
nghĩa vụ này; khả năng yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi
ích của mình. Quyền của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật thuế cũng có
những đặc trưng riêng đó là:
- Chỉ phát sinh khi tham gia quan hệ pháp luật thuế tức khi tham gia vào
quan hệ pháp luật thuế, người nộp thuế mới có những quyền mà pháp luật thuế
trao cho. Tổ chức cá nhân là người nộp thuế nhưng khi họ không tham gia vào
quan hệ pháp luật thuế thì họ không có những quyền mà pháp luật thuế quy
định.
- Quyền của người nộp thuế thường gắn với việc thực thi của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mà ở đây là cơ quan thu và quản lý thuế. Do trong quan
hệ pháp luật thuế có hai chủ thể cơ bản là người nộp thuế và cơ quan thu, quản
lý thuế do vậy quyền của chủ thể này sẽ tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia.


11

Có nhiều cách phân loại quyền của người nộp thuế, dựa vào các tiêu chí
và cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau mà ta có thể phân chia ra thành các loại
quyền khác nhau:
* Dựa vào việc thụ hưởng quyền ta có thể chia thành quyền trực tiếp và
quyền gián tiếp
Trong đó quyền trực tiếp là quyền mà người nộp thuế có được trong quá
trình thực hiện nghĩa vụ thuế, chúng được thừa nhận và bảo đảm thực hiện theo

những quy định của pháp luật, tuy nhiên việc hưởng quyền này không phải
đương nhiên và ngang bằng về mặt lợi ích mà Nhà nước cho người nộp thuế
hưởng quyền này là để đảm bảo hiệu quả của quá trình thu thuế, đảm bảo vai trò
của thuế. Còn quyền gián tiếp là quyền mà người nộp thuế được hưởng thông
qua những tiện ích, phúc lợi công cộng mà Nhà nước cung cấp, những lợi ích
mà không phải chủ thể nào trong xã hội cũng có thể tạo ra được. Quyền này
không trực tiếp phát sinh từ nội hàm của quan hệ pháp luật thuế thuần túy, nó là
sự trở lại của thuế đối với đời sống xã hội, các giá trị được phân bổ trở lại cho
các chủ thể trong cộng đồng chứ không riêng gì người nộp thuế.
* Dựa vào quá trình nộp thuế ta có thể chia thành; quyền trước khi thực
hiện quan hệ nộp thuế, quyền trong quá trình nộp thuế, quyền khi có sự thay đổi
điều kiện nộp thuế
Trong từng giai đoạn của quá trình nộp thuế mà người nộp thuế có
quyền khác nhau. Giai đoạn trước khi thực hiện quan hệ pháp luật thuế thì người
nộp thuế có quyền được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin,
tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế; yêu cầu cơ quan quản lý thuế
giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế. Giai đoạn trong quá trình nộp thuế thì
người nộp thuế được hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của
pháp luật về thuế; được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức
quản lý thuế gây ra; khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tố cáo các hành vi vi


12

phạm pháp luật của công chức quản lý thuế và tổ chức, cá nhân khác. Còn khi có
sự thay đổi điều kiện nộp thuế thì người nộp thuế có quyền tạm hoãn hoặc chấm
dứt quan hệ pháp luật thuế với nhà nước.
Quyền của người nộp thuế thường ít được quy định trong các văn bản
luật thuế riêng, mà được quy định chung tại Luật quản lý thuế (2006) và quyền

này được quy định tại điều 6 của Luật Quản lý thuế.
1.1.3 Bản chất nghĩa vụ của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật
thuế
Nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự mà Nhà
nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của
chủ thể khác [2]. Như vậy nghĩa vụ của người nộp thuế trong quan hệ pháp luật
thuế là cách xử sự bắt buộc mà người nộp thuế phải thực hiện nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích của Nhà nước. Sự khác biệt giữa nghĩa vụ trong quan hệ pháp
luật với nghĩa vụ trong các quan hệ khác đó là sự chịu trách nhiệm pháp lý khi
xử sự không đúng với những quy định pháp luật, trách nhiệm pháp lý trong quan
hệ pháp luật thuế có thể là trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.
Nghĩa vụ của người nộp thuế có một số đặc trưng sau:
- Khác với quyền của người nộp thuế, nghĩa vụ ở đây được hình thành
khi người nộp thuế có đủ điều kiện chứ không phải là khi người nộp thuế tham
gia quan hệ pháp luật thuế mới có nghĩa vụ. Tức là khi các tổ chức cá nhân có
đủ các điều kiện để nộp thuế thì lập tức họ phải thực hiện các nghĩa vụ mà luật
quy định, nghĩa vụ này phát sinh đồng thời khi họ trở thành người nộp thuế.
- Nghĩa vụ của người nộp thuế là sự tuân thủ bắt buộc chứ không phải là
sự lựa chọn như quyền. Nghĩa vụ này chính là cách xử sự duy nhất mà Nhà nước
cho người nộp thuế được phép thực hiện nếu không xử sự như vậy thì người nộp
thuế sẽ phải chịu những chế tài mà nhà nước áp dụng cho họ nhằm đảm bảo tính
hiệu lực của pháp luật.


13

- Quyền của người nộp thuế chỉ là để nâng cao việc thu và quản lý thuế,
còn nghĩa vụ mới chính là sự đảm bảo cho việc thu thuế, việc thu cho ngân sách
nhà nước và đảm bảo vai trò của thuế. Nghĩa vụ là cơ sở để đảm bảo cho việc
nộp thuế được thực hiện.

Nghĩa vụ của người nộp thuế có thể được phân loại theo từng giai đoạn
của quá trình nộp thuế.
Trong giai đoạn trước khi thực hiện quan hệ nộp thuế người nộp thuế
phải thực hiện đăng ký thuế với cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền; cung cấp
chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa
vụ thuế, số hiệu và nội dung giao dịch của tài khoản mở tại ngân hàng thương
mại, tổ chức tín dụng khác.
Trong quá trình thu nộp thuế thì người nộp thuế phải có nghĩa vụ nộp
tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm; chấp hành chế độ kế toán, thống
kê và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật; ghi chép
chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, khấu trừ
thuế và giao dịch phải kê khai thông tin về thuế; lập và giao hoá đơn, chứng từ
cho người mua theo đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán
hàng hoá, cung cấp dịch vụ theo quy định của pháp luật; chấp hành quyết định,
thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế theo quy
định của pháp luật; chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của
pháp luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định. Trường
hợp chủ thể nộp thuế không thường xuyên phát sinh nghĩa vụ thuế đối với nhà
nước, quan hệ thu nộp thường được thực hiện và chấm dứt ngay sau khi sự kiện
pháp lý làm nảy sinh nghĩa vụ thuế cụ thể đó và chấm dứt khi đối tượng nộp
thuế đã hoàn thành nghĩa vụ của mình [1,tr.38].
Trong trường hợp có sự thay đổi về điều kiện nộp thuế thì người nộp
thuế có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản lý thuế biết.


14

Cũng giống như quyền của người nộp thuế, nghĩa vụ người nộp thuế
được quy định rất ít trong các văn bản luật thuế riêng biệt mà lại được quy đinh

tại luật Quản lý thuế (2006) nó được quy định tại Điều 7 của Luật quản lý thuế.
Do vậy trong đề tài này sẽ tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ của người nộp
thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế mà cụ thể là tại Điều 6 và Điều 7 của
luật.
1.2. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.2.1. Các quyền cơ bản của người nộp thuế theo pháp luật hiện
hành
1.2.1.1. Được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin,
tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế
Đây là quyền xuất hiện đầu tiên trước khi người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế của mình. Quyền này được ghi nhận tại khoản 1 Điều 6 Luật
Quản lý thuế 2006, nội dung của quyền này là người nộp thuế được biết quá
trình tham gia vào quan hệ pháp luật thuế mình có những quyền và nghĩa vụ gì
bằng việc được hướng dẫn, được cung cấp thông tin tài liệu về thuế. Cơ sở của
quyền này là mọi công dân có quyền được thông tin, được biết về pháp luật, biết
về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia các quan hệ xã hội, quan hệ pháp
luật. Đây cũng là một cách mà Nhà nước hay sử dụng để tạo sự hiểu biết rộng
rãi của mọi người về các chính sách, các quy định pháp luật của nhà nước.
Hướng dẫn nộp thuế là việc người nộp thuế được chỉ bảo cặn kẽ các bước của
quá trình nộp thuế, sự hướng dẫn này thường là của cơ quan thu và quản lý thuế
làm cho người nộp thuế biết mình phải làm gì và làm như thế nào trong quá
trình nộp thuế. Tất cả các đối tượng nộp thuế đều có quyền này nếu đối tượng
nào chưa hiểu, chưa rõ thì đều được hướng dẫn và cung cấp thông tin tài liệu
đầy đủ để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách tốt nhất. Việc ghi
nhận quyền nhằm hướng tới việc giúp người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ một


15


cách tốt nhất vì chính họ là những người đóng góp một phần tài sản của mình
cho nhà nước mà không mang tính hoàn trả không đối giá nên họ cần biết được
cụ thể việc đóng góp đó như thế nào. Đây được coi là một điểm mới khi ban
hành luật quản lý thuế.
1.2.1.2. Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn
định thuế; yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số lượng, chất lượng, chủng
loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
Trong quá trình nộp thuế nếu có thắc mắc thì người nộp thuế có quyền
yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích rõ về việc tính thuế và ấn định thuế cho
mình. Việc tính thuế và ấn định thuế này phải đúng theo quy định của pháp luật,
cơ quan quản lý thuế có nghĩa vụ giải thích rõ việc tính thuế và áp dụng thuế của
mình. Theo khoản 1 Điều 37 Luật quản lý thuế người nộp thuế theo phương
pháp kê khai bị ấn định thuế trong các trường hợp sau; không đăng ký thuế;
không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau mười ngày, kể từ ngày hết
thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế;
không khai thuế, không nộp bổ sung hồ sơ thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế
hoặc khai thuế không chính xác, trung thực, đầy đủ về căn cứ tính thuế; không
phản ánh hoặc phản ánh không đầy đủ, trung thực, chính xác số liệu trên sổ kế
toán để xác định nghĩa vụ thuế; không xuất trình sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ
và các tài liệu cần thiết liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp trong thời
hạn quy định; mua, bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ không
theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường; có dấu hiệu bỏ trốn hoặc phát
tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thuế. Việc ấn định thuế phải bảo đảm
khách quan, công bằng và tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thuế.
Người nộp thuế cũng được phép yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số
lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu để tạo cơ sở cho
việc tính thuế được chính xác. Việc ấn định thuế đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu được quy định tại Điều 39 Luật quản lý thuế Cơ quan hải quan ấn định



16

thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trong các trường hợp sau: người
khai thuế dựa vào các tài liệu không hợp pháp để khai báo căn cứ tính thuế, tính
và kê khai số thuế phải nộp; không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, chính
xác các căn cứ tính thuế làm cơ sở cho việc tính thuế; người khai thuế từ chối
hoặc trì hoãn, kéo dài quá thời hạn quy định việc cung cấp các tài liệu liên quan
cho cơ quan hải quan để xác định chính xác số thuế phải nộp; cơ quan hải quan
có đủ bằng chứng về việc khai báo trị giá không đúng với trị giá giao dịch thực
tế; người khai thuế không tự tính được số thuế phải nộp.
Quyền yêu cầu giải thích và giám định này cũng một phần thể hiện việc
người nộp thuế cần được hiểu rõ quá trình nộp thuế, tính thuế và tạo trách nhiệm
cho cơ quan thu, quản lý thuế trong việc giải thích cho người nộp thuế, làm đúng
các thủ tục thu, quản lý thuế nhằm thu thuế một cách chính xác và hiệu quả nhất
cho nhà nước. Quyền này hướng tới người nộp thuế nhằm tạo cho người nộp
thuế có thể tránh trường hợp cơ quan thuế tính thuế không đúng cho mình.
1.2.1.3. Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật
Có nhiều tranh cãi về vấn đề này, theo quy định đây là quyền của người
nộp thuế và theo điểu 73 Luật quản lý thuế cũng quy định Cơ quan quản lý thuế,
công chức quản lý thuế, người đã là công chức quản lý thuế, tổ chức kinh doanh
dịch vụ làm thủ tục về thuế phải giữ bí mật thông tin của người nộp thuế theo
quy định của pháp luật, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án; cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán nhà nước; các
cơ quan quản lý khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật; cơ quan quản
lý thuế nước ngoài phù hợp với điều ước quốc tế về thuế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhưng có nhiều quan điểm lại cho rằng nên
công bố thông tin về người nộp thuế sẽ làm tăng thêm sự rõ ràng và lành mạnh
trong công tác thuế, tại sao những trường hợp vi phạm thuế thì công bố mà
những trường hợp nộp thuế đầy đủ lại không công bố thông tin điều này hoàn
toàn trái ngược với quan điểm việc công bố thông tin là vi phạm các nguyên tắc



17

tôn trọng và bảo vệ bí mật đời tư thiết lập trong luật dân sự, sự công bố thông tin
tạo sự tò mò của mọi người của về người nộp thuế đôi khi sẽ tạo sức ép dư luận
đối với người nộp thuế. Song theo kinh nghiệm của một số nước phát triển khi
xã hội đã phổ biến ý thức tôn trọng quyền làm giàu chính đáng và quyền tư hữu,
thì việc công bố tài sản và mức thuế lại có tác dụng tốt hơn là giữ bí mật về
chúng, tất nhiên việc công bố này phải có sự đồng ý của đương sự. Nếu chúng ta
thực hiện việc công bố thông tin thì điều cần làm, trước cả việc xây dựng các
quy tắc pháp lý cần thiết, là phổ biến quan niệm lành mạnh về quyền sở hữu tư
nhân, quyền làm giàu chính đáng, để con người tập trung sự quan tâm và nỗ lực
của bản thân vào việc làm thế nào để tự mình trở nên giàu có, hơn là vào việc
quan tâm đến sự giàu có của người khác. Với sự phổ biến của ý thức làm giàu
chính đáng, sự tò mò của xã hội sẽ tự điều chỉnh và trở nên có chừng mực.
Người có tài sản không còn cảm thấy sức ép từ sự chú ý của công chúng và hoàn
toàn thoải mái khi các thông tin về tài sản, về mức thuế đóng cho Nhà nước của
mình được công bố. Việc công bố các thông tin về tình hình tài sản của cá nhân,
cũng cần được thực hiện theo cung cách bình thường nhất trong cuộc sống,
không bị coi là chuyện giật gân.
1.2.1.4 Hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của pháp
luật về thuế
Nhà nước động viên nguồn thu xã hội bằng việc thu thuế, việc thu thuế
này phải đảm bảo các nguyên tắc như nguyên tắc công bằng; nguyên tắc cân
bằng giữa nhà nước và người nộp thuế; việc đánh thuế này phải dễ hiểu đạt hiệu
quả. Tuy thuế là nguồn thu để đảm bảo cho ngân sách nhà nước, nó được chuyển
giao từ một phần sở hữu của người nộp thuế nhưng việc chuyển giao một phần
tài sản này không được làm cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng.
Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo tính trung lập của thuế. Nhà nước có

những chính sách hợp lý để vừa đảm bảo nguồn thu vừa không tạo ra gánh nặng
cho người nộp thuế, nhà nước làm giảm gánh nặng này bằng cách cho người nộp


18

thuế được hưởng các ưu đãi về thuế, được hoàn thuế. Đây không chỉ là một biện
pháp làm giảm gánh nặng mà nó còn là một cách để thu hút đầu tư, phát triển
sản xuất. Theo quy định tại Điều 57 Luật Quản lý thuế thì các trường hợp được
hoàn thuế là:
- Tổ chức, cá nhân thuộc diện được hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy
định của Luật thuế giá trị gia tăng;
- Tổ chức, cá nhân thuộc diện được hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Cá nhân thuộc diện được hoàn thuế thu nhập cá nhân theo quy định
của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân;
- Tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc diện được hoàn thuế tiêu thụ đặc
biệt theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt;
- Tổ chức, cá nhân nộp các loại thuế khác có số tiền thuế đã nộp vào
ngân sách nhà nước lớn hơn số tiền thuế phải nộp.
Như vậy luật quản lý thuế chỉ nêu ra các trường hợp chung về các loại
thuế được hoàn, còn việc hoàn thuế trong trường hợp như thế nào thì được quy
định tại các văn bản luật thuế riêng. Như trong luật thuế giá trị gia tăng thì việc
hoàn thuế áp dụng khi người nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ
thuế nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng chưa được
khấu trừ hết, và các trường hợp khác được quy định tại Điều 13 Luật thuế giá trị
gia tăng 2008. Các trường hợp ưu đãi về thuế như miễn thuế, giảm thuế cũng
được quy định tương tự.
1.2.1.5 Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về
thuế

Dịch vụ làm thủ tục về thuế là hoạt động của đại lý thuế thực hiện các
thủ tục đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, khiếu nại về thuế, lập
hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế thay người nộp thuế [9]. Người


19

nộp thuế ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế là việc
người nộp thuế thuê một tổ chức khác thực hiện các thủ tục về thuế cho mình.
Ký hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế là một trong những quyền dân sự của
người nộp thuế. Khi ký kết hợp đồng này thì tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ
tục thuế có các quyền của người nộp thuế theo quy định của pháp luật và theo
hợp đồng ký kết giữa họ và người nộp thuế, quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh
doanh dịch vụ thuế được quy định tại Điều 20 của luật quản lý thuế và được quy
định cụ thể tại thông tư 28/2008/TT-BTC. Theo đó tổ chức kinh doanh dịch vụ
làm thủ tục về thuế có quyền:
- Được thực hiện các thủ tục về thuế theo hợp đồng với người nộp thuế
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân nộp thuế cung cấp đầy đủ, chính xác các
chứng từ, hồ sơ, tài liệu và thông tin cần thiết liên quan tới việc làm thủ tục về
thuế theo hợp đồng đã ký kết giữa hai bên
- Được cơ quan thuế các cấp hướng dẫn miễn phí thủ tục hành chính,
phổ biến các quy định mới về thuế, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ thuế định kỳ
và hỗ trợ kỹ thuật khi thực hiện kê khai thuế điện tử
- Được thực hiện các quyền của người nộp thuế theo quy định của Luật
Quản lý thuế và theo hợp đồng với người nộp thuế
Việc hưởng các quyền nêu trên để thực thi nghĩa vụ của hợp đồng nhưng
đồng thời pháp luật cũng quy định tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục thuế
cũng phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm mình như “ lập hợp đồng bằng văn
bản với tổ chức, cá nhân nộp thuế; thông báo bằng văn bản cho cơ quan Thuế
quản lý trực tiếp người nộp thuế về hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế; khai

thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền
thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn theo quy định của Luật Quản lý thuế và
các quy định khác của pháp luật có liên quan; cung cấp cho cơ quan quản lý thuế
các tài liệu, chứng từ để chứng minh tính chính xác của việc khai thuế, nộp thuế,
quyết toán thuế, đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền


20

thuế được hoàn của người nộp thuế; không được thông đồng với công chức quản
lý thuế, người nộp thuế để trốn thuế, gian lận thuế; có trách nhiệm báo cáo với
cơ quan thuế”
Việc quy định người nộp thuế được ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh
dịch vụ làm thủ tục về thuế là điểm mới của luật quản lý thuế việc này giúp cho
người nộp thuế là các doanh nghiệp mới thành lập chưa rõ về thủ tục thuế, hoặc
giúp những cá nhân, tổ chức để họ đỡ mất thời gian trong việc tìm hiểu và nộp
thuế, trong một số trường hợp nhất định cũng có thể tránh được sự phiền hà
nhũng nhiễu của cơ quan quản lý thuế, cán bộ, công chức quản lý thuế.
1.2.1.6 Nhận văn bản kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế của cơ
quan quản lý thuế; yêu cầu giải thích nội dung kết luận kiểm tra thuế, thanh
tra thuế; bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế
Do quan hệ pháp luật thuế về bản chất là quan hệ pháp luật hành chính,
nên quyền này có thể nói là quyền mang tính hành chính của người nộp thuế. Nó
là một phần của quá trình thanh tra, kiểm tra mà quá trình đó thực chất là một
biện pháp quản lý của nhà nước. Việc thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế được
tiến hành tại cơ quan thuế hoặc tại trụ sở của người nộp thuế, việc kiểm tra này
phải đảm bảo các nguyên tắc của luật định. Sau khi thanh tra, kiểm tra xong
người nộp thuế được nhận văn bản kết luận kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản
lý thuế, điều này tạo sự minh bạch rõ ràng cho quá trình kiểm tra đồng thời cũng
là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp xử lý với người nộp thuế nếu có vi

phạm. Người nộp thuế có quyền yêu cầu được giải thích về nội dung kết luận
kiểm tra thanh tra thuế, làm rõ những vấn đề khúc mắc trong bản kết luận và
được bảo lưu ý kiến của mình trong bản kết luận đó. Cơ sở của quyền này nhằm
tạo cho người nộp thuế tham gia một cách đầy đủ nhất vào quá trình thanh tra
kiểm tra thuế của cơ quan quản lý thuế. Trong quá trình thanh tra tại trụ sở của
người nộp thuế, thì người nộp thuế có quyền sau:
- Từ chối việc kiểm tra khi không có quyết định kiểm tra thuế;


21

- Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên quan đến nội dung kiểm
tra thuế; thông tin, tài liệu thuộc bí mật nhà nước, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác;
- Nhận biên bản kiểm tra thuế và yêu cầu giải thích nội dung biên bản
kiểm tra thuế;
- Bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế;
- Khiếu nại, khởi kiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật;
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình kiểm tra thuế.
Đây là những quyền được quy đinh tại khoản 1 Điều 79 Luật Quản lý
thuế. Việc kiểm tra của cơ quan quản lý thuế phải được thực hiện theo đúng
nguyên tắc, trình tự và quy định của pháp luật, nếu việc kiểm tra này không
được thực hiện như vậy thì người nộp thuế có thể từ chối việc kiểm tra khi
không có quyết định kiểm tra, từ chối cung cấp thông tin, tài liệu không liên
quan đến nội dung kiểm tra, thông tin tài liệu thuộc bí mật nhà nước.
1.2.1.7 Được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức
quản lý thuế gây ra theo quy định của pháp luật.
Nội dung của quyền này là người nộp thuế được bồi thường thiệt hại khi
bị cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế gây thiệt hại cho mình, việc bồi

thường thiệt hại này được quy định tại Thông tư số 49/2008/TT-BTC ngày
12/06/2008 của Bộ tài chính. Các trường hợp người nộp thế được bồi thường
thiệt hại khi cơ quan quản lý thuế và công chức quản lý thuế có những hành vi
sau:
- Quyết định hoàn thuế, ấn định thuế không đúng quy định của pháp
luật;
- Xử lý và ra quyết định xử phạt hành chính thuế sai quy định của pháp
luật về thuế;


22

- Xử lý và ra quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
và các quyết định khác về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
trái quy định;
- Thực hiện các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính không có căn
cứ và yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật về thuế, hải quan
Và việc bồi thường thiệt hại chỉ được thực hiện khi có các điều kiện:
- Có quyết định xử lý khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc bản án, quyết định của Toà án xác định hành vi của cán bộ, công chức thuế
hải quan là trái pháp luật gây thiệt hại
- Có thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công
chức thuế, hải quan trong khi thi hành công vụ gây ra cho người nộp thuế, người
khai hải quan thuộc một trong những trường hợp ở trên
- Người bị thiệt hại có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại trong thời hạn 2
năm kể từ ngày có quyết định xử lý khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc bản án, quyết định của Toà án xác định hành vi của cán bộ, công
chức thuế hải quan là trái pháp luật gây thiệt hại
Việc quy định quyền này cho người nộp thuế là hoàn toàn hợp lý đảm
bảo được quyền lợi chính đáng của người nộp thuế về vật chất khi có sự vi phạm

của cơ quan, cán bộ, công chức quản lý thuế, đồng thời quy định này cũng tạo
cho cơ quan quản lý và cán bộ công chức quản lý thuế một thái độ cẩn trọng,
chính xác hơn khi thực hiện công việc của mình, tránh hiện tượng nhũng nhiễu,
quan liêu.
1.2.1.8 Yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế của mình
Người nộp thuế được quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình. Việc xác nhận này là để cho người nộp thuế
thực hiện một số quyền khác của mình, ví như người nộp thuế là người Việt


23

Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam chỉ được xuất cảnh khi hoàn
thành các nghĩa vụ thuế của mình. Nếu họ không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình thì cơ quan quản lý thuế sẽ thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập
cảnh dừng việc xuất cảnh của họ và khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của
mình thì họ được quyền yêu cầu cơ quan thuế xác nhận việc hoàn thành nghĩa
vụ đó để họ được xuất cảnh. Để quyền này được đảm bảo thực hiện một cách
nhanh nhất, có thể giao nhiệm vụ này cho bộ phận một cửa, trên cơ sở hệ thống
thông tin quản lý thuế của các cấp mà bộ phận một cửa có thể tra khảo và xác
nhận, không nhất thiết phải giao cho phòng kê khai và kế toán thuế. Trường hợp
hồ sơ đề nghị xác nhận không đúng với số liệu trong cơ sở dữ liệu của ngành
thuế thì trao đổi ý kiến với phòng kê khai và kế toán thuế để xác nhận cho người
nộp thuế.
1.2.1.9 Khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tố cáo các hành vi
vi phạm pháp luật của công chức quản lý thuế và tổ chức, cá nhân khác
Quan hệ pháp luật thuế có bản chất là quan hệ hành chính, mang nặng

tính quyền uy. Ở đó cơ quan quản lý nhà nước sử dụng quyền lực mà nhà nước
trao cho để thực hiện nhiệm vụ của mình, việc thực hiện nhiệm vụ đó được thể
hiện dưới hình thức là các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Những
quyết định hành chính, hành vi hành chính này tác động trực tiếp tới người nộp
thuế, trên cơ sở lý luận thì nó dựa trên những quy định pháp luật nhằm điều
chỉnh một cách thích hợp nhất các quan hệ xã hội nhưng trên thực tế thì vẫn có
việc lạm dụng những quyết định hành chính, hành vi hành chính không đúng
pháp luật. Do đó nhà nước trao cho người nộp thuế quyền khiếu nại, khởi kiện
những quyết định hành chính, hành vi hành chính. Quyền này được quy định tại
khoản 9 Điều 6 Luật quản lý thuế và được ghi nhận lại tại khoản 1 Điều 116 của
luật này.


24

Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, khi quyền và lợi
ích hợp pháp của người nộp thuế bị xâm phạm bởi công chức quản lý thuế và tổ
chức cá nhân khác thì họ có quyền được tố cáo để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Luật quản lý thuế ghi nhận quyền này tại khoản 10 Điều 6 và
khoản 2 Điều 116. “Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo
được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo” (khoản 3 Điều
116 Luật quản lý thuế). Theo đó, người nộp thuế có quyền khiếu nại việc cán bộ
thuế thi hành không đúng pháp luật thuế. Đơn khiếu nại được gửi đến cơ quan
thuế trực tiếp quản lý thuế trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông
báo hoặc quyết định xử lý của cán bộ thuế, cơ quan thuế. Tuy nhiên trong khi
chờ giải quyết, người nộp thuế vẫn phải thực hiện theo thông báo hoặc quyết
định xử lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được khiếu nại về thuế, cơ quan thuế phải xem xét giải quyết. Đối với vụ
việc phức tạp thời gian giải quyết có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Trong trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định của cơ quan giải

quyết khiếu nại hoặc quá hạn giải quyết mà không được trả lời thì có quyền
khiếu nại đến cơ quan thuế cấp trên trực tiếp. Còn khi người nộp thuế gửi đơn tố
cáo, thì chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày nhận được tố cáo thì cơ quan, tổ chức,
cá nhân tiếp nhận tố cáo phải thụ lý để giải quyết, nếu không thuộc thẩm quyền
của mình thì phải chuyển cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và thông báo lại
cho người nộp thuế biết, thời hạn giải quyết tố cáo không quá 60 ngày kể từ
ngày thụ lý giải quyết, đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn có thể kéo dài hơn
nhưng không quá 90 ngày. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết
tố cáo không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn mà tố cáo không được giải quyết
thì người nộp thuế có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của
người giải quyết tố cáo.
1.2.2. Các nghĩa vụ cơ bản của người nộp thuế theo pháp luật hiện
hành
1.2.2.1 Đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật


25

Nghĩa vụ này được quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Quản lý thuế, việc
đăng ký thuế là bước đầu tiên mà người nộp thuế phải làm để thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế của mình. Theo thông tư 85/2007/TT-BTC thì “ đăng ký thuế là việc
người nộp thuế kê khai những thông tin của người nộp thuế theo mẫu quy định
và nộp tờ khai cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về thuế
với Nhà nước theo các qui định của pháp luật”. Việc đăng ký này là để việc
quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế được thực hiện một cách đơn giản, thuận
tiện cho cả người nộp thuế lẫn cơ quan quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế sẽ
cấp cho người nộp thuế một mã số thuế riêng để quản lý và cũng theo thông tư
85/2007/TT-BTC thì “ Mã số thuế ở đây là một dãy các chữ số được mã hoá
theo một nguyên tắc thống nhất để cấp cho từng người nộp thuế, mã số thuế để
nhận biết, xác định từng người nộp thuế và được quản lý thống nhất trên phạm

vi toàn quốc”. Người nộp thuế chỉ được cấp một mã số thuế duy nhất để sử dụng
trong suốt quá trình hoạt động từ khi đăng ký thuế cho đến khi không còn tồn
tại. Mã số thuế được dùng để kê khai nộp thuế cho tất cả các loại thuế mà người
nộp thuế phải nộp, kể cả trường hợp người nộp thuế kinh doanh nhiều ngành
nghề khác nhau hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh tại các địa bàn khác nhau.
Mã số thuế đã cấp không được sử dụng để cấp cho người nộp thuế khác, doanh
nghiệp, tổ chức kinh doanh khi không còn tồn tại thì mã số thuế chấm dứt hiệu
lực và không được sử dụng lại, mã số thuế đã cấp cho người nộp thuế là chủ
doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh hoặc một cá nhân không thay đổi
trong suốt cuộc đời của cá nhân đó, kể cả trường hợp đã ngừng hoạt động kinh
doanh sau đó kinh doanh trở lại. Người nộp thuế có trách nhiệm đăng ký thuế
với cơ quan thuế trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày: được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy chứng
nhận đầu tư; bắt đầu hoạt động kinh doanh trong trường hợp không có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc ngày phát sinh nghĩa vụ thuế trong trường
hợp người nộp thuế là tổ chức, cá nhân không kinh doanh; phát sinh trách nhiệm
khấu trừ thuế và nộp thuế thay của các tổ chức cá nhân; bắt đầu thực hiện nhiệm


×