Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.66 KB, 24 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
Chủ đề: THỰC HIỆN KĨ NĂNG THỰC TẾ- VIẾT CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
Chuyên đề: QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN
HỆ PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cựu tổng thư ký liên hợp quốc B.Ga-Li từng nhận định: “Phụ nữ chiếm hơn một
nửa nhân loại nhưng chưa có quốc gia nào trên thế giới đối xử với phụ nữ một cách
thật sự bình đẳng”. Ngay từ thời kỳ phong kiến, với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”
đã làm cho địa vị của người phụ nữ trong xã hội nói chung và trong gia đình nói riêng
vô cùng thấp kém. Thuyết “tam tòng, tứ đức” trói buộc số phận người phụ nữ vào cha-
chồng - con, họ gần như không được bảo vệ dưới bất kỳ hình thức pháp lý nào. Ở Việt
Nam, khi xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề bình đẳng giới càng được đặc biệt quan
tâm và được thể hiện ở mọi lĩnh vực. Trong đó, bình đẳng trong gia đình là cái gốc cho
mọi sự bình đẳng khác trong xã hội. Đây là một vấn đề mang tính cấp bách và lâu dài.
Nếu thực hiện tốt điều này sẽ góp phần giải phóng và tạo điều kiện cho phụ nữ phát
triển tốt hơn, để họ “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Với những lý do đó, chúng tôi đã
quyết định chọn đề tài “Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ pháp luật
hôn nhân và gia đình” cho tiểu luận của mình.
2.Tình hình nghiên cứu:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ đã
du nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ XX. Ngay từ năm 1930, nam nữ bình quyền đã là
một nội dung quan trọng trong Chính cương vắn tắt của Đảng hay trong Mười chính
sách Việt Minh năm 1941. Trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và cả những bản
Hiến pháp sau này cũng như trong Sắc lệnh 97 cho tới gần đây nhất là Luật Hôn nhân
gia đình sửa đổi 2014 đều khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình.
Hiện nay, có rất nhiều cơ sở nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới nói chung và quyền
Page 1 of 24
bình đẳng của phụ nữ trong gia đình nói riêng như Viện gia đình và giới thuộc Bộ khoa
học xã hội Việt Nam, khoa Xã hội học Đại học mở TPHCM…hay các tác giả như Chu
Thị Thoa ( bình đẳng về giới trong gia đình nông thôn ở đồng bằng sông Hồng), Trần


Thanh Hiển (vấn đề bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở đồng bằng sông Cửu
Long), Nguyễn Hoài Anh (bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam),…
Ngoài ra còn có rất nhiều cuốn sách như : Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất
nước đổi mới (2002) - NXB Khoa học xã hội của GS.Lê Thi; Nghiên cứu phụ nữ, giới
và gia đình (2003) - NXB Khoa học xã hội của tiến sĩ Nguyễn Linh Khiếu; Gia đình
học (2007) - NXB Lý luận chính trị của GS.Đặng Cảnh Khanh và PGS.Lê Thị Quý,
Quyền bình đẳng của phụ nữ trong cuộc sống và sự nghiệp gia đình (2003)-NXB Lý
luận chính trị của tác giả Trần Thị Báo,…
Và còn rất nhiều luận án, luận văn, bài viết đăng trên các tạp chí Khoa học và
phụ nữ, Nghiên cứu lý luận,… cũng đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
3.Giới hạn và nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu vấn đề quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ pháp luật
hôn nhân và gia đình ở Việt Nam về quan hệ nhân thân và tài sản qua các thời kỳ lịch sử
(phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, sau cách mạng tháng Tám cho tới ngày nay).
4.Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài giúp cho mọi người nhận thức đúng đắn và rõ ràng
vấn đề quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
Từ đó, có cách nhìn mới mẻ về vai trò, vị thế của người phụ nữ, đồng thời đề xuất các
phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của người
phụ nữ ở Việt Nam.
5.Kết cấu của bài tiểu luận:
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương I: Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân.
Page 2 of 24
1. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân từ trước năm
1945.
1.1 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân ở các triều đại
phong kiến.
1.2 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân thời kì pháp
thuộc.

2. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân sau năm 1945.
Chương II: Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ quan hệ tài sản.
1. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản từ trước năm 1945.
2. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản sau năm 1945.
2.1 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giai đoạn 1945-
1959
2.2 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giai đoạn từ sau
1959 đến nay.
Chương III: Thực trạng và ý nghĩa thực hiện quyền bình đẳng trong hôn nhân
gia đình.
1. Thực trạng
2. Ý nghĩa thực hiện quyền bình đẳng trong hôn nhân gia đình.
NỘI DUNG
Chương I:
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ NHÂN
THÂN
1. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân từ trước
năm 1945:
1.1 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân ở các triều
đại phong kiến:
Page 3 of 24
Luật Bình đẳng giới (Điều 5) xác định: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí,
vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó. Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau
cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới
bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa
nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”.
Nhưng ở thời phong kiến với việc đề cao quyền gia trưởng, vợ chồng không có sự
bình đẳng với nhau, mọi quyền hành trong gia đình đều thuộc về người chồng. Lễ giáo

phong kiến luôn đòi hỏi người phụ nữ, người vợ phải đủ tứ đức: Công (chăm chỉ), Dung
(duyên dáng), Ngôn (ăn nói dịu dàng), Hạnh (nết na) và phải theo nguyên tắc tam tòng:
Tại gia tòng phụ (ở nhà theo cha), Xuất giá tòng phu (lấy chồng theo chồng), Phu tử
tòng tử (chồng chết theo con). Người vợ phải phục tùng chồng và chịu sự dạy dỗ của
người chồng; “Không được tố cáo chồng, ông, bà, cha, mẹ chồng” (Điều 482, 504, 511
Quốc triều hình luật).
Chỉ có người vợ mới phải chung thủy với người chồng, chứ người chồng không
phải thủy chung với vợ, và pháp luật còn khuyết khích người chồng lấy nhiều vợ (Trai
thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng).
Khi người chồng chết, người phụ nữ được coi là tiết hạnh được kính trọng khi chị
ta ở vậy trung thành với chồng. Điều 322 Hoàng Việt luật lệ qui định: “Nếu vi phạm
nghĩa vụ trung thành, thì người vợ và gian phu sẽ bị phạt 100 trượng, người chồng được
tùy ý bán vợ cho người khác”.
Người chồng là người tham gia các công việc ngoài xã hội, người vợ chỉ làm các
công việc trong gia đình, cuộc sống của người vợ thường quanh quẩn trong nhà, ngoài
đồng. Người vợ nếu muốn làm một nghề kinh doanh hoặc một nghề nào đó ngoài xã
hội, luật pháp yêu cầu phải có sự đồng ý của người chồng. nếu người chồng không ưng
thuận thì được quyền đứng tên và làm những công việc đó. Tuy nhiên, nếu người chồng
không đồng ý, mà người vợ chính, vợ thứ chứng minh rằng việc làm đó là vì lợi ích
Page 4 of 24
chung cho đoàn thể hay lợi ích chung cho gia đình thì cũng có thể xin Chánh án đệ nhị
cấp cho phép được làm công nghệ hoặc chức nghiệp đó.
Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng giới cũng đã được các nhà nước phong kiến Việt
Nam quan tâm, thể hiện qua tư duy pháp lý hướng đến các giá trị nhân văn và quyền
con người mà đỉnh cao là những quy định tại Bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này gồm 13
chương và 722 điều ban hành vào thời vua Lê Thánh Tông (1470-1497). Trong bộ luật
này có hẳn một nội dung lớn bênh vực và bảo vệ quyền lợi cho cho người phụ nữ, thể
hiện quan điểm bình đẳng giới mà đến nay vẫn mang tính thời sự và cần kế thừa, học
tập.
Thứ nhất: Quyền được nhà nước bảo vệ hôn nhân

Để thực hiện quyền này, Bộ luật Hồng Đức quy định rất nhiều các điều kiện mà
hai bên nam nữ phải tuân theo khi kết hôn nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ,
trong đó Điều 338 quy định: "Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương
dân, thì xử tội phạt, biếm hay đồ” (Biếm có thể được hiểu như một hình thức làm hạ
thấp tư cách của người bị phạt; Đồ: Giam cầm, bắt làm việc khổ sai). Điều 315 quy
định việc trừng trị tất cả những ai đã gả con gái rồi (tức đã nhận đồ sính lễ) mà lại thôi
không gả nữa thì bị phạt “80 trượng” và đem gả cho người khác mà đã thành hôn rồi thì
bị xử tội “đồ”, người sau biết thế mà cứ lấy thì cũng bị xử tội “đồ”, người con gái đó
phải gả cho người hỏi trước, nếu người đó không lấy nữa thì nhà người con gái phải bồi
thường đồ sính lễ gấp đôi cho người đó. Còn Điều 321 quy định, vợ cả vợ lẽ nếu tự tiện
bỏ nhà chồng cũng như đi lấy chồng khác đều bị xử tội “đồ” và họ cùng gia sản phải trả
về cho nhà chồng cũ. Điều 333 ghi rõ: Đã gả con gái rồi mà về sau vì thấy người chồng
nghèo khổ, lại bắt con gái về thì bị xử phạt “60trượng”, biếm hai tư, người con gái đó
phải bắt trở về nhà chồng.
Tất cả những người đàn ông nào biết mà vẫn lấy họ làm vợ đều bị xử tội “đồ”.
Ngoài ra, các Điều 308, 309,…còn yêu cầu người chồng phải luôn thương yêu người
vợ, phải chăm lo hạnh phúc cho gia đình.
Thứ hai: Quyền ly hôn của phụ nữ
Page 5 of 24
Như Điều 308 Luật Hồng Đức chỉ rõ: Phàm chồng bỏ lững vợ 5 tháng không đi
lại (vợ được trình quan sở tại, quan xã làm chứng) thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con
thì gia hạn 1 năm. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử “biếm”. Điều
309 quy định: Người nào mà quá say đắm với nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị xử
tội “biếm”. Bên cạnh đó, tất cả những hành vi gian dâm đều bị nghiêm trị với khung
hình phạt rất nặng.
Chồng không được bỏ vợ trong ba trường hợp:
- Vợ đã để tang nhà chồng 3 năm;
- Khi lấy nhau nghèo mà sau giàu có;
- Khi lấy nhau vợ có bà con mà khi bỏ lại không có bà con để trở về.
Đồng thời, khi hai bên vợ chồng đang có tang cha mẹ thì vấn đề ly hôn cũng

không được đặt ra. Khi ly hôn, con cái thường thuộc về chồng nhưng nếu muốn giữ con,
người vợ có quyền đòi chia một nửa số con. Điều 167 - Hồng Đức thiện chính thư - quy
định rõ hình thức thuận tình ly hôn: Giấy ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng,
người vợ và người chồng mỗi bên giữ một bản làm bằng.
Qua đó, cho thấy bên cạnh sự ưng thuận của cha mẹ hay các bậc tôn thuộc rất
quan trọng thì sự ưng thuận của hai bên trai - gái cũng là một thành tố được nhà lập
pháp chú ý đến. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng sau khi ly hôn hoàn toàn chấm
dứt, hai bên đều có quyền kết hôn với người khác mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Bộ Luật Hồng Đức là Bộ luật đều cao và xem trọng vai trò của người phụ nữ nhất
trong thời kì phong kiến, khi có những quy định tiến bộ về quan hệ giữa nam- nữ, giữa
vợ - chồng trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Tuy có những hạn chế nhất định,
song nó phần nào khơi lên tiến nói bình đẳng cho người phụ nữ thời bấy giờ và có
những tiến bộ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1.2 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân thời kì
pháp thuộc.
Page 6 of 24
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thay đổi hoàn toàn các văn bản luật
đương thời (Hoàng việt luật lệ) thành một hệ thống văn bản luật hoàn toàn mới. Trong
thời kì này Pháp chia Việt Nam thành 3 miền với 3 bộ dân luật riêng để điều chỉnh: ở
Bắc kì là bộ luật Dân luật Bắc kì 1931, ở Trung kì là bộ Dân luật Trung kì 1936 và ở
Nam kì là bộ Dân luật giản yếu 1883. Cả 3 bộ luật đều thừa nhận tình trạng bất bình
đẳng trong gia đình, quy định cho người phụ nữ nhiều nghĩa vụ bất bình đẳng trong khi
hoàn toàn quy định ngược lại đối với người chồng - người đàn ông.
Lúc này, trong gia đình duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa vợ và chồng, với việc
đề cao quyền hành của người chồng va sự phụ thuộc của người vợ. Điều 204 Bộ Dân
luật Bác kì 1931 “ Quyền chủ thể đối với tất cả mọi người đồng cư trong nhà là quyền
của người gia trưởng” hay thừa nhận cho người chồng có thể kiểm soát hành vi của vợ,
kiểm soát mọi giao dịch và thư tín của vợ và thường đại diện cho vợ trong các giao
dịch liên quan đến người vợ.
2. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân sau năm

1945.
Hiến pháp năm 1946, Điều 9 quy định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi
phương diện”.
Đó là những quy định lần đầu tiên có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập. Điều này đã góp phần vào sự nghiệp
giải phóng phụ nữ, giải phóng con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Quy định đó
thực sự đã phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam kinh nữ” của chế độ phong kiến, chế
độ thuộc địa nửa phong kiến.
Hiến pháp 1959, Điều 24 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có
quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
gia đình’’.
Điều 65 Hiến pháp 1980 quy định: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng…. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc
phân biệt đối xử giữa các con”.
Page 7 of 24
Trong sắc lệnh số 97-SL mặc dù chỉ có 15 Điều nhưng cũng đã bắt đầu xuất hiện
các chế định nhằm bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ. Về quan hệ vợ chồng,
Sắc lệnh khẳng định “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” - nghĩa là bao
hàm bình đẳng cả về quyền nhân thân và tài sản. Nếu như trong thời kỳ phong kiến,
người phụ nữ phải “Tam tòng” thì lúc này, họ được yêu cầu li hôn, hơn nữa nếu việc li
hôn là do lỗi của người chồng thì họ còn được bồi thường phí tổn (theo Điều 7). Điều
này đã xóa bỏ sự phân biệt về các duyên cớ cho ly hôn riêng quy định cho người chồng
trong các bộ Dân luật cũ, tạo cơ sở pháp lý bình đẳng cho cả vợ và chồng. Bên cạnh đó,
Sắc lệnh số 159-Sl đã quy định một số điều khoản bảo vệ phụ nữ mà không bị coi là bất
bình đẳng như: “Trường hợp li hôn mà người vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Tòa
án hoãn ly hôn” (Điều 5). Đồng thời, họ cũng có quyền tái giá nếu chồng mất sau 10
tháng chứ không phải “phu tử tòng tử” nữa. Như vậy, những nhu cầu về mặt đời sống
tinh thần của họ cũng rất được nhà nước quan tâm. Mặc dù quy định của Luật vẫn còn
nhiều hạn chế và chưa thực sự bình đẳng (Ví dụ: Để có thể kết hôn khi người chồng
mất, người vợ phải chứng minh là mình đang không mang thai) nhưng đã được coi là

một bước tiến lớn về bình đẳng trong quan hệ vợ chồng.
Luật HN&GĐ năm 1959 quy định cụ thể về quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng.
Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, săn sóc nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ, nuôi
dạy con cái, lao động sản xuất, xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc (Điều 13), Vợ
và chồng đều có quyền tự do chọn nghề nghiệp, tự do hoạt động chính trị, văn hóa và xã
hội (Điều 14). Việc xác lập quan hệ vợ chồng không làm ảnh hưởng tới nghề nghiệp của
mỗi bên. Ngược lại vợ chồng có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ nhau phát triển về chuyên
môn, nghề nghiệp, năng khiếu, tư chất của bản thân theo nguyện vọng và khả năng của
mỗi người. Những quy định này nhằm bảo đảm quyền bình đẳng trên thực tế giữa vợ và
chồng. Mặt khác, Luật HNGĐ 1959 lần đầu tiên quy định về hôn nhân tiến bộ một vợ
một chồng. Lúc này, tình trạng “trai năm thê bảy thiếp”, “ba vợ tám nàng hầu” đã được
pháp luật điều chỉnh để đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ cũng như bảo vệ hạnh
phúc gia đình, bởi đây là chế độ hôn nhân đa thê-một tàn dư lạc hậu của chế độ phong
kiến. Luật HNGĐ 1959 cũng đã khắc phục hạn chế của Sắc lệnh theo quy định ở Điều
Page 8 of 24
7: Việc để tang không cản trở việc kết hôn. Như vậy, khác với sắc lệnh, lúc này người
phụ nữ không còn phải chứng minh việc mình không mang thai để kết hôn nữa, quyền
lợi của người phụ nữ đã được nâng lên và được đảm bảo bằng pháp luật.
Tiếp tục phát triển Luật Hôn nhân gia đình 1959, các luật HNGĐ 1986, 2000,
LHNGĐ sửa đổi bổ sung 2014 sắp tới có hiệu lực vẫn kế thừa và chú trọng hơn nữa đến
sự bình đẳng trong quan hệ nhân thân giữa vợ - chồng, như: Tiếp tục nguyên tắc hôn
nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng, tôn trọng
quyền tự thỏa thuận, tự do quyết định của hai bên vợ chồng Nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội. Nhìn chung, trong mối quan hệ nhân thân giữa vợ chồng Luật
Hôn nhân gia đình và các Luật liên quan càng về sau càng tiến bộ, rút ngắn khoảng cách
phân biệt đối xử, “Trọng nam khinh nữ”. Vai trò và vị thế của người phụ nữ trong gia
đình ngày được đề cao.
Chương II:
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG QUAN HỆ TÀI
SẢN

1. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản từ trước năm
1945.
Dưới chế độ phong kiến, dưới ảnh hưởng của nho giáo trung quốc, vai trò của
người phụ nữ bị hạ thấp hơn và pháp luật hầu như không bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt là
trong Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) đã chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ bảo
vệ quyền lợi của người phụ nữ. Tính đặc thù của "Quốc triều hình luật" thể hiện rõ trong
hai chương "Hộ hôn" và "Điền sản". Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng
cá nhân và vai trò của người phụ nữ – điều mà các bộ luật trước và sau không mấy quan
tâm. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân – gia đình; 30/722 điều luật (4%) bàn về
việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Những điều luật này ít nhiều đã đề cập
đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình. Người vợ, trên lý
thuyết, bị đòi hỏi phải lệ thuộc vào chồng và không được làm điều gì nếu không có sự
Page 9 of 24
chỉ đạo hay đồng ý của chồng. Nhưng trên thực tế, địa vị của người vợ – chồng thay đổi
nhiều tùy thuộc theo vị trí xã hội và kinh tế của họ. Cũng giống như chồng, người phụ
nữ Việt Nam xưa có tài sản riêng và tham gia các hoạt động kinh tế. Đó là điều khác
biệt với người phụ nữ Trung Quốc. Trong lao động, người phụ nữ được trả công ngang
bằng với người thợ nam, "không có sự phân biệt về tiền công nhật cho lao động đàn ông
với đàn bà"(1). Điều 23 trong "Quốc triều hình luật" quy định tiền công nhật cho nô tỳ
là 30 đồng. Việc trả công ngang bằng như thế rõ ràng cho thấy lao động của phụ nữ
được đánh giá cao và vị trí của người phụ nữ được tôn trọng trong xã hội. Trong hôn
nhân, người phụ nữ cũng có thể yêu cầu ly hôn (đâm đơn kiện).
Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của
hai người. Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do bố mẹ dành cho
được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo việc
tế lễ (bố mẹ bên chồng/vợ hoặc người thừa tự bên chồng/vợ giữ). Một phần dành cho
vợ/chồng để phụng dưỡng một đời (nhưng không có quyền sở hữu). Khi người
vợ/chồng chết, thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng.
Đối với tài sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần

dành cho vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau: 1/3
dành cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng
một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng. "Quốc
triều hình luật" không nhắc tới động sản, chỉ đề cập tới điền sản, theo Vũ Văn Mẫu:
"Điểm này cũng dễ hiểu vì trong một nền kinh tế trọng nông, các động sản khác chỉ là
những vật có ít giá trị". Song trong "Hồng Đức thiện chính thư" (điều 258-259) đã
không gạt hẳn các động sản ra ngoài thừa kế. "Đến như nhà cửa chỉ có thể chia làm hai,
người sống được một phần làm chỗ ở, người chết được một phần làm nơi tế lễ". "Còn
đến của nổi, phải để cung vào việc tế tự và theo lệ dân trả nợ miệng, còn thừa bao nhiêu
cũng chia cho vợ con". "Của nổi" ở đây được hiểu là vàng, bạc, lụa, vải, thóc lúa,
giường chiếu, đồ sứ, mâm thau… Như vậy, pháp luật đã ghi nhận một cách bình đẳng
sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ chồng và bảo vệ quyền sở hữu
hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm ra.
Page 10 of 24
Trong quyền thừa kế tài sản của cha mẹ để lại, pháp luật nhà Lê không phân biệt
con trai – con gái. Nếu cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất làm phần hương hỏa,
giao cho người con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con (điều 388); "người giữ
hương hỏa có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì dùng
con gái trưởng" (điều 391). "Ruộng hương hỏa giao cho con trai, cháu trai, nếu không
có thì giao cho cháu gái ngành trưởng".
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thay đổi hoàn toàn các văn bản luật
đương thời (Hoàng việt luật lệ) thành một hệ thống văn bản luật hoàn toàn mới. trong
thời kì này Pháp chia Việt Nam thành 3 miền với 3 bộ dân luật riêng để điều chỉnh: ở
Bắc kì là bộ luật Dân luật Bắc kì 1931, ở Trung kì là bộ Dân luật Trung kì 1936 và ở
Nam kì là bộ Dân luật giản yếu 1883. Cả 3 bộ luật đều thừa nhận tình trạng bất bình
đẳng trong gia đình, quy định cho người phụ nữ nhiều nghĩa vụ bất bình đẳng trong khi
hoàn toàn quy định ngược lại đối với người chồng - người đàn ông.
Trong Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936), chế độ tài sản
pháp định chỉ đặt ra khi vợ chồng không lập hôn ước. Theo chế độ này, tài sản chung
của vợ chồng bao gồm tất cả của cải, hoa lợi của chồng cũng như của vợ, không kể tài

sản đó được tạo ra trước hay trong thời kì hôn nhân. Hay như trong Tập Dân luật giản
yếu năm 1883 không thừa nhận người vợ có tài sản riêng, do đó không thể có cộng
đồng tài sản giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu
duy nhất của người chồng…
2. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản sau năm 1945
2.1 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giai đoạn 1945-
1959.
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã tạo
ra bước ngoặt vĩ đại khi Hiến pháp 1946 ghi nhận “ Mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng”. Đây là cơ sở lí luận quan trọng để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ
trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
Page 11 of 24
Sau khi tuyên bố đất nước độc lập, nhằm xóa bỏ các quy định lạc hậu, áp đặt
trong hôn nhân và gia đình trước đó, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành hai sắc lệnh đầu
tiên quy định điều chỉnh một số quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, Sắc lệnh số
97-SL đã bước đầu khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ.
Sắc lệnh số 97-SL, gồm 15 điều, khẳng định quyền công dân Việt Nam về dân sự,
hôn nhân và gia đình.
Mặc dù trong chế độ cũ, quan hệ vợ chồng nói chung và quan hệ tài sản giữa vợ
chồng nói riêng là quan hệ bất bình đẳng song pháp luật đã cũng bắt đầu đặt ra vấn đề
bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa vợ với chồng. Trước hết về
quan hệ vợ chồng, Sắc lệnh khẳng định “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia
đình”. Từ đó dẫn tới việc Sắc lệnh tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng của người phụ
nữ trong quan hệ tài sản. Điều đó được thể hiện qua Điều 6 Sắc lệnh “Người đàn bà có
chồng có toàn năng lực về mặt hộ” và Điều 11 “ Trong lúc còn sinh thời người chồng
goá vợ hay vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền
sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung”. Đây là lần đầu tiên quyền
gia trưởng của người đàn ông trong gia đình bị xóa bỏ, bước đầu xác lập bình đẳng vợ
chồng về mọi mặt, đặc biệt là bình đẳng về mặt tài sản. Mặt khác, nếu như trước đó
trong thời kỳ phong kiến, chỉ người chồng mới có quyền thôi vợ và toàn bộ tài sản của

vợ sẽ thuộc về gia đình nhà chồng thì trong giai đoạn này, người phụ nữ cũng được
phép ly hôn, thậm chí nếu việc ly hôn là lỗi của người chồng thì họ còn được quyền yêu
cầu bồi thường phí tổn. Rõ ràng, mặc dù các quy định còn ít ỏi nhưng vấn đề bình đẳng
giới trong gia đình đã được nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể hiện sự tiến bộ và đã đặt
ra nền tảng để xây dựng một nền pháp chế mới.
Bác Hồ đã từng nói “Nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã
hội chỉ là một nửa”. Để thực hiện được điều đó và tiếp tục hoàn thiện pháp luật
HN&GĐ, Quốc hội khóa 1 kỳ họp thứ 11 đã thông qua LHNGĐ 1959 và chính thức có
hiệu lực ngày 13/1/1960.
Luật Hôn nhân và gia đình 1959 gồm 6 chương và chia thành 35 điều.
Page 12 of 24
Quyền bình đẳng của người phụ nữ đã được khẳng định ngay tại Điều 1 của luật
“Nhà nước bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một
chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng
những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương
yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ”. Người vợ có quyền bình đẳng trong gia đình về cả
quyền nhân thân và tài sản.
Công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng bằng pháp luật
là điều kiện tiên quyết để xác lập quyền bình đẳng của người phụ nữ. Trong gia đình,
thường thì ai có tài sản, ai có tiềm lực kinh tế người đó sẽ có quyền quyết định. Do đó,
khi người phụ nữ có cơ hội và thực sự bình đẳng với người chồng về quyền tài sản thì
sự bình đẳng trong gia đình của họ mới được đảm bảo.
Điều 15 LHNGĐ 1959 quy định “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ
và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Mặt khác, toàn bộ tài
sản có trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của hai vợ chồng, không phân biệt
công sức đóng góp, không phân biệt tặng cho chung hay tặng cho riêng… Vợ chồng có
quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và luôn
hưởng kỷ phần bằng nhau trong khối tài sản chung hợp nhất đó. Quy định này nếu
không xem xét rõ ràng sẽ rất dễ lầm tưởng là một quy định cào bằng, phi lý. Thực chất,
nó xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện kinh tế - xã hội ở miền Bắc chưa phát

triển, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ
chồng: nhà nước không dự liệu chế độ tài sản ước định mà áp dụng chế độ cộng đồng
toàn sản. Tất cả tài sản đều là tài sản chung của vợ chồng và không công nhận vợ chồng
có tài sản riêng . Quy định này là phù hợp với tập quán và tình hình lịch sử của nước ta
giai đoạn đó, đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ, bảo vệ quyền lợi của người vợ trong
gia đình. Bởi lẽ lúc này, khi kết hôn cả hai bên thường không có tài sản và nếu có thì rất
hạn chế cả về số lượng và giá trị tài sản. Luật quy định như vậy nhằm xóa bỏ ảnh hưởng
lạc hậu của chế độ hôn nhân gia đình thời phong kiến là coi thường vai trò và quyền lợi
của người phụ nữ, nhằm đảm bảo cho người phụ nữ thực hiện các quyền nhân thân của
Page 13 of 24
mình ngang bằng với người chồng mà trước hết cần phải đảm bảo quyền lợi về mặt tài
sản cho người vợ.
Như vậy, những quy định này dù còn khá sơ sài thiếu chi tiết nhưng đã là một
bước tiến lớn và đã có sự rõ ràng hơn so với Sắc lệnh 97. Tuy nhiên, LHNGĐ 1959 vẫn
chưa nêu ra một khái niệm cụ thể nào về bảo vệ quyền bảo vệ quyền của người phụ nữ
trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Đồng thời, sự bình đẳng pháp lý chưa phải là sự
bình đẳng trong thực tiễn. Vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ các trường hợp mọi vấn đề
trong gia đình do người chồng tự quyết định mà không cần đến ý kiến của người vợ.
Càng ở những nơi kém phát triển thì vai trò gia trưởng của nam giới càng thể hiện đậm
nét. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận những quy định này đã phần nào tạo cơ sở pháp lý
và bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng.
2.2 Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giai đoạn từ
sau 1959 tới nay.
Sau gần 30 năm thực hiện Luật hôn nhân và gia đình gia đình 1959, nước ta bắt
đầu bước vào thời kì đổi mới, đặc biệt là sự đi lên của kinh tế. Để đảm bảo quyền định
đoạt của công dân Luật hôn nhân và gia đình mới đã được ban hành năm 1986. Quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản
riêng.
Chế độ tài sản giữa vợ và chồng mà Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định đã
tạo môi trường pháp lí đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng,

mặt khác còn là căn cứ pháp lí để các cấp Tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những
vụ việc tranh chấp liên quan đến tài sản của hai bên vợ chồng.
Chế độ tài sản được quy định trong bộ Luật luật 1986 là chế độ tài sản riêng và
chung
Sỡ hữu tài sản chung
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định chế độ tài sản chung của vợ
chồng là chế độ tài sản chung hợp nhất. Tài sản chung của vợ chồng gồm:
Page 14 of 24
+Tài sản do vợ chồng tạo ra: Do một bên vợ hoặc chồng thực hiện,có thể do lao
đông hoặc không lao động nhưng vợ chồng có sử dụng tiền hoặc vật có giá trị trao đổi
do phát sinh quyền sỡ hữu đối với tài sản.
+Thu nhập về nghề nghiệp: Gồm tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp, các thu nhập về
sản xuất gia đình.
+Thu nhập hợp pháp khác: Do lao động hoặc không do lao động.
+Tài sản do thừa kế chung.
+Tài sản do tặng cho chung.
Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã cụ thể hóa trong một chừng mực nhất định
các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ, chồng mục đích sử dụng tài sản chung
vào nhu cầu đời sống chung của gia đình, quyền bình đẳng của vợ, chồng trong việc
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
Tài sản riêng
Trong luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận vợ, chồng có tài sản riêng. Điều này
phù hợp với điều kiện kinh tế và nguyện vọng của nhân dân.Vợ chồng có quyền sở hữu
riêng đối với những tài sản có trước khi kết hôn, tài sản thừa kế riêng, tặng cho riêng
trong thời kì hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại,
đồ dùng cá nhân. Điều đó đã đề cao sự bình đẳng của vợ chồng trong hôn nhân về vấn
đề tài sản và quyền tự quyết. Và cũng có thể nói rằng, cơ sở pháp lí đầu tiên ghi nhận
quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong bộ luật 1986 chính là sự ghi nhận
quyền bình đẳng của người phụ nữ đối với nam giới trong gia đình và xã hội.
Trong hôn nhân vợ chồng, đối với tài sản riêng họ có quyền thực hiện các quyền

năng của chủ sở hữu trong dân sự tuy nhiên vẫn bị hạn chế trong một số trường hợp
+Tài sản chung trong gia đình không đủ chi tiêu, người có tài sản riêng phải bù
đắp vào các chi tiêu và không được phép đòi lại.
Page 15 of 24
+Trong trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung mà hoa lợi lợi tức là
nguồn sống duy nhất cuả hai vợ chồng. Việc định đoạt tài sản này phải có sự thỏa thuận
chung của hai vợ chồng.
+Tài sản riêng đã mất giá trị sử dụng, vợ chồng sử dụng tài sản chung để phục
hồi giá trị sử dụng của tài sản đó thì tài sản riêng trở thành tài sản chung.
+Trường hợp vợ chồng không thể quản lí tài sản riêng của mình và cũng không
ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lí tài sản riêng của họ.
Và đối với việc ghi nhận vợ, chồng có quyền sỡ hữu tài sản riêng trong Luật hôn
nhân và gia đình 1986 đều là có những nguyên do nhất định:
+Với sự phát triển của kinh tế, tài sản của công dân trở nên phong phú, đa dạng.
Vợ chồng trước hết với tư cách là công dân, bình đẳng đặc biệt là người vợ có quyền sở
hữu tài sản riêng của mình, đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng tạo
điều kiện tự định đoạt tài sản riêng của mình mà không phụ thuộc vào bên kia
+Đảm bảo tính thống nhất của các quy định về chế độ tài sản vợ chồng
Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân lần đầu tiên
được Bộ luật 1986 đề cập đến, vấn đề mà bộ luật 1959 còn chưa quy định. Điều 18 của
bộ luật 1986 quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân
đang tồn tại đều phải do Tòa án quyết định và nguyên tắc chia tài sản trong trường hợp
này giống trường hợp vợ chồng li hôn quy đinh tại Điều 42 LHNGĐ 1986. Tuy nhiên,
luật lại không hề dự liệu về hậu quả pháp lí sau khi chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân.
Nói đến trường hợp chia tài sản khi vợ chồng li hôn, Điều 42 của luật 1986 đã đề
ra nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng, song nó cũng chỉ mang tính ước lệ,
khi chia tài sản vẫn phải dựa vào công sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì, phát
triển khối tài sản chung của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sỡ hữu đối với tài sản của vợ

chồng, có những đặc điểm riêng và ý nghĩa đối với gia đình và xã hội. Bởi lẽ, bên cạnh
đời sống tình cảm thương yêu của vợ chồng cần phải có cơ sở kinh tế, tài sản để phát
Page 16 of 24
triển tổ ấm của mình. Việc ghi nhận quyền có tài sản chung đặc biệt là tài sản riêng của
vợ chồng là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam. Nó góp phần khẳng định vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội ngày nay là
bình đẳng, ngang quyền với nam giới, phù hợp với công ước Cedaw. Công ước của
Liên Hợp Quốc về xóa bỏ mọi phân biệt đối xử với phụ nữ mà nước ta đã tham gia năm
1982.
Tài sản là nguồn lực kinh tế quan trọng dùng để duy trì cuộc sống của vợ chồng.
Công nhận và bảo vệ quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng bằng pháp luật là
điều kiện để xác lập quyền bình đẳng về kinh tế giữa vợ và chồng.Vì thế, các nhà làm
luật đã không ngừng sửa đổi, bổ sung các quy định để hoàn thiện vấn đề tài sản giữa vợ
và chồng. Cụ thể, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (luật hôn nhân và gia đình năm
2000 sửa đổi bổ sung năm 2010) có quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và thừa kế của vợ
chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được quy định ở Điều 27, gồm:
+Tài sản do vợ, chồng tạo ra.
+Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,kinh doanh.
+Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân ,ví dụ: tiền
trúng số, tiền thưởng, tiền trợ cấp
+Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung.
+Nhũng tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận.
+Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn.
+Tài sản mà vợ chồng không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng khi có
tranh chấp, cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Vì là tài sản chung của vợ chồng nên vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Điều này thể hiện được sự bình đẳng của vợ
chồng trong gia đình về mặt tài sản, đảm bảo được quyền lợi của người phụ nữ trong

Page 17 of 24
gia đình. Hơn nữa, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn quy định thêm rằng: tài sản
chung của vợ chồng chỉ được chỉ dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện các
nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình phải có sự bàn bạc, thỏa
thuận, nhất trí của vợ chồng. Việc luật pháp quy định như vậy là rất hợp lí và tiến bộ,
đảm bảo được quyền lợi của người phụ nữ tránh được sự gia trưởng tự mình quyết định
mọi việc của người đàn ông.
Tài sản riêng của vợ, chồng được quy định ở Điều 32,gồm:
+Tài sản riêng của vợ, chồng có trước thời kì hôn nhân.
+Tài sản được thừa kế hoặc tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân.
+Tài sản được chia riêng cho vợ , chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 luật
hôn nhân và gia đình năm 2000.
+Hoa lợi, lơi tức phát sinh trên phần tài sản mà vợ, chồng được chia.
+Đồ dùng, tư trang cá nhân.
Việc quy định về tài sản riêng của vợ, chồng là một quy định rất tiến bộ trong luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, phù hợp với các quy định trong luật dân sự (Điều 164
BLDS quy định về sở hữu tài sản riêng của cá nhân) và đảm bảo được quyền lợi hợp
pháp của người phụ nữ, tránh sự lệ thuộc của nguời phụ nữ vào người đàn ông và việc
kết hôn không lành mạnh (kết hôn vì tiền).
- Ngoài ra, pháp luật còn quy định vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân (Điều 29, 30 luật hôn nhân và gia đình năm 2000), việc quy định như
vây giúp cho vợ chồng có thể linh hoạt trong việc sử dụng tài sản riêng của gia
đình như: sử dụng tài sản vào kinh doanh,để tránh rủi ro trong kinh doanh thì
việc chia tài sản là cần thiết (Ví dụ: Chồng lấy tiền của gia đình đi mua đất để
trồng tiêu, vợ thấy không khả thi nhưng chồng không nghe, khi đó chúng ta sẽ
áp dụng chế định này để vợ chồng chia tài sản. Khi đó nếu làm ăn thua lỗ thì
chỉ có mình người chồng chịu, người vợ vẫn còn tài sản để duy trì cuộc sống
gia đình), hoặc là trường hợp hai vợ chồng bất hòa muốn chia tài sản nhưng
Page 18 of 24

không muốn li hôn thì chế định này rất phù hợp, tránh được sự tan vỡ của một
gia đình…Đây cũng là một chế định mới trong luật hôn nhân gia đình Việt
Nam, những quy định này dần đưa người phụ nữ trở nên bình đẳng, ngang
bằng với người đàn ông. Trong một số trường hợp thì người phụ nữ có thể
được ưu ái bảo vệ hơn người đàn ông.
Tiếp đó là quy định về thừa kế của vợ chồng. Quy định này tuy không phải là
mới nhưng nó cũng chỉ mới xuất hiện ở các luật hôn nhân và gia đình, còn trước đó ở
thời phong kiến thì phụ nữ không có quyền được hưởng di sản thừa kế. Vấn đề thừa kế
được quy định rõ ràng đầy đủ hơn ở luật hôn nhân và gia đình năm 2000, cụ thể luật
quy định thêm: Trong trường hợp yêu cầu chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời
sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu
Tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho
chia di sản trong một khoảng thời gian nhât định. Quy định này để bảo vệ bên còn lại
khi một bên đã chết, tránh cho cuộc sống của bên còn lại bị xáo trộn lớn khi bên kia đã
chết đi (chủ yếu là rơi vào người phụ nữ khi chồng chết đột ngột, hoàn cảnh gia đình
khó khăn, éo le). Nhìn chung các quy định về tài sản trong luật hôn nhân và gia đình
2000 là tương đối hoàn thiện nên luật hôn nhân gia đình sửa đổi năm 2010 không sửa
đổi gì nhiều.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2014 có quy định lại
một số vấn đề về tài sản của vợ chồng, cụ thể: luật sáp nhập hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng là tài sản chung; quy định cụ thể hơn về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản chung của vợ chồng, có 4 điều luật nói về vấn đề này: Điều 34-Đăng kí quyền sở
hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung, Điều 35-Chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài
sản chung, Điều 36-Tài sản chung được đưa vào kinh doanh, Điều 37- Nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng; về vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân luật có quy
định thêm thời điểm có hiệu lực và thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân ( Điều 39,41); về tài sản riêng của vợ, chồng có quy định
thêm nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng ( Điều 45), sát nhập tài sản riêng vào tài
sản chung (Điều 46, 47), các thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng ( Điều 48, 49, 50).
Page 19 of 24

Các quy định trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2014 rất
hoàn thiện. Luật đã đưa ra các quy định mới để điều chỉnh các quan hệ phức tạp mà
trước đó luật hôn nhân và gia đình năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010 chưa điều chỉnh
được và các quy định có tính dự liệu cho tương lai. Với các qui định mới này thì việc
bình đẳng của vợ chồng là rất rõ ràng và không cần bàn cãi gì nhiều nữa. Chúng ta đã
dần tiến đến sự bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng.
Chương III:
THỰC TRẠNG VÀ Ý NGHĨA THỰC HIÊN QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRONG HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1. Thực trạng :
Việt Nam thời Hồng Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo, mặc
dù tuân thủ khá nghiêm ngặt những quan điểm của Nho giáo là địa vị, vai trò của người
phụ nữ, người vợ bị coi thường và bị hạ thấp so với người đàn ông, người chồng nhưng
trong Bộ luật Hồng Đức, có nhiều điều thể hiện sự nới lỏng những ràng buộc đối với
người phụ nữ, người vợ trong gia đình. Nhân phẩm con người và các quyền cơ bản của
người phụ nữ được thừa nhận, bảo vệ và thể hiện cụ thể trong Bộ luật Hồng Đức. Đây là
sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp, kế thừa những thuần phong, mỹ tục của
dân tộc và con người Việt Nam. Những điểm tiến bộ của bộ luật Hồng Đức là những nét
son tô thắm thêm những giá trị nhân văn của truyền thống lập pháp Việt Nam. Những
giá trị này có một ý nghĩa nhất định trong hoàn thiện các quy định về luật hôn nhân gia
đình, luật Bình đẳng giới của nước ta hiện nay.
Về tài sản, chế độ tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được Luật HNGĐ qua
các thời kỳ quy định khác nhau. Luật HNGĐ năm 1959 (Điều 15) quy định vợ và chồng
đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau
khi cưới, Luật HNGĐ năm 1987 (Điều 16) quy định tài sản mà vợ hoặc chồng có trước
khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì
người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ
chồng, Luật HNGĐ năm 2000 (Điều 27 về tài sản chung vợ chồng) lại quy định:
Page 20 of 24
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao

động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng
đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng
đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản
chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp
nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy
định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên
của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”.
Thực tế giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình đã gặp nhiều khó khăn trong việc
xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng. Tài sản riêng được đưa vào sử dụng
chung nhưng không có thỏa thuận bằng văn bản còn có nhiều quan điểm khác nhau.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, tài sản vợ chồng đang quản lý chung mặc dù một
người đứng tên, không có văn bản thỏa thuận đó là tài sản riêng thì vẫn là tài sản chung
của vợ chồng.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, tài sản có trước khi kết hôn hoặc được thừa kế,
tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân cho dù có đưa vào sử dụng chung, nhưng vẫn
đứng tên người đó, không có văn bản xác nhận đó là tài sản chung thì tài sản đó được
xác định là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Điều 28 Luật HNGĐ quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
của vợ chồng, có sử dụng cụm từ “tài sản có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của
gia đình”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có tiêu chí để xác định như thế nào là tài sản có giá
trị lớn nên dẫn đến nhiều Toà án lúng túng trong việc giải quyết tranh chấp.
Page 21 of 24
Đồng thời, trong thực tế, sau khi kết hôn một hoặc các bên sử dụng tài sản chung
của vợ chồng để đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi ly hôn, việc chia tài
sản chung của vợ chồng đối với phần tài sản đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh ảnh

hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Luật HNGĐ mới chỉ quy định
nguyên tắc chung tại điểm c khoản 2 Điều 95 “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo
thu nhập”, chưa quy định cụ thể hậu quả việc chia tài sản chung trong góp vốn vào
doanh nghiệp. Do đó, khi có vụ việc xảy ra, Tòa án lúng túng trong việc áp dụng pháp
luật.
Để giải quyết được những khó khăn, bất cập nêu trên, cần phải sửa đổi, bổ sung
các quy định cụ thể về việc xác lập, xác định và chia tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng trong Luật HNGĐ cho phù hợp với thực tiễn và có tính đặc thù, công nhận cả
thỏa thuận bằng miệng, bằng văn bản không tuân thủ quy định về hình thức. Ví dụ: quy
định rõ các bên có quyền thoả thuận về tài sản chung và tài sản riêng. Trong trường hợp
không có thoả thuận thì tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ
chồng.
Đồng thời, cần mở rộng các quy định về tài sản nhằm đảm bảo bao hàm cả những
loại tài sản mới xuất hiện trong xã hội như quyền sở hữu trí tuệ của vợ hoặc chồng làm
phát sinh về tài sản có được coi tài sản chung của vợ chồng. Các giao dịch về chứng
khoán, về góp vốn trong doanh nghiệp,… cũng cần được quy định cụ thể trong Luật
Hôn nhân và gia đình.
2. Ý nghĩa của việ c thực hiện quyền bình đẳng của người phụ nữ trong hôn
nhân gia đình:
Việc bảo vệ quyền của người phụ nữ luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi
quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Vấn đề bảo vệ quyền của người phụ nữ
nói chung và bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ trong quan hệ tài sản, nhân
thân với người chồng nói riêng xét cả trên hai phương diện thực tiễn và lý luận có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết, phải thừa nhận rằng: Sự bình đẳng trong quan hệ vợ
chồng phụ thuộc trước tiên vào sự bình đẳng trong quan hệ tài sản. Trong gia đình có xu
Page 22 of 24
hướng ai có tài sản, người đó giữ quyền quyết định, điều chỉnh mọi vấn đề của gia đình.
Do đó, khi người phụ nữ có cơ hội và thực tế được bình đẳng với chồng về tiềm lực kinh
tế, về quyền tài sản, thì đó chính là các điều kiện tiên quyết để bảo đảm sự bình đẳng của

các quan hệ khác trong quan hệ vợ chồng.
Trong quan hệ tài sản với người chồng, người phụ nữ cần được đảm bảo có cơ
hội tiếp cận, kiểm soát tài sản như người chồng để có thể có quyền ngang nhau với
người chồng trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của gia đình. Bảo vệ quyền
tài sản của người phụ nữ sẽ có tác động to lớn trong việc nâng cao vị thế, vai trò của
người vợ trong gia đình và trong xã hội. Khi có tiềm lực kinh tế, người phụ nữ sẽ có
nhiều cơ hội để tiếp cận với tri thức, với khoa học, được mở rộng tầm hiểu biết, sẽ đóng
góp sức lực và trí tuệ, làm giàu nhiều hơn cho gia đình và cho xã hội, con cái có điều
kiện học hành, chăm sóc sức khỏe tốt hơn….Việc bảo vệ quyền tài sản của người vợ là
cơ sở để đảm bảo bình đẳng giới thực chất giữa vợ và chồng trên thực tế. Việc đảm bảo
quyền tài sản của người vợ trên thực tế tạo điều kiện cho người vợ có quyền sở hữu tài
sản, tiếp cận các nguồn lực của gia đình, có quyền kiểm soát và quyết định các vấn đề
quan trọng liên quan đến tài sản của gia đình. Người vợ có quyền quyết định về tài sản
sẽ có tiếng nói quan trọng có giá trị trong gia đình và tiến tới đảm bảo quyền bình đẳng
giới giữa vợ chồng.
Ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng còn ở khía cạnh xử lý kịp thời, nghiêm khắc các hành vi vi phạm
quyền tài sản của người vợ trong quan hệ hôn nhân, các tranh chấp, khiếu kiện liên quan
đến tài sản, những hành vi hủy hoại danh dự của người vợ…đảm bảo lợi ích chính đáng
về quyền tài sản của người vợ trên thực tế.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, quyền của người phụ nữ đã được pháp luật ghi
nhận, đây chính là một sự tiến bộ. Nhưng việc quan trọng hơn là cần bảo vệ và bảo đảm
cho được những quyền của người phụ nữ được thực hiện trong thực tế. Điều đó đòi hỏi
một cơ chế đồng bộ từ việc xây dựng pháp luật đến các biện pháp thực hiện ở mọi cấp,
mọi ngành. Chỉ khi bảo vệ được quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong quan hệ
Page 23 of 24
tài sản của vợ chồng thì việc đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ mới được thực
hiện.
Page 24 of 24

×