Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS, thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.29 KB, 17 trang )

Lời mở đầu
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời
sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy, mở rộng dân chủ,
tăng cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp
luật trước hết phải có những quy định chặt chẽ về bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền bào chữa.
Cho tới nay, Nhà nước ta đã ban hành 4 bản Hiến pháp và trong tất cả các
bản Hiến pháp đó đều có điều luật quy định về quyền bào chữa trong Tố tụng hình
sự (TTHS):
- Khoản 2 Điều 67 Hiến pháp năm 1946 quy định: “người bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
- Khoản 2 Điều 161 Hiến pháp năm 1959 và khoản 2 Điều 133 Hiến pháp
năm 1980 quy định: “quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm”.
- Điều 132 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
“quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình.
Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa”.
Nguyên tắc Hiến định này đã được Bộ luật TTHS năm 2003 (BLTTHS) cụ
thể hóa tại Điều 11: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa.Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ
luật này”.
Như vậy, thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, báo có thể
do chính người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện hoặc nhờ người khác bào chữa.
Trong phạm vi bài viết của mình em chỉ đề cập đến vấn đề quyền bào chữa


cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện bởi người bào chữa mà cụ thể
là vấn đề “quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS, thực
tiễn thi hành và hướng hoàn thiện”.
Nội dung
I. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của BLTTHS
1. Khái niệm người bào chữa trong TTHS
Bào chữa là một trong những chức năng quan trọng không thể thiếu được
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự (VAHS) nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy vậy trong thực tiễn, vì những lý do khác
nhau nên không phải bất cứ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nào cũng có khả năng
tự bào chữa một cách có hiệu quả. Do đó, pháp luật tạo điều kiện để họ thực hiện
quyền bào chữa của mình bằng việc có thể người khác bào chữa. Nhờ người khác
bào chữa là một hình thức thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo có hiệu quả và góp phần không nhỏ vào việc giúp Cơ quan tiến hành tố tụng
(CQTHTT) giải quyết vụ án được khách quan.
Tuy BLTTHS không nêu khái niệm cụ thể khái niệm người bào chữa, nhưng
căn cứ vào quy định tại các Điều 56, 57 và 58 BLTTHS, thì: “Người bào chữa là
người được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra
những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp
đỡ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ”.
So với BLTTHS năm 1988 quy định về người bào chữa thì BLTTHS năm
2003 có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo việc xét xử dân chủ, khách quan,
công bằng hơn theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về công
tác tư pháp và tập huấn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có
thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giam, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân.
- Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật

tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa
của luật sư có tính chất chuyên nghiệp.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc
người giám hộ, anh chị em ruột v.v... của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa
thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất thiết phải
là người đã thành niên, không bị tâm thần, có quốc tịch Việt Nam, cư trú tại Việt
Nam trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc là người Việt
Nam ở nước ngoài.
- Bào chữa viên nhân dân:
Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là thành viên của tổ chức mình. Hoạt động bào chữa của bào chữa viên nhân
dân không phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư.
2. Vai trò của người bào chữa
Khi tham gia tố tụng người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo, mà họ còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị tạm giữ, bị can hay bị cáo thì phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật. Ngược
lại muốn góp phần bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trên cơ sở pháp
luật. Người bào chữa phải luôn chú ý cả hai nhiệm vụ trên. Nếu chỉ chú ý đến
nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thôi
thì rất dễ dẫn đến tình trạng ngụy biện. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến bảo vệ pháp
luật, pháp chế thì có thể biến mình thành người buộc tội người bị tạm giữ, bị can
hay bị cáo.
Như vậy, vai trò đặc trưng của người bào chữa trong TTHS là sự kết hợp

nhuần nhuyễn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo với việc bảo vệ chân lý, tôn trọng pháp luật và pháp chế.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp những người không được bào
chữa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì những người
không được bào chữa là người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; Người tham gia trong vụ
án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. Qua
đó, nhằm bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo.
Hơn thế nữa, luật TTHS còn quy định một người có thể bào chữa cho nhiều
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ
không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo (khoản 3 Điều 56 BLTTHS năm 2003). Nhưng trong thực tiễn
hiện nay có quan điểm cho rằng quy định trên của LTTHS năm 2003 là không hợp
lý và cần quy định “một người chỉ được bào chữa cho một người bị can, bị cáo
trong VAHS”. Nhưng theo em không thể đồng ý với quan điểm này, vì nó hạn chế
hiệu quả của việc bào chữa ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, pháp luật cũng nên
giới hạn số lượng người bào chữa cho một bị can, bị cáo trong VAHS tránh tình
trạng quá nhiều người bào chữa cho một bị can, bị cáo làm cho việc bào chữa
không được tập trung, tràn lan không cần thiết hoặc bào chữa lặp lại, mất thời gian
của HĐXX.
3. Quyền tố tụng của người bào chữa
Người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều là người tham gia
TTHS. Mặc dù địa vị pháp lý của họ không như nhau, nhưng khi tham gia tố tụng
họ lại có mối quan hệ ràng buộc “tương đối” với nhau. Người bào chữa tham gia
TTHS với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lại là đối tượng của TTHS (điều tra, truy tố,
xét xử). Họ là những người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội. Khi tham gia tố
tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình. Trường hợp bị tạm giữ, bị can, bị cáo hay người đại diện

hợp pháp của họ nhờ người khác bào chữa, thì người bào chữa có các quyền tố tụng
được pháp luật quy định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể ba
thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa. Đó là:
- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
- Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy
hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
- Trong trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc
đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can đây là một bước tiến mới, một biểu hiện dân chủ, tiến bộ trong pháp luật
TTHS Việt Nam nhằm mở rộng hơn nữa những biện pháp bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bào chữa có các quyền (khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003):
- Người bào chữa còn có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ,
hỏi cung bị can. Nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Xem các biên bản về hoạt động tố tụng
có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình
bào chữa.
Đây là quyền của người bào chữa để trực tiếp nghe người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo khai báo, mặt khác trong quá trình hỏi cung nếu người bào chữa phát hiện ra
những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và cần thiết cho việc bào
chữa như để minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
người bào chữa đề nghị điều tra viên lưu ý với tình tiết đó. Người bào chữa có mặt
khi đó sẽ làm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo yên tâm hơn và khai báo chính xác sự
việc đồng thời ngăn ngừa việc vi phạm pháp luật của điều tra viên trong trường hợp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị mớm cung, bức cung hay dùng nhục hình. Nếu
phát hiện điều tra viên có vi phạm pháp luật thì người bào chữa có quyền khiếu nại
đến cơ quan có thẩm quyền.

- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của khoản 3 Điều 43 BLTTHS năm 2003.
Người bào chữa có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy những người
này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; gặp người bị tạm
giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy
định của pháp luật.
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất.
Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ
án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không
phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo
của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
Mặt khác, theo Điều 19 BLTTHS năm 2003 thì tại phiên tòa người bào chữa
còn có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện
cho người bào chữa thực hiện quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Đây không chỉ là một quyền của người bào chữa mà còn là nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng.
4. Nghĩa vụ của người bào chữa
Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa
có nghĩa vụ:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan
tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 BLTTHS năm
2003.
- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ.

×