Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Khóa luận tốt nghiệp bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.03 KB, 50 trang )

Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

1

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bất cứ ai gây thiệt hại cũng phải bồi thường – điều này từ lâu đã trở thành
nguyên tắc ứng xử trong đời sống xã hội và pháp luật. Nguyên tắc này được cụ
thể hóa thành chế định bồi thường thiệt hại trong các văn bản pháp luật. Xét về
nguồn gốc hình thành cũng như sự phát triển, chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng ra đời từ rất sớm và qua mỗi giai đoạn lịch sử với những biến cố
kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, chế định này ngày càng được hoàn thiện.
Pháp luật dân sự Việt Nam ngoài những quy định chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, còn có những quy định cụ thể về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể, bởi cùng với
sự phát triển của xã hội là sự đa dạng về chủ thể gây thiệt hại, đối tượng bị thiệt
hại cũng như cách thức, hoàn cảnh, mức độ thiệt hại…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một
trong những loại trách nhiệm dân sự gây nhiều tranh cãi và khó khăn trong thực
tiễn áp dụng về căn cứ phát sinh, mức bồi thường, hình thức bồi thường, cũng
như lỗi của hai bên đương sự. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại chương XXI, từ điều 604 đến điều
630, trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng được quy định cụ thể tại điều 613. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho
thấy, án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn thường
chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong các án kiện về bồi thường thiệt hại nói chung.
Đa số các vụ án về vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thường được xử theo




Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

2

tố tụng hình sự, và việc quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại vì thế cũng
nằm trong bản án hình sự. Tuy nhiên, hầu hết các án sơ thẩm đều bị kháng cáo,
kháng nghị, người bị thiệt hại thường yêu cầu được bồi thường cao hơn mức đã
được tòa án quyết định. Điều này được giải thích là do các quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở các quy định mang tính “định
tính” chứ không “định lượng”, nên gây khó khăn cho các cán bộ áp dụng pháp
luật và các bên đương sự.
Vì vậy, tác giả khóa luận cho rằng việc tiến hành nghiên cứu một cách có
hệ thống vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là việc làm cần thiết và phù hợp với chương trình đào tạo của nhà
trường. Với nhận thức như trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” làm đề tài tốt nghiệp cho chương
trình đào tạo Cử nhân Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung đã được rất
nhiều nhà khoa học nghiên cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có
đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng như Luận văn thạc sĩ luật học của TS Lê Mai Anh: “Những vấn đề cơ bản
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự”; các
bài viết của TS Phùng Trung Tập: “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”, tạp chí tòa án số 10/2004, “Bàn về lỗi – Một điều kiện xác
định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng”, đặc san nghề luật số 8/2004; bài viết
của ThS Trần Thị Huệ: “Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn mà pháp luật

cho phép”, tạp chí luật học số 6/2001, “Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, tạp chí luật học số đặc san tháng 11/2003…


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

3

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây đã nêu và phân tích những
vấn đề có tính khái quát chung nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
luật dân sự, đưa ra các yêu cầu cơ bản về việc xác định trách nhiệm bồi thường,
mức bồi thường cũng như vấn đề xác định lỗi của các bên, điều chỉnh việc tăng
hay giảm mức bồi thường. Tuy nhiên những công trình trên đây chỉ đề cập ở
dạng khái quát và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng chỉ là một phần nhỏ trong các công trình nghiên cứu. Việc nghiên
cứu hoàn chỉnh và cụ thể chưa được khai thác.
Bởi vậy tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách cụ thể, có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định của Bộ luật dân sự
2005 và các văn bản hướng dẫn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Khóa luận hướng tới hai mục đích cụ thể là thông qua việc tìm hiểu các
quy định của pháp luật dân sự hiện hành, tác giả có được cái nhìn khái quát và
hoàn chỉnh về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nói
riêng, qua đó giúp cho việc áp dụng vào thực tế được dễ dàng hơn, đồng thời
đưa ra được những suy nghĩ của cá nhân và có những khuyến nghị trong việc
thực thi và áp dụng pháp luật.
Để đạt được mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ tìm hiểu các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề này, cụ thể là Bộ luật dân sự 2005 và các văn

bản pháp luật liên quan, đồng thời tìm hiểu thực tiễn xét xử và áp dụng pháp luật
về bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, qua đó chỉ ra
được những bất cập của pháp luật và phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

4

4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Trong giới hạn nghiên cứu đề tài cử nhân Luật, tác giả chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng
thông qua một số bản án cụ thể về việc giải quyết trách nhiệm bồi thường. Khóa
luận cũng xin được đưa ra một số khuyến nghị nhằm giải quyết những khó khăn
trong giải quyết bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Khóa luận nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Khóa luận chủ yếu sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh luật…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời nói đầu, lời kết, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội
dung của khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1. Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng.
Chương 2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng – Phương hướng hoàn thiện
pháp luật.



Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

5

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG.
1.1.

Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng.

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Ý
nghĩa pháp lí và xã hội.
Ở thời kì sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, người ta
thường áp dụng máy móc nguyên tắc “nợ gì trả nấy” khi có hành vi gây thiệt hại
xảy ra. Luật Mười hai bảng ban hành trước Công nguyên quy định: kẻ nào làm
gãy tay người khác thì phải chịu lại tương tự như vậy. Có nghĩa là ở thời kì này,
người ta áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng, như thế đồng nghĩa với việc
quyền lợi của người bị hại không hề được đảm bảo, mà trái lại còn phát sinh một
thiệt hại mới. Chính vì lí do này mà về sau người ta xem xét và chú trọng nghiên
cứu, quan tâm đến vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thông thường, khi các bên chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật
dân sự mà một trong các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã cam kết thì tất yếu phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về mình. Sự gánh
chịu những hậu quả bất lợi này được thực hiện thông qua việc giải quyết “trách
nhiệm dân sự” giữa người có quyền và người có nghĩa vụ theo nguyên tắc bên
có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại phải bồi thường. Đây chính là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (bồi thường thiệt hại trong hợp

đồng).
Tuy nhiên, thực tiễn đời sống pháp lí cho thấy, ngoài trách nhiệm dân sự
do vi phạm nghĩa vụ, còn tồn tại một loại trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại
(thường gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng). Xét về mặt lịch


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

6

sử ra đời, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những
chế định pháp luật có sớm nhất và cũng là chế định gây ra nhiều tranh cãi, có
nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau của các nhà nghiên cứu
lập pháp. Trải qua các giai đoạn lịch sử gắn với những biến cố của đất nước, chế
định bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
riêng ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử, xã hội. Luật
cổ Việt Nam quy định trách nhiệm dân sự theo hình thức phạt tiền, nhưng không
quy định riêng về trách nhiệm dân sự mà nằm trong các quy định vừa mang tính
hình phạt của hình sự và vừa mang tính phạt bồi thường của dân sự theo hướng
có lợi cho người bị thiệt hại. Mức độ bồi thường tùy thuộc vào nhân thân người
bị thiệt hại. Quốc triều hình luật ấn định tiền đền mạng theo phẩm trật của người
bị chết như sau: nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan; nhị phẩm,
tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 7.000 quan, tứ phẩm, tòng
tứ phẩm 5.000 quan; ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm 2.000 quan; lục phẩm, tòng lục
phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất phẩm 500 quan; bát phẩm đến cửu phẩm
300 quan, thứ nhân trở xuống 150 quan. Trong trường hợp đánh người gây
thương tích thì người phạm tội ngoài hình phạt bị đánh roi còn phải bồi thường
cho nạn nhân theo mức đã được ấn định như sau: “Sưng phù thì phải đền tiền
thương tổn 3 tiền, chảy máu thì phải 1 quan, gãy một ngón tay, một răng thì đền
10 quan, đâm chém bị thương thì 15 quan. Đọa thai chưa thành hình thì 30 quan,

đã thành hình thì 50 quan, gãy một chân một tay, mù một mắt thì 50 quan, đứt
lưỡi và hỏng âm, dương vật thì đền 100 quan. Về người quyền quý phải xử
khác”. Riêng trong Hoàng Việt luật lệ lại chỉ quy định tỉ mỉ các chế tài hình sự
chứ không đề cập đến bồi thường, pháp luật chỉ dự liệu các trường hợp như
hỏng mắt, gãy tay chân… thì ngoài chế tài hình sự, kẻ phạm tội phải bồi thường
cho nạn nhân 1/2 tài sản của mình để nuôi thân. Ở thời kì này, kẻ phạm tội ngoài
việc phải chịu hình phạt thì còn phải bồi thường cho nạn nhân một số tiền, mà
thông thường số tiền phạt này được ấn định gấp đôi, gấp ba lần thiệt hại thực tế
đã xảy ra.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

7

Cùng với sự phát triển của xã hội, các chế định pháp luật cũng dần được
thay đổi và hoàn thiện, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được coi là một
hình phạt nữa mà là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại, phải bồi thường
cho người bị thiệt hại. Vì thế, chế định bồi thường thiệt hại trong luật Hình sự
chỉ là một biện pháp tư pháp.
Cần thấy rằng, các thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của công dân, tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức có thể xảy ra dưới
nhiều tác động khác nhau, mà phần lớn là do hành vi trái pháp luật của cá nhân
mang lại. Hiến pháp mỗi quốc gia ghi nhận nguyên tắc cơ bản về việc Nhà nước
bảo hộ về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền
và lợi ích khác của cá nhân, pháp nhân, tổ chức. Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm…”(Điều 71); “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân”(Điều 58); “Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần

kinh tế… đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà
nước bảo hộ”(Điều 22)… Bên cạnh đó, Nhà nước còn sử dụng những biện pháp
khác nhau để ngăn chặn và khắc phục hậu quả của những hành vi vi phạm pháp
luật gây ra thiệt hại. Điều 604, Bộ luật dân sự năm 2005 xác định “Người nào do
lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường”. Điều này có nghĩa, sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn
cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm
trong trường hợp này được hiểu là nghĩa vụ của người gây thiệt hại - phải bồi
thường cho người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp luật của mình. Nhà làm
luật đã đồng nghĩa “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” với “nghĩa
vụ phát sinh do hành vi trái pháp luật”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

8

phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra
quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm “Nghĩa vụ dân sự” quy định tại điều
281 Bộ luật dân sự năm 2005 (Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của
pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể phải làm một công việc hoặc không được
làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác). Theo đó, ta có
thể khái quát rằng “Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một loại quan hệ dân sự
trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại thì
phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra”.
Có thể thấy rõ ràng một điều rằng, “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó giữa họ

không có quan hệ hợp đồng, hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của
người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã cam kết”. 1
Tuy nhiên để phân biệt rạch ròi quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
những quan hệ như thế nào thật sự không dễ dàng. Về cơ bản, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đương nhiên không thể phát sinh từ hợp đồng
mà từ hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại. Song thực tế pháp lí cho thấy,
có nhiều trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng xuất hiện
từ quan hệ hợp đồng giữa hai bên chủ thể. Việc vi phạm nghĩa vụ của các bên
không hề liên quan gì đến việc thực hiện hợp đồng. Ví như việc thực hiện hợp
đồng mua bán tài sản thuộc sở hữu của người thứ ba. Bộ luật dân sự có quy định
về quyền của bên mua được yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có người thứ ba đòi
tài sản thuộc sở hữu của mình, mà tài sản này lại là đối tượng của hợp đồng mua
bán giữa hai bên chủ thể. Như vậy quan hệ bồi thường thiệt hại này là quan hệ
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi hợp đồng mua bán giữa hai bên đã bị
vô hiệu do đối tượng mua bán là tái sản không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
bên bán. Ngoài ra trách nhệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có thể
phát sinh từ việc giao kết hợp đồng khi bên đề nghị giao kết hợp đồng rút lại đề
1

Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự - Lê Mai Anh.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

9

nghị một cách không có căn cứ, thì cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho
bên còn lại.
Như vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm
phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có

quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa
vụ thi hành hợp đồng đã kí kết. Quan hệ hợp đồng không là căn cứ nhưng có thể
đưa lại khả năng làm phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.1
Từ những phân tích nêu trên có thể rút ra khái niệm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lí, là một biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước, theo đó người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại do hành vi
của mình gây ra khi hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý xâm hại tới
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các quyền nhân
thân và quyền tài sản khác của cá nhân, tài sản, danh sự, uy tín của pháp nhân
và các chủ thể khác”.
Pháp luật không khuyến khích các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Người có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể
khác thì phải bị xử lí, trừng trị nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm
pháp luật. Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hệ
thống trong Bộ luật dân sự năm 2005 vì thế có ý nghĩa pháp lí và ý nghĩa xã hội
sâu sắc.
Đầu tiên, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Trong các quan hệ xã hội nói
chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng, các chủ thể tham gia nhằm thỏa
mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình, mà thông thường lợi ích
luôn là đích để các chủ thể hướng đến. Hiến pháp và pháp luật ghi nhận một
1

Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự - Lê Mai Anh.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

10


nguyên tắc bất di bất dịch là “Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân”. Lợi ích hợp pháp ở đây có thể là lợi ích về vật chất hoặc lợi ích về
tinh thần. Xã hội càng phát triển thì các chủ thể càng phải tham gia vào nhiều
quan hệ xã hội, khi tham gia vào các quan hệ xã hội này, những lợi ích của các
chủ thể càng cần được bảo vệ. Vì vậy việc quy định các căn cứ làm phát sinh,
nguyên tắc cũng như hình thức, mức độ bồi thường thiệt hại… trong chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.
Đồng thời, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn góp phần
đảm bảo công bằng xã hội. Như đã nói ở trên, pháp luật không khuyến khích các
hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, một nguyên
tắc đặt ra là bất cứ ai cũng phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi trái pháp luật
và hậu quả do mình gây ra. Đây chính là cái mà người ta vẫn gọi là công bằng
xã hội. Anh gây thiệt hại cho người khác thì anh phải bồi thường cho họ, bởi vì
hành vi trái pháp luật của anh gây ra mà họ phải chịu những tổn thất về sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín… Và lẽ công bằng là gây thiệt hại bao nhiêu
thì phải bồi thường bấy nhiêu. Tất nhiên, pháp luật vẫn dự liệu những trường
hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, như nguyên tắc giảm mức
bồi thường, bồi thường thiệt trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn của tình thế cấp
thiết, bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi….
Trên hết, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng góp phần răn đe,
giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại
pháp luật nói riêng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ
nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất do hành vi trái pháp luật gây ra mà còn có ý
nghĩa giáo dục công dân về ý thức tuân thủ pháp luật. Hậu quả của việc áp dụng
trách nhiệm này luôn mang đến những bất lợi về tài sản của người gây ra thiệt
hại để bù đắp những thiệt hại họ đã gây ra cho các chủ thể khác, đặc biệt với các



Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

11

hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi. Đây chính là ý nghĩa xã hội sâu sắc của chế
định, thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Với việc phải bồi thường
thiệt hại do mình gây ra, những chủ thể sẽ có ý thức hơn trong xử sự của mình.
Đồng thời, nó cũng mang ý nghĩa răn đe, giáo dục những chủ thể khác trong
việc áp dụng pháp luật. Qua đó, ý thức pháp luật của công dân ngày càng được
nâng cao hơn.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng.
Nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại, thỏa mãn những điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thì phải bồi thường bằng tài sản của
mình. Tuy nhiên, do tính đa dạng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thể hiện ở chủ thể gây thiệt hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh và
phương thức gây thiệt hại… nên pháp luật dân sự đã dự liệu một số trường hợp
đặc biệt trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong những
trường hợp đặc biệt như vậy.
“Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của người
khác”(Điều 10 Bộ luật dân sự 2005). Nghĩa là mọi hành vi trái pháp luật của các
chủ thể gây thiệt hại cho các đối tượng được pháp luật bảo vệ đều không được
pháp luật chấp nhận.
Tuy nhiên, để khuyến khích các cá nhân tự bảo vệ mình cũng như chủ
động ngăn chặn các hành vi trái pháp luật làm tổn hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, pháp nhân, cá nhân khác. Pháp luật coi hành động chống trả

lại các hành vi gây thiệt hại xâm phạm đến các đối tượng được pháp luật bảo vệ
trong một chừng mực cho phép là hành vi phòng vệ chính đáng. Về mặt lí luận,


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

12

chế định phòng vệ chính đáng được quy định và đề cập chủ yếu trong luật hình
sự. Pháp luật dân sự chỉ kế thừa và tiếp thụ trên cơ sở lí luận và thực tiễn của
luật hình sự.
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của tập thể hoặc vì bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hay của cá nhân
khác mà chống trả lại hành vi trái pháp luật của người khác đáng xâm hại đến lợi
ích của các chủ thể nêu trên. Tuy nhiên hành vi chống trả này chỉ được coi là
phòng vệ chính đáng khi nó tương xứng với hành vi vi phạm pháp luật. Điều 15
Bộ luật hình sự năm 2000 quy định: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người
vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang
có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội
phạm”. “Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm” bởi vì nó phù hợp với lợi
ích của xã hội, hỗ trợ Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội, chống lại các
hành vi xâm phạm quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Phòng vệ chính đáng
không phải là một nghĩa vụ pháp lí (nó chỉ là nghĩa vụ pháp lí đối với những
người có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước hoặc của nhân dân), đối với
công dân, nó là quyền. Vì vậy công dân có quyền sử dụng hoặc không sử dụng
vì những lí do khác nhau. Nhà nước cho phép công dân được tự bảo vệ lợi ích
của chính mình, của người khác hay của xã hội, khi có thể. Song cũng cần thấy
rằng, điều đó không có nghĩa là công dân có quyền tự xử lí các hành vi trái pháp
luật, quyền này thuộc về cơ quan Nhà nước. Do vậy phòng vệ chính đáng là có

giới hạn. Chỉ được coi là hành vi phòng vệ chính đáng khi hành vi đó phù hợp
với hoàn cảnh, lợi ích xã hội, là hành vi thực sự chống trả nhằm ngăn chặn sự
tấn công bất hợp pháp nhằm hạn chế những thiệt hại do hành vi trái pháp luật
gây ra. Nghĩa là sự chống trả phải ở mức “cần thiết và phù hợp”. Cũng cần thấy
rằng, hành vi xâm phạm các lợi ích được Nhà nước và pháp luật bảo vệ là cơ sở
của phòng vệ chính đáng, nhưng nó chỉ là cơ sở khi nó đang xảy ra hoặc đe dọa


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

13

sẽ xảy ra ngay tức khắc. Khi hành vi xâm phạm đã chấm dứt, thực sự chấm dứt
thì không đòi hỏi phải có hành vi ngăn chặn nữa. Sự phòng vệ lúc này không đạt
được mục đích của phòng vệ chính đáng. Trên thực tế có thể có những hành vi
phòng vệ chính đáng xảy ra sau khi sự tấn công đã kết thúc mà vẫn được coi là
phòng vệ chính đáng, nếu sự phòng vệ đó đi liền ngay sau hành vi xâm phạm và
có thể khắc phục được thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Hay một hành vi
xâm phạm chưa xảy ra nhưng đã có những biểu hiện đe dọa sẽ xảy ra ngay tức
khắc thì pháp luật cũng cho phép thực hiện quyền phòng vệ.
Đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự thì sự chống trả lại của người
phòng vệ phải nhằm vào chính người đang có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà
nước hay cá nhân, có như vậy mới được đạt được mục đích của phòng vệ chính
đáng là ngăn chặn một cách tích cực sự xâm phạm nhằm hạn chế tối đa thiệt hại
có thể xảy ra. Sự chống trả này có thể trực tiếp nhằm vào người đang có hành vi
xâm phạm hoặc công cụ phương tiện xâm phạm của họ. Vì thế pháp luật yêu cầu
sự chống trả này phải tương xứng với hành vi xâm phạm. Điều này có nghĩa các
biện pháp phòng vệ phải đặt trong những hoàn cảnh cụ thể. Như thế, sự tương
xứng trong phòng vệ chính đáng không phải chỉ là một sự so sánh đơn thuần, đó
cũng không phải là một biện pháp trả thù, mà là biện pháp ngăn chặn kịp thời

những hành vi nguy hiểm gây thiệt hại cho xã hội. Thực tế cho thấy trong nhiều
trường hợp, người phòng vệ phải gây ra một thiệt hại lớn hơn thiệt hại do người
xâm phạm gây ra mới có thể đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng. Tất
nhiên không thể so sánh rạch ròi những thiệt hại với nhau, vì tính chất của thiệt
hại xảy ra là khác nhau. Do vậy người phòng vệ chính đáng phải thể hiện sự
chống trả ở mức độ nhất định, tương xứng với hành vi xâm phạm, chứ không
phải muốn gây thiệt hại đến mức độ nào cũng được.
Như vậy, để xác định một hành vi gây thiệt hại được coi là hành vi
“phòng vệ chính đáng” thì nhất thiết phải có đủ các yếu tố sau: có hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

14

ích hợp pháp của người khác hoặc xâm phạm tới lợi ích của chính bản thân
người phòng vệ chính đáng; hành vi trái pháp luật đó phải đang gây thiệt hại
hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho đối tượng bị xâm hại; hành vi phòng vệ chính
đáng phải gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại ban đầu (thiệt hại có
thể lien quan đến tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản của người có hành vi trái
pháp luật); hành vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải là
cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại.
Điều 613 Bộ luật dấn sự năm 2005 quy định: “Người gây thiệt hại trong
trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”,
nghĩa là khi sự phòng vệ ở mức độ tương xứng với hành vi gây thiệt hại thì
người có hành vi phòng vệ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Có
nghĩa “người phòng vệ chính đáng không có lỗi”. Để đạt được mục đích này,
người phòng vệ phải có sự cân nhắc, tính toán để hành vi của mình tương xứng
với mức độ của hành vi xâm phạm. Trong trường hợp sự tính toán có sự sai lầm

về điều kiện, hoàn cảnh của hành vi xâm phạm, dẫn đến việc người có hành vi
phòng vệ lại có hành vi gây thiệt hại ngược trở lại, mà sự chống trả này vượt quá
giới hạn cần thiết, gây ra thiệt hại với người đã có hành vi gây thiệt hại ban đầu.
Nghĩa là sự chống trả là “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Việc vượt
quá giới hạn này là một hành vi vi phạm pháp luật, và lẽ dĩ nhiên, người có hành
vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường.
Như vậy “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng là một loại trách nhiệm pháp lí, một biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước, theo đó một người vì thực hiện hành vi bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích của mình hay của người khác, mà chống
trả lại một cách không tương xứng, vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, gây
ra thiệt hại cho người có hành vi xâm phạm ban đầu, thì phải bồi thường thiệt
hại do mình gây ra dù hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý, hay vô ý”.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

1.2.

15

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách

nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nói riêng
là một loại trách nhiệm pháp lí, do đó chỉ phát sinh khi thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện do pháp luật quy định. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi
thường, người phải bồi thường, người được bồi thường, hình thức và mức độ bồi

thường. Pháp luật dân sự không quy định cụ thể các điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, mà
chỉ quy định điều kiện phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung. Do đó, điều kiện phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được áp dụng để xác định điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Việc xác định rõ ràng các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường cũng như hình thức, mức độ
bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có
đầy đủ bồn điều kiện: có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật, có lỗi của người gây thiệt hại và có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt
hại và hành vi trái pháp luật. Theo đó, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng bao gồm bốn
điều kiện trên đây.
1.2.1. Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là điều kiện có tính chất bắt buộc, điều
kiện tiên quyết và quan trọng nhất để quyết định có phát sinh trách nhiệm bồi


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

16

thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay không. Không xem xét đến tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của thiệt hại như luật hình sự, luật dân sự chỉ cần
có thiệt hại là có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dù thiệt hại
xảy ra có nghiêm trọng hay không. Bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục, bù đắp những tổn thất mà người bị

thiệt hại phải gánh chịu, do vậy chỉ cần có thiệt hại xảy ra là tất yếu phát sinh
trách nhiệm bồi thường.
Thiệt hại hiểu theo nghĩa thông thường là những tổn thất thực tế được xác
định bằng một khoản tiền do sự xâm phạm đến tài sản, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín và các quyền cũng như các lợi ích khác của cá nhân, tổ chức, xã
hội. Tổn thất thực tế chính là sự giảm sút, mất mát những lợi ích vật chất hay
tinh thần, hoặc cũng có thể là những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại của người bị thiệt hại khi có hành vi gây thiệt hại của người khác. Thực
tế cho thấy, những thiệt hại về vật chất thường rất dễ xác định. Thiệt hại vật chất
được biểu hiện cụ thể, rõ ràng như tài sản bị mất, hay bị hư hại, hỏng hóc, hoặc
cũng có thể là những chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa và thay thế
tài sản đã bị mất, bị hư hại - những chi phí này chính là “khoản thu nhập thực tế
bị mất”. Nhưng những thiệt hại về tinh thần thì rất khó để “lượng hoá” một cách
rõ ràng. Bởi lẽ không ai có thể định giá được tính mnạg, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín – các quyền nhân thân của con người. Bản thân đời sống tinh
thần là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề và chỉ tồn tại đối với xã hội
loài người như đau thương, mồ côi, sự tự ti, mặc cảm… Vì thế, về nguyên tắc,
tổn thất về tinh thần không thể trị giá được bằng tiền theo nguyên tắc ngang giá
như trong trao đổi mua bán trên thị trường được, bởi những tổn thất tinh thần
này không thể phục hồi. Bồi thường các quyền nhân thân ở đây vì thế nó không
thể là sự bồi thường bằng tinh thần mà bằng vật chất, để phần nào giảm bớt sự
đau đớn, mất mát cho người bị thiệt hại, là những chi phí cần thiết để cứu chữa,


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

17

chăm sóc, phục hồi sức khoẻ, tinh thần cho họ. Do vậy việc xác định thiệt hại
cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.

Thiệt hại vừa mang ý nghĩa pháp lí vừa mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nhìn
từ góc độ xã hội, thiệt hại là hệ quả tất yếu của những hành vi trái pháp luật,
xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn về mặt pháp lí,
thiệt hại tự nó đã nói lên một điều rằng: hành vi trái pháp luật đã làm huỷ hoại
tài sản, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và Nhà nước. Hơn
thế, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh của Luật dân
sự Việt Nam.
Riêng đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng thì thiệt hại xảy ra rất đa dạng. Như đã nói ở trên, do sự
tính toán sai lầm về hoàn cảnh, điều kiện cũng như phương thức, mức độ phòng
vệ, mà người phòng vệ chính đáng có hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn pháp
luật cho phép, gây ra thiệt hại ngược trở lại với người có hành vi trái pháp luật
ban đầu. Thiệt hại này xảy ra có thể nằm ngoài, nhưng cũng có thể nằm trong ý
chí của người phòng vệ. Do đó, nó có thể là thiệt hại vật chất, mà cũng có thể là
thiệt hại tinh thần.
Pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nói
riêng là những vấn đề nhạy cảm và vô cùng phức tạp. Bởi thiệt hại xảy ra bắt
nguồn từ hành vi trái pháp luật của người bị thiệt hại, xuất phát từ hành vi gây
thiệt hại đó của người bị thiệt hại mà người có hành vi phòng vệ chính đáng mới
có hành vi chống trả lại. Dù hành vi chống trả lại này vượt quá giới hạn pháp
luật cho phép. Hơn nữa đôi khi hậu quả của hành vi chống trả vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng gây ra những thiệt hại về tinh thần cho người có hành vi
trái pháp luật ban đầu, và việc xác định cũng như giải quyết bồi thường trong
những trường hợp như thế này không hề dễ dàng. Pháp luật là để hạn chế, răn đe


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

18


và phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng cũng là công cụ để
tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật, ý thức đấu tranh phòng chống những
hành vi vi phạm pháp luật trong nhân dân. Bởi vậy, làm sao để giải quyết hài
hòa lợi ích các bên, là điều vô cùng phức tạp. Trong nhiều trường hợp người có
hành vi phòng vệ chính đáng không dự liệu hết được thiệt hại có thể xảy ra
ngoài tầm kiểm soát của họ, nghĩa là họ vô ý để thiệt hại xảy ra. Làm sao để mọi
công dân trong xã hội luôn có ý thức trong việc bảo vệ lợi ích của cá nhân, tập
thể và Nhà nước, nhưng trong giới hạn pháp luật cho phép, không làm ảnh
hưởng đến chính lợi ích của mình và của người khác là điều quan trọng hơn cả.
Đây chính là mục đích lớn nhất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng.
Thiệt hại xảy ra phải được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm
bảo công bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan, tuy
nhiên việc tiên lượng và đánh giá tính khách quan của thiệt hại lại thường thông
qua ý chí chủ quan của con người. Điều đó có nghĩa trong điều kiện, hoàn cảnh
thực tế như vậy, ai cũng thừa nhận đã có thiệt hại xảy ra và chấp nhận việc đánh
giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung, có một thực tế là người bị thiệt hại bao
giờ cũng muốn phức tạp hóa vấn đề, như khai tăng thiệt hại so với thực tế đã xảy
ra, còn người gây thiệt hại lại có chiều hướng ngược lại. Bởi vậy vai trò của
người đại diện cho pháp luật trong việc đánh giá thiệt hại là rất quan trọng. Sự
nhìn nhận, đánh giá thiệt hại phải dựa trên cơ sở pháp luật, từ đó mới có thể đưa
ra kết luận chính xác về việc có thiệt hại xảy ra hay không, mức độ thiệt hại như
thế nào.
Cũng cần phải hiểu rằng, thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng xảy ra do sự tính toán sai lầm của người có hành vi phòng
vệ, nên gây ra “phản ứng phụ”. Do vậy, việc đánh giá thiệt hại trong trường hợp
này phải thật sự cân nhắc kĩ càng, xem xét và nhìn nhận một cách khách quan,
không thể suy diễn chủ quan, cũng như không thể quy kết hoàn toàn trách nhiệm



Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

19

cho người cò hành vi phòng vệ chính đáng được. Bởi xét cho cùng, nếu không
có hành vi trái pháp luật ban đầu của người bị thiệt hại, thì cũng không yêu cầu
có hành vi phòng vệ của người phòng vệ, cũng không có việc người phòng vệ
chính đáng gây ra thiệt hại vượt quá giới hạn pháp luật cho phép và phải bồi
thường.
Thiệt hại phải tính toán được tương đương với một số tiền xác định mới
có thể đảm bảo được việc bồi thường. Nhưng đó là đối với những trường hợp
thiệt hại vật chất. Còn với những thiệt hại tinh thần, thì thật khó để tính toán
bằng tiền và định lượng chúng rõ ràng. Bởi vậy, Tòa án khi xem xét và định mức
bồi thường, cần có sự cân nhắc, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể mà xác định
thiệt hại xảy ra cũng như mức độ bồi thường. Pháp luật chỉ chấp nhận những
thiệt hại hợp lí, chứ không chấp nhận những thiệt hại mang tính chất suy diễn,
vô lí, kiểu như “tôi không bao giờ bị tai nạn, nhưng anh ấy gây tai nạn cho tôi,
tôi có quyền được đòi 5 triệu đồng bồi thường”, hay “tôi là nông dân nghèo, thu
nhập mỗi tháng của tôi xấp xỉ 3 triệu đồng” .
Có thiệt hại xảy ra nghĩa là phải có tổn thất thực tế tồn tại một cách khách
quan và tính được bằng một số tiền cụ thể nhất định. Những thiệt hại mang tính
suy diễn, chủ quan không thể được thừa nhận.
Thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, và mỗi trường hợp
khác nhau, thiệt hại lại có những mức độ khác nhau, do vậy, không có một công
thức chung cố định cho tất cả các trường hợp. Việc bồi thường thiệt hại tinh thần
xét cho cùng là sự bù đắp một phần thiệt hại đã xảy ra, một phần mất mát đã xảy
ra với chính người bị thiệt hại hay người thân của người bị thiệt hại. Tuy nhiên,
“thiệt hại tinh thần thường đi kèm với thiệt hại vật chất”. 1 Và “một người phải
chịu trách nhiệm về bồi thường thiệt hại phải bồi thường cả thiệt hại phi vật chất

bất kể thiệt hại xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hoặc tài sản của người khác”. 2
1

Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn –
Trần Minh Châu.
2
Bộ luật dân sự Nhật Bản – Điều 710.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

20

Cũng cần phải thấy rằng, thiệt hại phải chắc chắn có, nghĩa là bản thân
người bị thiệt hại phải đưa ra được những yếu tố của thiệt hại hay các bằng
chứng xác định thiệt hại đã có trên thực tế. Thiệt hại phải chắc chắn có, và tính
toán được. Trong trường hợp này, thiệt hại không có nghĩa là thiệt hại thực tế bắt
buộc đã phải xảy ra, bởi “một thiệt hại gián tiếp cũng có thể có tính thực tiễn
nếu như nó nhất định xảy ra và có thể ước lượng được”. 1 Tuy nhiên cần xác định
rõ ràng tính chất của thiệt hại. Một thiệt hại không chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có
tính chất giả định, hay chỉ là “mất đi một cơ may không chắc chắn” thì không
đặt ra vấn đề bồi thường.
Thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn pháp
luật cho phép suy cho cùng là một phần trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Nguyên tắc chung là bất cứ ai gây ra thiệt hại đều phải bồi
thường. Người gây thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng dù mục đích là rất chính đáng, nhằm ngăn chặn, phòng ngừa thiệt hại do
người bị thiệt hại gây ra ban đầu, nhưng sự tính toán sai lầm về điều kiện, hoàn
cảnh làm cho hành vi phòng vệ không tương xứng với hành vi trái pháp luật ban
đầu, gây ra một thiệt hại lớn hơn cho phép, nên lẽ dĩ nhiên họ cũng phải bồi

thường. Pháp luật và sự áp dụng pháp luật trong trường hợp này đòi hỏi phải có
sự đánh giá khách quan, đảm bảo lợi ích của cả hai bên, mà vẫn đạt được mục
đích giáo dục, răn đe.
1.2.2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật.
Hành vi gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường trước hết phải là
hành vi bị pháp luật cấm thực hiện. Có thiệt hại xảy ra tất nhiên phải có người
gây ra thiệt hại. Bởi thiệt hại không tự nhiên phát sinh, nó là hệ quả của hành vi
có ý thức của con người, diễn ra trái với quy định của pháp luật, gây ra tổn thất
cho những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể
1

Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự - Lê Mai Anh.


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

21

bằng hành động hoặc không hành động, nó đều là những biểu hiện của con
người ra ngoài thế giới khách quan, do ý thức con người kiểm soát và điều
khiển, làm biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng bị xâm hại. Không
hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, chủ thể
không trực tiếp tác động vào đối tượng gây ra thiệt hại, mà chủ thể không làm
một việc pháp luật quy định phải làm, dù có đủ điều kiện để làm việc đó. Hành
vi gây thiệt hại có thể tác động trực tiếp hay gián tiếp vào đối tượng bị thiệt hại
thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại.
Cũng cần thấy rằng, những hành vi gây thiệt hại do yêu cầu nghề nghiệp
hoặc do thực hiện bản án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
không phải là hành vi trái pháp luật, và đương nhiên không phải bồi thường. Ví
dụ như hành vi cắt bỏ một bộ phận đã hoại tử để cứu tính mạng bệnh nhân của

bác sĩ, hay việc phá dỡ những công trình xây dựng trái phép, hoặc việc thi hành
án tử hình…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ cần có một hành vi
trái pháp luật gây ra thiệt hại là phát sinh trách nhiệm bồi thường. Riêng đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
hành vi gây thiệt hại có tới hai loại: loại thứ nhất là hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại ban đầu của người bị thiệt hại, loại thứ hai là hành vi phòng vệ vượt quá
giới hạn pháp luật cho phép của người phòng vệ. Và trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp này chỉ phát sinh khi có đủ cả hai hành vi gây thiệt hại trên.
Hành vi gây thiệt hại ban đầu của người bị thiệt hại (là người có hành vi
trái pháp luật ban đầu) đòi hỏi người phòng vệ chính đáng phải có những biện
pháp nhằm ngăn chặn hành vi này gây ra những thiệt hại cho cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Đây là hành vi có ý thức của chủ thể. Trong trường hợp người phòng vệ
có những hành động tương xứng với hành động của người có hành vi trái pháp
luật, làm hạn chế, ngăn chặn, phòng ngừa được một phần hay toàn bộ thiệt hại


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

22

có thể xảy ra, thì họ không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu do sự tính toán sai
lầm, mà người phòng vệ lại có hành vi chống trả trên mức cấn thiết, không
tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi gây thiệt hại ban đầu, thì họ phải
bồi thường. Pháp luật thừa nhận những hành vi phòng vệ chính đáng, nhưng
phòng vệ phải trong giới hạn cho phép. Sự phòng vệ không thể tùy tiện, mặc dù
đôi khi hành vi phòng vệ còn gây ra thiệt hại lớn hơn thiệt hại do hành vi trái
pháp luật gây ra. Sự vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng bị coi là trái pháp
luật. Pháp luật đòi hỏi sự tự phòng vệ của mỗi cá nhân đối với những lợi ích của
chính bản thân mình, cũng như sự phòng vệ đối với những lợi ích của cá nhân

khác, của Nhà nước, xã hội. Song pháp luật cũng đòi hỏi sự đánh giá đúng về
tính chất, mức độ, cũng như điều kiện, hoàn cảnh thực tế của hành vi trái pháp
luật ban đầu để có biện pháp phòng vệ hợp lí và để sự phòng vệ là chính đáng.
Sự sai lầm trong việc tính toán của người phòng vệ gây ra một thiệt hại cho
người có hành vi trái pháp luật ban đầu, sự sai lầm này có thể do cố ý hay vô ý,
song đã gây thiệt hại thì phải bồi thường. Pháp luật khuyến khích công dân đấu
tranh với những hành vi trái pháp luật, nhưng pháp luật cũng nghiêm khắc xử lí
nếu hành vi đấu tranh này vượt quá giới hạn cho phép.
1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại.
Theo lí luận của phép biện chứng duy vật, phạm trù nguyên nhân và kết
quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan. Theo đó, nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một
biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động
lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.1
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt hại xảy ra và
thiệt hại là kết quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Về nguyên tắc,
nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong một khoảng thới gian xác định,
1

Giáo trình triết học Mác-Lênin – NXB Chính trị Quốc gia 2005 – T.233


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

23

nghĩa là hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Thiệt hại
vì thế có sẵn cơ sở trong hành vi. Đã có hành vi vi phạm xảy ra trong một
khoảng thời gian và không gian xác định thì chắc chắn sẽ nảy sinh một thiệt hại

cụ thể. Thiệt hại xảy ra phải là hậu quả tất yếu của hành vi. Nghĩa là nếu không
có nguyên nhân là hành vi trái pháp luật thì không bao giờ có hậu quả là thiệt
hại xảy ra. Cũng như vậy, trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng nói riêng, nếu không xác định được mối quan hệ giữa
thiệt hại và hành vi gây thiệt hại thì không thể xác định được trách nhiệm bồi
thường thuộc về ai.
Thực tế cho thấy, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt
hại xảy ra biểu hiện rất phức tạp. Một hành vi trái pháp luật có thể gây ra thiệt
hại về vật chất, có thể gây ra thiệt hại về tinh thần, cũng có thể gây ra thiệt hại cả
về vật chất và tinh thần (A và B có xích mích dẫn đến xô xát, A trong lúc quá
nóng giận đã dùng gạt tàn thuốc lá ném B nhưng không trúng, gạch văng vào
cửa kính nhà B làm vỡ kính. Những mảnh vỡ văng ra bay vào mắt con trai B là
C vừa đi học về đến cửa, làm bị thương nặng mắt trái của C. Như vậy hành vi
trái pháp luật của A không những gây ra thiệt hại về tài sản cho gia đình B mà
còn xâm phạm đến sức khỏe của C). Hay có trường hợp, thiệt hại xảy ra là hậu
quả của một hành vi trái pháp luật khác xen vào chứ không phải do hành vi có
chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại (X lái xe gây tai nạn, làm Y
bị thương. Trên đường đi cấp cứu, Y lại bị xe của Z đâm vào làm cho Y bị vỡ sọ
não, chết ngay. Kết quả giám định pháp y kết luận, Y chết vì bị vỡ sọ não do bị
xe của Z đâm phải, chứ không vì tai nạn do X gây ra. Trong trường hợp này, tai
nạn do X gây ra cho Y tuy có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng cho
Y, nhưng khả năng đó chưa kịp phát sinh thì hành vi trái pháp luật của Z xen
vào, phá vỡ khả năng đó và gây ra một mối quan hệ nhân quả mới). Và một thiệt
hại xảy ra cũng có thể do một hay nhiều hành vi trái pháp luật gây ra (T bị Q


Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

24


đâm bị thương, đã được đưa đến viện cấp cứu ngay, nhưng do thái độ vô trách
nhiện của bác sĩ cấp cứu nên vết thương của T trầm trọng, T bị mất máu quá
nhiều dẫn đến tử vong. Hành vi trái pháp luật của Q hoàn toàn có mối quan hệ
nhân quả với thiệt hại về tính mạng của T, nhưng thiệt hại đó có thể không xảy
ra nếu T được cứu chữa kịp thời. Vì thế hành vi vô trách nhiệm của người bác sĩ
đồng thời có mối quan hệ nhân quả với thiệt hại xảy ra với T). Hành vi trái pháp
luật là nguyên nhân quyết định phát sinh ra thiệt hại, nhưng diễn biến của thiệt
hại xảy ra không hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên nhân mà còn chịu tác động
một phần của các yếu tố khách quan bên ngoài. Hành vi trái pháp luật vì thế tự
nó mới chỉ có khả năng thực tế gây ra thiệt hại, chứ chưa xác định hoàn toàn.
Thiệt hại thực tế xảy ra tùy từng điều kiện, hoàn cảnh khác nhau sẽ có mức độ
khác nhau. Ví như một tai nạn xảy ra lúc đông người sẽ có hậu quả nghiệm
trọng hơn nhiều một tai nạn xảy ra lúc vắng người.
Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện. Điều kiện không trực tiếp
gây ra thiệt hại, nhưng là tác động để thiệt hại xảy ra nhanh hơn. Nguyên nhân là
nhân tố chính gây ra thiệt hại. Không có nguyên nhân thì không thể có hậu quả,
và đương nhiên không tồn tại điều kiện. Nhưng có khi có nguyên nhân nhưng
hậu quả sẽ không xảy ra nếu không có điều kiện. Nguyên tắc chung là không thể
có hiện tượng này chỉ là nguyên nhân, hiện tượng kia chỉ là điều kiện. Xác định
mối quan hệ nhân quả là vấn đề phức tạp và khó khăn. Vì thông thường hậu quả
xảy ra do nhiều nguyên nhân chứ không phải chỉ do một nguyên nhân. Các
nguyên nhân có vai trò ngang nhau trong việc gây ra thiệt hại. Bởi vậy, xác định
mối quan hệ nhân quả trong trường hợp này như thế nào là vấn đề rất đáng bàn.
Cần nhấn mạnh một điều rằng, đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi trái pháp luật ban đầu của người
bị thiệt hại có mối liên hệ với hành vi phòng vệ chính đáng của người phòng vệ,
và hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng của người phòng vệ
có mối liên hệ với hậu quả xảy ra với người có hành vi trái pháp luật ban đầu.



Bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

25

Mối quan hệ này là mối quan hệ nhân quả. Nếu không có hành vi trái pháp luật
của người bị thiệt hại, thì không có hành vi phòng vệ của người phòng vệ, và
cũng sẽ không có hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng của
người phòng vệ gây ra thiệt hại với người có hành vi trái pháp luật ban đầu. Đây
là suy luận mang tính logic. Điều đáng nói ở đây là, để có mối quan hệ nhân
quả, thì hành vi trái pháp luật ban đầu của người bị thiệt hại phải xảy ra trước,
phải là nguyên nhân để có hành vi phòng vệ tiếp theo của người phòng vệ. Cũng
như vậy, hành vi phòng vệ của người phòng vệ phải vượt quá giới hạn pháp luật
cho phép, thì mới trở thành nguyên nhân gây ra hậu quả là thiệt hại xảy ra với
người có hành vi trái pháp luật ban đầu. Hiểu như vậy, nghĩa là riêng đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, có
tới hai mối quan hệ nhân quả. Và giữa hai mối quan hệ nhân quả này lại có mối
liên hệ với nhau, tạo thành một chuỗi quan hệ nhân quả logic nhau.
Như đã nói ở phần đầu khóa luận, hành vi phòng vệ chỉ được coi là chính
đáng khi hành vi trái pháp luật đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay tức
khắc, xâm hại tới những lợi ích dược pháp luật bảo vệ. Nghĩa là đối với những
trường hợp hành vi trái pháp luật có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, mặc dù hành
vi này chưa xảy ra nhưng nó vẫn là nguyên nhân của hành vi phòng vệ sau đó
của người phòng vệ. Bởi vì hành vi trái pháp luật này đe dọa ngay tức khắc sẽ
xảy ra, đồng nghĩa với việc nó chắc chắn xảy ra, do vậy hành vi của người
phòng vệ là hệ quả tất yếu của hành vi này.
Thông thường, thiệt hại xảy ra trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng là thiệt hại tinh thần. Bởi vì hành vi của người phòng vệ phải gây
thiệt hại cho chính người có hành vi trái pháp luật ban đầu, do vậy trước tiên sự
xâm hại là tính mạng, sức khỏe của người bị thiệt hại. Trong một số trường hợp

nhất định, ngoài gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, người có hành vi phòng
vệ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể xâm phạm đến tài sản của
người bị thiệt hại.


×