Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

So sánh nội dung của luận cương lĩnh chính trị tháng 2 năm 1930 với luận cương lĩnh chính trị tháng 10 năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.27 KB, 5 trang )

So sánh nội dung của Luận cương
lĩnh chính trị tháng 2 năm 1930
với Luận cương lĩnh chính trị tháng
10 năm 1930?
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM·15 THÁNG 7 2016

2.1. Sự thống nhất:
Luận cương lĩnh chính trị tháng 2 – 1930 và Luận cương lĩnh chính trị tháng 10 –
1930 cơ bản có sự thống nhất với nhau về nhiều nội dung quan trọng, cụ thể
như là:
- Thống nhất về và phương hướng chiến lược: CMVN trải qua 2 giai đoạn CM: giai
đoạn đầu phải tiến hành CMTS dân quyền, sau đó tiến lên CMXHCN để xây dựng
CNXH và CNCS ở VN, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
- Thống nhất về nhiệm vụ chiến lược: Cả 2 văn kiện đều đi sâu nghiên cứu về
CMTS dân quyền và đều cho rằng cuộc CM này có 2 nhiệm vụ là đánh đổ đế
quốc để giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến để đem lại dân chủ cho
nhân dân (thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”); như vậy CMTSDQ để giải
quyết 2 vấn đề là vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
- Thống nhất về lực lượng cách mạng: Nhìn chung cả 2 văn kiện đều cho rằng
lực lượng cách mạng chủ yếu dựa vào công nhân và nông dân, nghĩa là dựa vào
2 giai cấp cơ bản nhất của xã hội VN.
- Thống nhất về phương pháp cách mạng: Cả 2 văn kiện đều chỉ ra rằng phương
pháp cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng con đường đấu tranh cách mạng
chứ không thể thực hiện từng phần theo kiểu cải cách dân chủ, đấu tranh theo
kiểu cải lương.
- Thống nhất về quan hệ của CMVN với cách mạng thế giới: Khi nhận định về
mới quan hệ giữa CMVN với CMTG, cả 2 văn kiện đều cho rằng CMVN là một bộ
phận của CMTG, cho nên CMVN phải đặt trong dòng chảy chung của CMTG để
kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.



2.2. Sự khác nhau:
Giữa Luận cương chính trị tháng 2 – 1930 và Luận cương chính trị tháng 10 –
1930 có sự khác nhau là:
- Luận cương chính trị tháng 10 – 1930 không đưa nhiệm vụ giải quyết vấn đề
dân tộc lên hàng đầu mà đưa vấn đề giai cấp lên làm nhiệm vụ chủ yếu, do chưa
nhìn thấy mâu thuẫn cơ bản chủ yếu của xã hội thuộc địa đó là mâu thuẫn dân
tộc rất gay gắt.
- Luận cương chính trị tháng 2 – 1930 đã hạn chế lực lượng cách mạng trong
công nhân và nông dân mà không mở rộng ra khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do
sự nhìn nhận vấn đề giai cấp là chủ yếu nên xác định lực lượng cách mạng là
công nhân và nông dân, không nhìn thấy được sức mạnh của những giai tầng
yêu nước khác. Từ đó, Luận cương chính trị tháng 10 – 1930 đã không đề ra một
chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc xâm lược và tay sai.
Nguyên nhân:
- Luận cương chính trị tháng 10 – 1930 chưa tìm ra và chưa nắm vững đặc điểm
của xã hội thuộc địa nửa phong kiến VN, một xã hội mà mâu thuẫn dân tộc bao
trùm cả mâu thuẫn giai cấp.
- Nhận thức giáo điều, máy móc về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách
mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” của Quốc tế
Cộng sản và một số đảng viên cộng sản trong thời gian đó. Cho nên, BCH trung
ương của Hội nghị tháng 10 – 1930 đã bác bỏ những quan điểm mới, sự sáng
tạo, sự độc lập tự chủ của Nguyễn Ái Quốc nêu trong Luận cương chính trị tháng
2 – 1930, Hội nghị này đã ra một án nghị quyết thủ tiên Luận cương chính trị
tháng 2 – 1930 mang đậm dấu ấn tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
3. Dựa vào đâu (cơ sở nào) để Đảng ta thực hiện công nghiệp hóa thời
kỳ Đổi mới?


Đường lối công nghiệp hóa được Đảng xác định là nhiệm vụ trung tâm xuyên

suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho nên Đảng ta luôn luôn tập trung trí
tuệ của Đảng phát triển đường lối này.
- Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III (tháng 91960) của Đảng. Hội nghị TW lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây
dựng và phát triển công nghiệp là: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp,
ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh
phát triển công nghiệp địa phương. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng…” tiếp tục được khẳng định lại sau 16 năm tại Đại hội IV của Đảng (1976).
Tuy nhiên, do trên thực tế chúng ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện (nguồn
viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế nặng tính
quan liêu, bao cấp, nhiều công trình nhà nước xây dựng dở dang vì thiếu vốn,
công nghiệp trung ương giảm, nhiều mục tiêu không đạt được…) nên đây vẫn là
sự biểu hiện của tư tưởng nóng vội trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong
việc lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp. Kết quả là thời kỳ 1976 –
1980 nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, suy thoái, cơ cấu kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng.
- Dựa trên thực tiễn đất nước sau Đại hội III, Đại hội VI của Đảng là đất nước lâm
vào khủng hoảng trì truệ, thực tiễn đó đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy về công
nghiệp hóa. Vì vậy, Đảng đã tập trung trí tuệ nghiên cứu nhiệm vụ trung tâm là
phát triển công nghiệp hóa. Đường lối công nghiệp hóa bắt đầu đổi mới từ Đại
hội lần thứ V của Đảng (3-1982), Đảng ta đã xác định: Thứ nhất, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là chặng đường dài với nhiều chặng đường, công nghiệp
hóa phải được thực hiện qua nhiều giai đoạn; Thứ hai, Đảng ta xác định đất nước
ta đang trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Từ đó, Đảng đưa ra nhiệm vụ của nước ta trong chặng đường đầu tiên này là:
Thứ nhất, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; Thứ hai, tích lũy vốn để phục
vụ công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo. Đảng đưa ra phương hướng
công nghiệp hóa thời kỳ này là phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra
sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển



công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục
vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó
là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là
bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ vậy, nền kinh
tế quốc dân trong thời kỳ này đã có sự tăng trưởng khá hơn so với thời kỳ 5 năm
trước đó.
Tuy nhiên, trên thực tế chính sách này vẫn không có mấy thay đổi so với trước.
Mặc dù nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu nhưng Đại hội vẫn xác
định “Xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp hiện đại, lấy hệ thống công
nghiệp nặng tương đối phát triển làm nòng cốt”. Sự điều chỉnh không dứt khoát
đó đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam không tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn
gặp nhiều khó khăn và khuyết điểm mới, tình hình kinh tế - xã hội và đời sống
nhân dân sau 5 năm không những không ổn định được mà còn lâm vào khủng
hoảng trầm trọng.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) với tinh thần “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, từ việc chỉ ra những
sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là phải thực sự coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải thực hiện cho bằng được 3 chương trình lương
thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại
của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ; phải thực hiện hai mục tiêu đặt ra
trong Đại hội V. Sự điều chỉnh về đường lối công nghiệp hóa của Đảng đã thực sự
đi vào đời sống nhân dân, làm cho đất nước phát triển nhanh chóng.
- Tiếp theo, Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới,
ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Đại hội đã tập trung xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội cho nên đường lối công nghiệp hóa không được nghiên cứu chi
tiết tại Đại hội VII.

- Đại hội Đảng VIII (năm 1996) đã ra hàng loạt quyết định mới: Thứ nhất, Đại hội
VIII xem xét lại chặng đường công nghiệp hóa đầu tiên, Đảng kết luận là nhiệm
vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ công nghiệp


hóa đầu tiên, nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã nhận định: nước ta đã
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thứ hai, Đại hội quyết định cho phép
nước ta chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
để nhằm vào mục tiêu năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
hóa theo hướng hiện đại.
- Đại hội IX (năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng ta tiếp tục bổ sung và
nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa.
Xem thêm: />


×