Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại chi cục thuế quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.43 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VÕ THỊ KIỀU OANH

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Đà Nẵng – Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VÕ THỊ KIỀU OANH

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
THU NHẬP DOANH NGHIỆP TẠI CHI CỤC THUẾ
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Mã số: 60.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Bảo Ngọc


Đà Nẵng – Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Võ Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (BẢN SAO)


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Đội KT-KTNB

Đội Kiểm tra kiêm kiểm tra nội bộ

Đội TT-HT-NV-DT

Đội tuyên truyền-Hỗ trợ-Nghiệp vụ- Dự toán thuế

Đội QLN-CCN

Đội Quản lý nợ và Cưỡng chê nợ thuế

Đội KK-KTT&TH

Đội Kê khai-Kế toán thuế và Tin học


Đội HC-NS-TV-AC

Đội Hành chính- Nhân sự- Tài vụ- Ấn chỉ

CQT

Cơ quan thuế

CNTT

Công nghệ thông tin

DN

Doanh nghiệp

MST

Mã số thuế

NNT

Người nộp thuế

NSNN

Ngân sách Nhà nước

SXKD


Sản xuất kinh doanh

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6

Tên bảng

Trang

Số DN hoạt động trên địa bàn quận Cẩm Lệ
Kết quả thực hiện dự toán thu thuế TNDN từ năm
2012-2016 tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng
Vi phạm đăng kí thuế, nộp chậm hồ sơ khai thuế tại
Chi cục thuế quận Cẩm Lệ, Tp Đà Nẵng
Kết quả công tác kiểm tra thuế 2012 – 2016
Tình hình nợ thuế qua các năm 2012 -2016
Tỷ lệ nợ thuế TNDN trên tổng thu NSNN


44
62
63
64
66
68

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước mà thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế, về sự
công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội. Điều đó đòi hỏi Nhà nước
phải luôn quan tâm đến công tác quản lý thuế: công tác quản lý thuế nên
thường xuyên được hoàn thiện, đổi mới, từng bước hiện đại hoá nhằm quản
lý, khai thác kịp thời, hiệu quả các nguồn thu phát sinh về nghĩa vụ thuế ở các
khu vực kinh tế. Đặc biệt đối với thuế TNDN, sắc thuế đóng vai trò quan
trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, khuyến khích đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh, nhưng cũng tồn đọng không ít vấn đề về gian lận thuế, trốn
thuế dưới nhiều hình thức tinh vi, khó phát hiện dẫn đến con số thất thoát về
thuế TNDN cũng như NSNN ngày càng lớn, đó là vấn đề chung đang được
quan tâm ở tất cả các nước không chỉ ở Việt Nam.


Cẩm Lệ là một quận mới của Thành phố Đà Nẵng, hàng năm đóng góp
hơn 200 tỷ đồng vào NSNN, với số lượng lớn doanh nghiệp trên địa bàn và
con số này đang ngày càng tăng nhanh thì công tác quản lý thuế nói chung và
quản lý thuế TNDN nói riêng là một trong những vấn đề đáng được quan tâm
hàng đầu. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý thuế TNDN là một đòi hỏi
cấp thiết, là một nhiệm vụ trọng tâm của Chi cục thuế Quận Cẩm Lệ trong

giai đoạn hiện nay. Việc đi sâu nghiên cứu công tác quản lý thu thuế TNDN sẽ
góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động tài chính, đầu tư và tăng cường tính
hiệu lực, hiệu quả của chính sách thuế. Với lý do đó, đề tài “Hoàn thiện công
tác quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục Thuế quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng” có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Trước đây có rất nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này song chưa có đề
tài nào đi sâu vào công tác quản lý thuế TNDN tại địa bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng. Luận văn này sẽ tiếp tục dựa trên những nghiên cứu qua
các năm ở các tỉnh và Thành phố khác để đi vào phân tích, đánh giá nhưng
đồng thời cũng dựa vào tình hình, đặc điểm của quận Cẩm Lệ cũng như
những đổi mới của ngành, của thành phố trong giai đoạn hiện nay để mang lại
tính thực tiễn cho đề tài.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về thuế TNDN, nội dung
quản lý thuế TNDN để làm cơ sở đánh giá thực trạng công tác quản lý và đề
xuất giải pháp.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế TNDN tại Chi cục
thuế quận Cẩm Lệ, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế trong
công tác quản lý thuế đối với các DN.


Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế TNDN
tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ trong thời gian đến.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: cơ sở lý luận về công tác quản lý thuế TNDN và thực
tiễn công tác quản lý thuế TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ.

-


Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: đề tài tập trung phân tích, đánh giá công tác quản lý thuế
TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ;
Về không gian: nghiên cứu được thực hiện tại Chi cục thuế quận Cẩm
Lệ;
Về thời gian: khoảng thời gian nghiên cứu từ năm 2012- 2016.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận văn đã sử dụng các
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích để đánh giá thực trạng công tác
quản lý thuế TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương bao
gồm:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản lý Thuế TNDN
Chương II: Thực trạng công tác quản lý Thuế TNDN tại Chi cục Thuế
quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Thuế TNDN tại Chi
cục Thuế quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Vấn đề quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNDN nói riêng được
nhiều nhà khoa học và các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa


có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và trực tiếp về quản lý thuế
TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ.
Đề tài nghiên cứu năm 2015 của tác giả Lương Thị Minh Kiều tại Đại
Học Đà Nẵng “Hoàn thiện công tác quản lý thuế TNDN tại Chi cục thuế
quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng”. Tác giả Lương Thị Minh Kiều đã nêu

lên thực trạng công tác quản lý thuế và các kết quả đạt được trong công tác
quản lý thuế TNDN tại Chi cục thuế quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng giai
đoạn năm 2009 đến 2013, tác giả đưa ra những đánh giá chung về những
thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại và những nguyên nhân của
những hạn chế đó, để đưa ra những giải pháp khắc phục phù hợp. Nhưng luận
văn vẫn chưa đánh giá được mức độ hài lòng của NNT về chất lượng dịch vụ
cung cấp, chưa phân tích được môi trường ảnh hưởng đến công tác quản lý
thuế TNDN tại địa bàn, cũng như chưa làm rõ được sự phối hợp giữa các bộ
phận chức năng của Chi cục trong công tác quản lý thuế TNDN.
Đề tài nghiên cứu năm 2011 tại Đại học Đà Nẵng“Quản lý thuế TNDN
tại Cục thuế Đà Nẵng” của tác giả Lý Vân Phi, kết quả của nghiên cứu đã chỉ
ra được những hạn chế còn tồn tại của CQT, NNT và tác động của cơ chế
chính sách tới công tác quản lý thuế. Nhưng tác giả mới chỉ đánh giá được
thực trạng công tác quản lý thuế TNDN chưa đánh giá được kết quả của công
tác quản lý thuế TNDN tại Cục thuế, luận văn chỉ mới tập trung vào bốn công
tác chủ yếu, còn lập dự toán thu thuế là một trong những công tác quan trọng
trong quản lý thuế TNDN thì chưa được phân tích.
Tác giả Trần Văn Ninh (2012) với nghiên cứu “Tăng cường kiểm soát
thuế TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm lệ” tại Đại Học Đà Nẵng, tác giả đã sử
dụng phương pháp khảo sát, phương pháp quan sát trực tiếp và phân tích qua
kết quả kiểm toán để làm rõ nội dung công tác kiểm soát thuế TNDN; đánh


giá thực trạng và đưa ra các nhóm giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện công
tác kiểm soát thuế TNDN tại Chi cục. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chức
năng nhiệm vụ của các Đội thuế trong bộ máy kiểm soát đã được thay đổi
nhưng vẫn còn chồng chéo, cơ sở dữ liệu thông tin NNT chưa đồng bộ. Mục
tiêu kiểm soát thuế chưa hiệu quả, trình độ cán bộ kiểm soát thuế không đồng
đều.
Luận văn thạc sỹ bảo vệ tại Đại học Đà Nẵng của Trần Phan Quốc

Chương (2013) với đề tài “Quản lý thuế TNDN tại Cục thuế tỉnh Gia Lai”
tương tự kết quả luận văn đã làm rõ được nội dung và thực trạng công tác
quản lý thuế TNDN nhưng vẫn chưa đưa ra được các chỉ tiêu để đánh giá kết
quả đạt được trong công tác quản lý thuế TNDN tại Cục thuế Gia Lai và luận
văn chưa chỉ ra được nguyên nhân của những tồn tại trong công tác quản lý
thuế TNDN để từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện phù hợp với thực tiễn.
Lê Thị Mỹ Linh (2015) tại Đại học Đà Nẵng“Hoàn thiện công tác quản
lý thuế TNDN trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” nghiên
cứu đã tiếp thu kinh nghiệm từ công tác quản lý thuế TNDN của các Chi cục
ở các quận, huyện khác để làm bài học kinh nghiệm, nhưng tác giả vẫn chưa
xây dựng được đầy đủ bộ tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý thuế TNDN tại
địa bàn cũng như chưa đánh giá được chất lượng công tác quản lý thuế.
Tất cả các nghiên cứu trên, tác giả đều đã đánh giá được thực trạng và
kết quả của công tác quản lý thuế TNDN, từ đó đã đưa ra các giải pháp hoàn
thiện công tác quản lý thuế TNDN tại CQT mà tác giả khảo sát. Tuy nhiên,
tùy vào đặc điểm kinh tế và công tác quản lý thuế mỗi nơi, mà Công tác quản
lý thuế TNDN đạt được những kết quả cũng như còn tồn tại những hạn chế
khác nhau, từ đó sẽ đề xuất những giải pháp khác nhau, phù hợp cho công tác
quản lý thuế TNDN tại mỗi địa bàn, trong từng giai đoạn.


Trong những năm gần đây đã có khá nhiều luận văn nghiên cứu về vấn
đề này, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp về
quản lý thu thuế TNDN tại Chi cục thuế quận Cẩm Lệ thành phố Đà Nẵng. Vì
vậy, trên cơ sở nghiên cứu lý luận, các văn bản pháp luật, luật thuế TNDN,
luật quản lý thuế và kế thừa các nghiên cứu trên đây, tác giả có những cơ sở
để đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế TNDN tại Chi cục thuế quận
Cẩm Lệ và mạnh dạn đề xuất các giải pháp mang tính thực tiễn nhằm giúp
hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý thuế TNDN trên địa bàn quận Cẩm Lệ
trong thời gian tới.



CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ TNDN
1.1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm về Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thuế là khoản thu có tính chất bắt buộc được thể chế hoá bằng pháp
luật mà các thể nhân và pháp nhân phải thực hiện đối với Nhà nước nhằm
tài trợ các nhu cầu chi tiêu công.
Thuế không phải là nguồn thu ngân sách duy nhất nhưng là nguồn thu
lớn và quan trọng. Theo ước tính mới nhất từ International Centre for Tax and
Development (ICTD), tổng thu từ thuế đóng góp hơn 80% tổng thu của chính
phủ đối với một nửa các nước trên thế giới và đóng góp hơn 50% ở hầu hết
các quốc gia.
Có sự khác biệt lớn về mức đóng góp từ thuế vào tổng ngân sách của
Chính phủ giữa các nước, đặc biệt là giữa các nước phát triển và đang phát
triển. Các nước phát triển có tổng thu từ thuế cao hơn nhiều so với các nước
đang phát triển và chủ yếu từ thuế thu nhập. Ở các nước đang phát triển thì
ngược lại, thu nhiều hơn từ các loại thuế thương mại, cũng như thuế tiêu thụ.
Để hiểu rõ thuế thu nhập là gì trước hết cần tìm hiểu về thu nhập: Thu
nhập là tổng các giá trị mà một chủ thể nào đó nhận được trong nền kinh tế xã
hội thông qua quá trình phân phối thu nhập quốc dân trong một thời hạn nhất
định, không phân biệt nguồn gốc hình thành từ lao động, tài sản hay đầu tư…
Như vậy, thuế thu nhập là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập thực
tế của các cá nhân hoặc các pháp nhân nhưng không phải toàn bộ thu nhập
của các thể nhân và pháp nhân đều là đối tượng đánh thuế thu nhập, mà thuế
thu nhập điều chỉnh hay thu trên phần thu nhập chịu thuế tức là khoản thu
nhập sau khi đã được miễn trừ chi phí hợp lý, hợp lệ.



Thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu
NSNN và thực hiện các chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối
với hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế thu
nhập gồm có thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một loại thuế trực thu đánh vào
thu nhập chịu thuế của cơ sở sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Thuế TNDN là sắc thuế được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Anh
và Nhật Bản là những nước đầu tiên áp dụng sắc thuế này từ những năm
khoảng giữa và cuối thế kỷ XIX, một số nước khác áp dụng vào khoảng đầu
thế kỷ XX như Pháp, Thụy Sỹ, Liên Xô cũ, Trung Quốc,…
Ở Việt Nam, thuế TNDN có xuất xứ từ khoản trích nộp lợi nhuận áp
dụng đối với khu vực kinh tế quốc doanh và thuế Lợi tức doanh nghiệp áp
dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong giai đoạn từ năm 1953
đến trước ngày 1/1/1990. Giai đoạn từ 1/1/1990 đến trước ngày 1/1/1999 thuế
Lợi tức được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế. Năm 1997 Luật
thuế TNDN đầu tiên được ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
1/1/1999. Kể từ khi ban hành đến nay, Luật thuế TNDN đã được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời các vướng mắc phát sinh phù hợp với
thực tiễn nước ta và thông lệ quốc tế.
Ở các nước, tên gọi của luật thuế này có thể khác nhau như ở Thái Lan,
Indonesia gọi là luật thuế thu nhập công ty; ở Pháp là luật thuế công ty; vv…
Nhưng bản chất là tương đối giống nhau. Có quốc gia quy định loại thuế này
trong một luật riêng, quốc gia khác lại quy định chung một bộ luật với thuế
thu nhập cá nhân vì họ cho rằng hai loại thuế đánh trên thu nhập này có quan
hệ mật thiết với nhau nên quy định trong cùng một văn bản thì sẽ dễ tiếp cận
hơn.



Không phải toàn bộ thu nhập của cơ sở sản xuất kinh doanh đều là đối
tượng điều chỉnh của thuế TNDN. Thuế TNDN chỉ điều chỉnh phần thu nhập
chịu thuế. Vì việc đánh thuế vào loại thu nhập nào, đánh nặng hay đánh nhẹ
vào từng loại thu nhập là tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi Nhà nước về điều
tiết thu nhập qua thuế thu nhập, phụ thuộc vào khả năng quản lý thuế, chi phí
quản lý thuế cũng như mục tiêu của thuế thu nhập phải đạt được để góp phần
thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng
thời kỳ nhất định. Điều này có nghĩa là, thuế TNDN là loại thuế thu trên thu
nhập của các cơ sở kinh doanh để động viên một phần thu nhập của họ vào
ngân sách nhà nước(NSNN). Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng loại
thuế này để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc động viên công bằng
giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích ưu đãi đầu tư nhằm thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh phát triển.
Mặc dù tên gọi là thuế TNDN nhưng loại thuế này cũng áp dụng đối với
thu nhập của các cá nhân, các cơ sở kinh doanh không thành lập theo luật
doanh nghiệp và phần thu nhập chịu thuế là phần thu nhập còn lại sau khi đã
khấu trừ các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh.
1.1.2 Đặc điểm của thuế thu nhập doanh nghiệp

Bản chất của thuế TNDN được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn
có của nó. Những thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua các giai đoạn
phát triển. Nghiên cứu về thuế TNDN, người ta thấy thuế TNDN có những
đặc trưng riêng để phân biệt với các sắc thuế và các công cụ tài chính khác
như sau:
+ Thứ nhất, là một loại thuế mang tính chất trực thu thể hiện ở sự đồng nhất

giữa đối tượng người nộp thuế và đối tượng chịu thuế.


NNT theo luật cũng là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ sản

xuất kinh doanh. Nói một cách khác, thuế TNDN làm cho khả năng và cơ hội
chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác trở nên khó khăn hơn.
+ Thứ hai, thuế TNDN là một khoản chuyển giao của NNT cho Nhà nước mang

tính bắt buộc phi hình sự.
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế nói chung
và thuế TNDN nói riêng, nó phân biệt thuế TNDN với các hình thức huy động
tài chính khác của NSNN.
Đặc điểm này xác định rõ nội dung kinh tế của thuế TNDN là những
quan hệ tiền tệ được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc
biệt, việc động viên mang tính bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính
chất bắt buộc dưới hình thức thuế TNDN là một phương thức phân phối của
Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu nhập của doanh
nghiệp được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát
hoặc những quyền lợi nào khác cho NNT.
+ Thứ ba, việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế thu nhập doanh

nghiệp không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế TNDN được biểu hiện trên
các khía cạnh.
Một là, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính đối
giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ NNT thừa hưởng những dịch vụ và
hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp. NNT cũng không có quyền đòi


hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình
mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước, mặt khác mức độ
cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng
mức độ chuyển giao.

Hai là, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế TNDN không
được hoàn trả trực tiếp, có nghĩa NNT suy cho cùng sẽ nhận được một phần
các dịch vụ công cộng Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị
phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp
cho Nhà nước.
+ Thứ tư, việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế TNDN được quy định

trước bằng pháp luật.
Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế TNDN, mặt
khác phản ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính tùy tiện mà dựa
trên những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong Luật
thuế TNDN. Những tiêu thức thường được xác định trong Luật thuế TNDN là
đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể
và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế TNDN chịu những
ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội trong những thời kỳ nhất
định.
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế TNDN thường là mức độ tăng trưởng
của nền kinh tế quốc dân, giá cả, thị trường, sự biến động của NSNN…


Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế TNDN thường là thể chế chính
trị Nhà nước, tâm lý tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn
hóa…
Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế TNDN chỉ được
giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia và quyền lực pháp lý của Nhà nước
đối với con người và tài sản.


1.1.3 Vai trò của Thuế thu nhập doanh nghiệp

+ Là khoản thu quan trọng của NSNN

Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo
trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Trong đó, Thuế thu nhập
doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu
thu ngân sách Nhà nước. Ở các nước phát triển, hai loại thuế này đã làm cho
thuế trực thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Ví dụ
như năm 2012, Mỹ: thuế trực thu chiếm 74,8%, Nhật Bản chiếm 74%. Còn ở
hầu hết các nước có thu nhập bình quân đầu người thấp thì thuế gián thu
thường chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng thu ngân sách; ví dụ như: Philipin
chiếm 60%; Thái Lan chiếm 66%; Ấn Độ 63%; Kênia: 61%; Gana: 65%...
Phạm vi áp dụng của thuế TNDN rất rộng, gồm cá nhân, nhóm kinh
doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường đang ngày
càng phát triển và ổn định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng cao,
các chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều
lợi nhuận thì khả năng huy động nguồn tài chính, nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước thông qua thuế TNDN ngày càng dồi dào.
+ Là công cụ quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế: hệ

thống pháp luật về thuế TNDN được áp dụng chung cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh
và góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc xác định phạm vi thu thuế và
không thu thuế; quy định mức thuế suất phổ thông và thuế suất ưu đãi; quy
định danh mục các ngành nghề, địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn cần ưu tiên,


khuyến khích đầu tư phát triển, sử dụng biện pháp miễn, giảm thuế TNDN
theo mức độ khác nhau,… thể hiện chính sách ưu đãi hay khuyến khích và vai
trò “bàn tay vô hình” điều tiết sự phát triển kinh tế Nhà nước.

+ Là công cụ của Nhà nước thực hiện chính sách công bằng xã hội: một trong

những mục tiêu của thuế TNDN là điều tiết thu nhập, đảm bảo sự công bằng
trong phân phối thu nhập xã hội. Thuế TNDN được áp dụng cho các loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, không những đảm bảo bình đẳng
công bằng về chiều ngang mà còn cả công bằng về chiều dọc. Về chiều
ngang, bất kể một doanh nghiệp nào kinh doanh bất cứ hình thức nào nếu có
thu nhập chịu thuế phải nộp thuế TNDN. Về chiều dọc, cùng một ngành nghề
không phân biệt quy mô kinh doanh nếu có thu nhập chịu thuế thì đều phải
nộp thuế TNDN. Với mức thuế suất thống nhất, doanh nghiệp nào có thu nhập
cao thì phải nộp thuế nhiều hơn doanh nghiệp có thu nhập thấp.
1.1.4 Các yếu tố cơ bản về thuế thu nhập doanh nghiệp

a. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Người nộp thuế TNDN là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:
- Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật
doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật
chứng khoán, Luật dầu khí, Luật thương mại và các văn bản pháp luật khác
dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty
hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp Nhà nước; Văn phòng Luật
sư, Văn phòng công chứng tư; Các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh;


Các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh
dầu khí, Công ty điều hành chung.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập có sản xuất kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ có thu nhập trong tất cả các lĩnh vực.
- Các tổ chức được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.

- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài
(sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh
doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần
hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập,
bao gồm:
+ Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện
vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên
khác tại Việt Nam.
+ Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp.
+ Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người
làm công hay một tổ chức, cá nhân khác.
+ Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài.
+ Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký
kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm
quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường
xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
Trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà CHXHCN Việt Nam
ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo quy định của
Hiệp định đó.


- Tổ chức khác ngoài các tổ chức nêu trên có hoạt động sản xuất kinh
doanh hàng hoá hoặc dịch vụ và có thu nhập chịu thuế.
b. Căn cứ tính thuế thu nhập doanh nghiệp
Thu nhập tính thuế:
Thu nhập tính thuế trong kỳ tính thuế được xác định bằng thu nhập chịu
thuế trừ thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm
trước theo quy định.
Thu nhập tính thuế được xác định theo công thức sau:

Thu nhập
=
tính thuế

Thu nhập
chịu thuế

-

Thu nhập
được miễn
thuế

Các khoản lỗ được
+ kết chuyển theo quy
định

Với thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế bao gồm thu nhập từ hoạt động
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và thu nhập khác.
Thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế xác định như sau:
Thu nhập
chịu thuế

=

Doanh
thu

-


Chi phí
được trừ

+

Các khoản
thu nhập khác

Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bằng
doanh thu của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trừ chi phí
được trừ của hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó. DN có
nhiều hoạt động kinh doanh áp dụng nhiều mức thuế suất khác nhau thì doanh
nghiệp phải tính riêng thu nhập của từng hoạt động nhân với thuế suất tương
ứng.
Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản phải hạch toán riêng
để kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, không được bù trừ với thu nhập
hoặc lỗ từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.


- Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế
+ Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế (gọi tắt là doanh thu tính thuế) là
toàn bộ tiền bán hàng, tiền cung ứng dịch vụ (không có thuế GTGT nếu cơ sở
kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; có cả thuế GTGT nếu
cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp) sau khi đã trừ chiết
khấu giảm giá hàng bán, trị giá hàng bị trả lại, tiền lãi trả chậm, nhưng bao
gồm cả các khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Doanh thu tính thuế còn bao gồm trị giá của hàng hoá, dịch vụ dùng để trao
đổi, biếu tặng (tính theo giá của mặt hàng cùng loại hoặc tương đương trên thị
trường tại thời điểm trao đổi, biếu, tặng, trang bị, thưởng cho người lao động)
và sản phẩm tự dùng (tính theo chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó).

+ Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế:
Đối với hoạt động bán hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu,
quyền sử dụng hàng hoá cho người mua.
Đối với cung ứng dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ
cho người mua hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ. Trường hợp
thời điểm lập hoá đơn xảy ra trước thời điểm dịch vụ hoàn thành thì thời điểm
xác định doanh thu được tính theo thời điểm lập hoá đơn.
- Chi phí: bao gồm các khoản chi được trừ và không được trừ khi xác
định thu nhập chịu thuế.
+ Các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
Các khoản chi được trừ là những khoản chi phí mà DN đã bỏ ra để tiến
hành sản xuất kinh doanh trong kỳ tính thuế có liên quan đến việc tạo ra
doanh thu và thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế mà theo quy định của luật
thuế được phép trừ khỏi doanh thu để tính thu nhập chịu thuế.


Các khoản chi được trừ gồm nhiều khoản chi phí khác nhau nên công tác
quản lý, theo dõi rất phức tạp. Bao gồm các chi phí liên quan đến lao động
quá khứ như chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nguyên vật liệu (đặc điểm khoản
chi này là có hoá đơn), chi phí liên quan đến lao động sống như chi phí tiền
lương, thưởng, chi hoa hồng môi giới (đặc điểm khoản chi này là không có
hoá đơn mà chỉ có hợp đồng hoặc bảng kê chi trả) và các chi phí khác.
Như vậy, việc quy định cụ thể khoản chi nào được hạch toán vào chi phí
khoản chi nào không được hạch toán vào chi phí là cụ thể hoá 4 nguyên tắc
khấu trừ chi phí và tạo ra tính minh bạch về thuế TNDN. Trên thực tế khoản
chi trực tiếp cấu thành sản phẩm (ví dụ: khấu hao TSCĐ, nguyên vât liệu, tiền
lương...) dễ xác định, nhưng có những khoản chi mang tính gián tiếp thì khó
xác định hơn. Ví dụ: chi đi nghỉ mát cho công nhân, chi thưởng cuối năm, chi
đào tạo, lợi thế kinh doanh....
Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 ở Việt Nam quy định điều kiện xác

định các khoản chi được trừ và liệt kê cụ thể các khoản chi không được trừ.
Theo cách này, những khoản chi còn lại không kê trong Luật và thoả mãn
điều kiện xác định các khoản chi được trừ thì được tính vào chi phí được trừ
khi xác định thu nhập chịu thuế.
Các điều kiện xác định các khoản chi được trừ:
(1) Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh của DN
(2) Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp
luật.
(3) Khoản chi không thuộc danh mục các khoản chi không được trừ quy
định dưới đây.
+ Các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế:


Một số khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế như:
Khoản chi không đáp ứng đủ các điều kiện quy định nêu trên trừ phần
giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh và trường hợp bất khả kháng khác
không được bồi thường; Chi khấu hao tài sản cố định; Chi nguyên liệu, vật
liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá phần vượt mức tiêu hao hợp lý; Chi phí
của DN mua hàng hoá, dịch vụ không có hoá đơn, được phép lập Bảng kê thu
mua hàng hoá, dịch vụ mua vào (theo mẫu số 01/TNDN kèm theo Thông tư
130/2008/TT-BTC) nhưng không lập Bảng kê kèm theo chứng từ thanh toán
cho cơ sở, người bán hàng, cung cấp dịch vụ; Chi trang phục bằng hiện vật
cho người lao động không có hoá đơn; Chi mua bảo hiểm nhân thọ cho người
lao động; Chi phụ cấp tàu xe đi nghỉ phép không đúng theo quy định của Bộ
Luật Lao động; Phần trích nộp quĩ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí
công đoàn vượt mức quy định; Chi trả tiền điện, tiền nước đối với những hợp
đồng điện nước do chủ sở hữu cho thuê địa điểm sản xuất, kinh doanh ký trực
tiếp với đơn vị cung cấp điện, nước không có đủ chứng từ…
- Thu nhập khác

Thu nhập khác là các khoản thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế mà
khoản thu nhập này không thuộc các ngành, nghề lĩnh vực kinh doanh có
trong đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.
Thu nhập khác bao gồm các khoản thu nhập sau: thu nhập từ chuyển
nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán; thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bao gồm cả tiền
thu về bản quyền dưới mọi hình thức trả cho quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản; thu về quyền sở hữu trí tuệ; thu nhập từ chuyển giao công nghệ theo quy
định của pháp luật, cho thuê tài sản dưới mọi hình thức; thu nhập từ chuyển
nhượng tài sản, thanh lý tài sản (trừ bất động sản), các loại giấy tờ có giá


khác; thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn bao gồm: lãi tiền gửi tại các tổ
chức tín dụng, lãi cho vay vốn dưới mọi hình thức theo quy định của pháp
luật, phí bảo lãnh tín dụng và các khoản phí khác trong hợp đồng cho vay
vốn; thu nhập từ kinh doanh ngoại tệ; hoàn nhập các khoản dự phòng giảm
giá hàng tồn kho, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính, dự phòng nợ
khó đòi và hoàn nhập khoản dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công
trình xây lắp đã trích nhưng hết thời gian trích lập không sử dụng hoặc sử
dụng không hết; khoản nợ khó đòi đã xoá nay đòi được; khoản nợ phải trả
không xác định được chủ nợ; chênh lệch giữa thu về tiền phạt, tiền bồi thường
do bên đối tác vi phạm hợp đồng kinh tế sau khi đã trừ khoản bị phạt, bị trả
bồi thường do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật; chênh lệch do
đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật …
Thuế suất: Trong thời kỳ 10 năm từ 1999 đến 2009, thuế suất thuế
TNDN phổ thông ở Việt Nam đã được điều chỉnh giảm từ mức 32% năm
1999, mức 28% từ năm 2004 và 25% từ năm 2009 theo đúng chiến lược, lộ
trình cải cách thuế, mức thuế suất phổ thông từ 2014 là 22% và từ 1/1/2016
xuống mức 20% và mức thuế suất ưu đãi là 10% và 17%. Nếu so với mức
bình quân chung của 83 nước trên thế giới là 27%; so với một số nước trong

khu vực có mức thuế suất phổ thông 30% như Philipine, Thái Lan; Trung
Quốc 25%, Malaysia 25% thì mức thuế suất phổ thông của Việt Nam được
đánh giá là thấp. (Từ ngày 1/1/2014 thuế suất thuế TNDN phổ thông tại Việt
Nam là 22% và từ ngày 1/1/2016 là 20%. Đối với DN có tổng doanh thu năm
trước liền kề dưới 20 tỷ thì thuế suất thuế TNDN áp dụng là 20%. Nếu năm
trước đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh chưa đủ 12 tháng, tính bình quân
doanh thu một tháng ko vượt 1.67 tỷ thì áp dụng thuế suất thuế TNDN 20%.)
c. Phương pháp tính thuế thu nhập doanh nghiệp


×