Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Sự nghiệp văn học của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.04 KB, 47 trang )

Đề tài: Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi
A. DẪN NHẬP
Có thể nói, thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong hào đấu hanh anh
dũng của dân tộc. Thiên tài ấy đã để lại sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn
phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác đuợc. Nhung dù
sao, nếu chỉ xát về mặt văn hoá thì cũng có thể khẳng định rằng: Nguyễn Trãi đã cắm
một mốc quan trọng trên con đuờng phát triển của dân tộc ta. Cột mốc ấy đặc biệt quan
trọng đối với lịch sử văn học nuớc nhà.
Tinh thần dân tộc, ý thức tự hào dân tộc, niềm mong muốn xây dựng một nền
văn hoá dân tộc ngày càng rực rỡ, đó vẫn là cốt lõi lý tuởng của Nguyễn Trãi. Với lý
tuởng ấy, Nguyễn Trãi đã hở thành ngôi sao khuê chói lọi ấy trong lịch sử dan tộc. Vị trí
của ông trong lịch sử văn học nuớc nhà đã đuợc nhiều thế hệ công nhận, và chúng ta
ngày nay lại càng khẳng định mạnh mẽ vai trò đó, vị hí đó của ông.
Một tục ngữ phuơng Tây đã nói: mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhung chúng
ta không thế không so sánh Nguyễn Trãi với Đantê. Cũng nhu Đantê, Nguyễn Trãi cũng
là một nhà chính trị, một nhà yêu nuớc đã có cống hiến lớn lao đối với việc hình thành
và phát triển văn hoá dân tộc. Vai trò của Nguyễn Trãi đối với thể loại và thơ Nôm
không khác gì vai trò của Đantê với đối với tiếng Ý. Cũng nhu Đantê đã đứng truớc di
sản rực rỡ của văn học La Tinh cổ điển và đã phải viết những tác phẩm triết học của
mình bằng tiếng La Tinh nhung vẫn quyết định viết kiệt tác văn học của mình bằng
tiếng dân tộc - tiếng Ý. Đối diện với một di sản văn học đồ sộ bằng chữ Hán, cũng đã
viết các công trình biên khảo về lịch sử, địa lý và những tác phảm có liên quan đến lịch
sử đuơng thời bằng chữ Hán. Nhung bên cạnh đó, ông đã dùng chữ Nôm, chữ Quốc
ngữ để viết nên những tác phẩm quan trọng của mình. Chính chữ Nôm và chữ Quốc
ngữ đã đua Nguyễn Tải trở thành một đỉnh cao chói lọi trong lịch sử văn học dân tộc.
Sẽ là không thoả đáng nếu


chúng ta so sánh nội dung của “Quốc âm thi tập” với “Khúc ca thần thánh” của Đantê.
Xét về phuơng diện ngôn ngữ văn học mà nói, ngôn ngữ dân tộc đã tỏa sáng duới ngòi
bút của những bậc thầy nhu thế.


Có thế nói, Nguyễn Trãi đã là hiện thân cho một buớc phát triến nhảy vọt kì diệu
và hở thành nguời mở đầu cho nền văn học cận - hiện đại của Việt Nam. Một vĩ nhân
nhu thế không phải chỉ riêng về một thời đại hay một dân tộc mà là của toàn nhân loại.
Tổng giám đốc Tổ chức văn hoá- khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc cũng trân
trọng đánh giá Nguyễn Trãi là “Sứ giả của dân tộc Việt Nam”, “Thành viên kiệt xuất
của cộng đồng loài nguời”, và đi đến khẳng định: “Sáu trăm năm sau, nỗi thao thức
canh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh
bên lòng của tất cả những yêu công lý và nhân đạo trên đời nay”.

B. NỘI DUNG
Những vấn đề chung
1.1. Giói thiệu về Nguyễn Trãi
1.1.1.

Cuộc đời

Nguyễn Trãi (1380-1442) tên tự là ức Trai, sống vào giai đoạn lịch sử sôi động
từ cuối đời Trần, trải qua đời Hồ, thời đấu tranh chống ách xâm luợc Minh cho tới đầu
đời Lê. Ông là nguời anh hùng dân tộc, nhà tu tuởng, danh nhân văn hoá thế giới. Năm
1406, giặc Minh xâm luợc Đại Việt, đánh bại nhà Hồ, áp bức muôn dân, bắt cha
Nguyễn Trãi đua về Trung Quốc. Nợ nuớc, thù nhà, Nguyễn Trãi đã tìm đến với phong
trào khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi và trở thành nhà soạn thảo và thực thi những quyết
sách đúng đắn, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Minh đến thắng lợi hoàn toàn.
Nguyễn Trãi sinh ra tron một gia đình quý tộc. Ồng là cháu ngoại của Trần
Nguyên Đán một quý tộc dưới thời nhà Trần. Chính vì thế từ nhỏ Ngyễn Trãi đã
có điều kiện được ăn học. Ồng là người rất thông minh, lại được đọc rất nhiều sử
sách Trung Quốc cho nên Nguyễn Trãi có học thức rất uyên bác. Từ đây Nguyễn
Trãi sớm tiếp xúc và thấu hiểu về tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Có hai sự kiện lớn khi nhắc đến cuộc đời Nguyễn Trãi đó là cuộc gặp gỡ
của Nguyễn Trãi và Lê Lợi ở Lũng Nhai và cái chết bi háng của ông.

Sự gặp gỡ của hai con người ấy được dân gian coi là sự kết họp của 2 ngôi
sao bản mệnh chiếu vào nhau. Hai ngôi sao cùng tỏa sáng trên bầu hời đất Việt


khi ấy. Khởi nghĩa Lam Sơn - Đại thắng quân Minh năm 1427 là kết quả của
cuộc gặp gỡ định mệnh ấy.
Nhưng đáng thương cho một con người tài đức vẹn toàn khi phải chịu một
cái chết quá nghiệt ngã. Một đời hung với nước, hết mình vì Vua vì dân, vậy mà
phải chịu một án oan phải chu di tam tộc. Đây là vụ án oan khuất vào bậc nhất
trong lịch sử dân tộc. Cái chết của Nguyễn Trãi là sự mất mát lớn của dân tộc.
Chúng ta cũng có thể hiểu một cách khác đó là cái chết của Nguyễn Trãi là tất
yếu, cái chết chịu sự quy định và phán xét của lịch sử. Sứ mệnh của Nguyễn Trãi
là sinh ra để làm quân sư cho Lê Lợi, giúp Lê Lợi đánh thắng được quân thù, và
sau khi kháng chiến thành công thì sứ mệnh của Nguyễn Trãi cũng dừng lại.
Cuộc sống thừa thãi của con người toàn đức toàn tài ấy ở Lệ Chi viên cuối cùng
cũng dẫn đến một cái chết theo quy định của lịch sử mà thôi. Dù lí giải thế nào đi
chăng nữa thì vụ án Lệ Chi Viên cũng đã chìm thật xa trong lịch sử, tất cả mọi
giả thuyết đưa ra lí giải chỉ mang tính chất tương đối. Tuy nhiên lịch sử đã hoàn
toàn lí giải cho chúng ta khi Nguyễn Trãi được minh oan hoàn toàn và được lưu
giữ những giá trị quý báu mà ông để lại cho dân tộc.
1.1.2.

Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều nhưng sau vụ thảm án Trại Vải, nhiều tác

phẩm của ông đã bị bè lũ quyền thần đem tiêu hủy. Phần còn lại ngày nay là do
người hội ấy ghi chép giữ lại. Sử đời Lê cho biết rằng : “ Mẩy năm sau ngày
Nguyễn Trãi bị giết, vua Lê Nhân Tông một hôm đã tình cờ phát hiện ở bì thư cất
trong cùng một dị bản của ửc Trai vua xem qua, đánh giá cao “ Văn chương đức
nghiệp ” của tác giả, và đem tập sách về nơi ngự tẩm coi làm bản gốc

Sau đó, dưới thời Lê Thánh Tông (1460-1497) triều đình đã phục hồi
thanh danh cho người công thần bị sử oan. Nhà vua cũng ủy cho một nho thần,
Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm của Nguyễn trãi.
Sáu thế kỷ nay, nhiều học giả Việt Nam tiếp tục cố gắng tìm tòi ghi chép
phần văn thơ của Nguyễn Trãi chưa bị thiêu hủy sau ngày ông mất.
Trên cơ sở những văn bản hiện còn, mấy năm gần đây các nhà nghiên cứu
sử học, văn học Việt Nam đã có thể xuất bản một số công trình nghiêm túc về
thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi.


Phần lớn văn chương của Nguyễn Trãi được viết bằng chữ Hán. Nhưng
chúng ta đều biết, đối với văn hóa Á Đông, thời kì này chữ Hán chiếm một vị trí
ưu việt. Giống như chữ La Tinh đối với phương tây thời trung cổ. Tuy nhiên, sự
nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi còn có một phần thơ chữ Nôm. Tác phẩm
viết bằng chữ Hán của Nguyễn Trãi gồm hai phần : văn xuôi và thơ.
'ị- Văn chính luận :
Quân trung từ mệnh tập (1423-1427)
Phần quan họng của tập sách là những thư từ Bình Định Vương gửi cho
tướng lĩnh nhà Minh, sau này được chép lại dưới mục “ Dữ minh nhân vãng
phục thư tín”. Nội dung chính của các lá thư là cuộc biện luận của người Việt
Nam và người Minh nhằm mục đích dàn xếp cuộc hòa bình lâu dài giữa hai
nước. Có hơn 70 bức thư, trong đó đa số các bức thư gửi cho tướng tá nhà Minh,
phần còn lại là những thư từ viết gửi cho quân ta.
Quân trung từ mệnh tập là tập văn kiện lịch sử - binh vận - ngoại giao
bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo theo sự uỷ thác và hên danh nghĩa của
Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 28). Tập tư liệu gồm các thư từ trao
đối giữa Lê Lợi và các tướng quân Minh (Trần Trí, Phương Chính, Vương
Thông...), không kể phần văn loại gồm các bài chiếu, biểu viết trong thời bình.
Trần Khắc Kiệm đời Hồng Đức (1470 - 97) sưu tập lần đầu và Dương Bá Cung
biên soạn, khắc in năm 1868. số lượng hiện còn khoảng 62 bản, xếp trong ửc

Trai di tập.
Đây là tập văn vừa mang tính luận chiến, nhằm cổ vũ tinh thần
quân sĩ và làm nao núng ý chí quân giặc, vừa mang tính thuyết phục, giảng giải
cho kẻ địch thấy rõ lẽ tất yếu phải rút quân và thừa nhận chủ quyền độc lập của
Đại Việt. Lập luận sắc bén, văn phong sáng gọn, gợi cảm, có lí có


tình. Tài hùng biện của Nguyễn Trãi quả thực hiếm thấy, đã góp phần làm cho
giặc dao động và cầu hoà, đua đến thắng lợi năm 1428. Sau này, Lê Quý Đôn đã
nhận xét Nguyễn Trãi là nguời viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời đại.
Bình Ngô Đại Cáo (1428)
Bình Ngô đại cáo truớc hết là một văn kiện lịch sử. Cuối năm 1427 (cũng
có những tài liệu cổ cho rằng đầu năm 1428) đuợc lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi
viết Bình Ngô đại cáo và văn bản này đuợc công bố tháng 4 năm 1428 bố cáo
cho toàn quân dân biết sự nghiệp bình Ngô đã hoàn toàn thắng lợi, quân thù đã
thảm bại và phải cút khỏi nuớc ta, một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã
tắc. Chỉ với tu cách văn bản quan phuơng Bình Ngô đại cáo mới đuợc đua vào
bộ quốc sử Đại Việt sử kỷ toàn thư chứ không phải vì nó là tác phẩm vãn chương
xuất sắc của một bề tôi. Tuy nhiên, các thể loại vãn chưomg Việt Nam thời trung
đại-như viện sĩ Đ.x. Likhatsôp nhận thấy ở thể loại văn học Nga cổ- là để phục
vụ nhằm thoả mãn cả một kết hợp phức tạp những nhu cầu xã hội và tồn tại gắn
liền với điều đó trong một sự lệ thuộc với nhau rất chặt chẽ, nên từ khi ra đời,
Bình Ngô đại cáo không phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu như một văn bản hành
chính mà còn như một kiệt tác văn chương.
Bình Ngô đại cáo được thể hiện qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Trãi
trứi thành sản phẩm tinh thần đẹp nhất của thời đại ông. Đây là bản anh hùng ca,
là tiếng vang vọng của ngàn xưa cho đến mai sau.
Chỉ với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã xứng đáng là nhà văn chính
luận kiệt xuất, song ông còn có Quân trung từ mệnh tập- tập văn chính luận quy
mô đầu tiên của nuớc ta. Những truớc tác này cùng với thơ của thi hào đã làm

nên một hiện tuợng độc đáo trong văn học hung đại Việt Nam: Nguyễn Trãi là
tác gia duy nhất có sự tuơng xứng kép, ở bậc cao, tuơng xứng giữa văn chính
luận và văn chuông thẩm mỹ, tuơng xứng giữa truớc tác bằng chữ Hán và bằng
quốc âm
Băng Hồ di sự lạc (1420)
Lam Sơn Vĩnh Lăng thần đạo bi kí (1433) : Ghi chép gia thế, sự
nghiệp của Lê Thái Tổ sau ngày vua mất. Và nhiều bài biểu, tấu, chiếu, dụ,


những công văn có nội dung thời sự nhung vẫn đuợc đời sau coi nhu kiểu mẫu
của thể văn này.
Dư địa chí (1435)
Thơ ca
ửc Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán
Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ Nôm (uớc đoán, đây là quyển thơ
Nôm duy nhất còn sót lại sau thảm án Lệ Chi viên.
ửc trai thỉ tập đuợc viết bằng chữ Hán, Quốc âm thỉ tập bằng chữ Nôm.
Đó là cả một đời thơ của Nguyễn Trãi, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là
khoảng 10 năm tìm đuờng và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Nội dung chủ yếu
của hai tập thơ là tâm tình đối với quê huơng, gia đình, với nuớc, với dân, và
những bao éo le trong cuộc đời của Nguyễn Trãi...

1.2.

Những vẫn đề thòi đại
Nguyễn Trãi đã sống 20 năm cuối triều Trần - giai đoạn quyền lực truyền

thống đã sa đọa và gần nhu đã nằm trong tay của Hồ Qúy Ly. Bảy năm dưới
triều Hố - nơi mà quyền lực đang dựng xây dang dở. 20 năm dưới thời thuộc
Minh và chống Minh thuộc - một thời kì đầy bão táp của bạo lực bành trướng,

và đô hộ, đầy bão táp của bạo lực quần chúng, của toàn thể dân tộc được tổ
chức, vùng dậy đấu hanh chống bành chướng và đô hộ, giải phóng dân tộc,
giành độc lập tự do. Cuối cùng là 15 năm đầu triều Lê với những lộn xộn sau
chiến tranh và đảo lộn thân phận xã hội quá nhanh của một triều đại dân tộc lớn
cuối cùng của lịch sử Việt Nam. Nguyễn Trãi đã sống và và hoạt động trong thời
kì lịch sử đầy những biến động, đầy hoạn nạn và âu lo của lịch sử Việt Nam.
Bên cạnh đó, ở thời đại này, Đạo Nho được coi là quốc giáo, mọi mặt của
xã hội đều lấy Đạo Nho làm gốc. từ chế độ khoa cử, thiết chế nhà nước ... đến
các thành phần của xã hội. Lực lượng chính trong xã hội là những người quân
tử, là những nhà tri thức Nho gia.
Tất cả những điều đó đã làm nên con người Nguyễn Trãi - kẻ tư văn sinh
đất Việt - kẻ sĩ đem lý tưởng riêng tư của cá nhân phụng sự cho đất Việt


2. Những đỏng góp của Nguyễn Trãi cho văn hoc Viẽt Nam
Trong lịch sử văn học dân tộc những sáng tác của các tác gia đều có những ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển của Văn học Việt . Chúng ta có thể kể đến những cái
tên như : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân
Diệu, Nam Cao ... Mỗi tác gia đều có những đóng góp nhất định cho nền văn học nước
nhà ở các nội dung như : tinh thần yêu nước thương dân, tinh thần tự hào dân tộc, tinh
thần chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước, tư tưởng lạc quan với cuộc sống, yêu cái
đẹp, khát vọng sống một cuộc sống bình đẳng và hạnh phúc .... Bên cạnh đó là đóng
góp về các thủ pháp nghệ thuật rất mới mẻ, độc đáo.
Trong những tác gia ấy, chúng ta có thế thấy rằng đóng góp của Nguyễn Trãi
khá toàn diện cả về nghệ thuật và nội dung . Duới đây là những đóng góp của ông mà
nhóm thực hiện đã tìm hiếu đuợc.

2.1. Đóng góp về nghệ thuật
2.1.1. Ngôn ngữ
Bị chi phối bởi quan niệm thẩm mỹ của văn chuơng trung đại, thơ

Nôm Nguyễn Trãi vẫn mang tính uyên bác, sử dụng nhiều điển cố và các
hình ảnh tuợng hung uớc lệ.
Khi tiếp xúc với một tác phẩm văn chuơng có dùng ĐIÊN, ta thấy
nó không còn vẻ mộc mạc, dân dã nữa, mà đã thể hiện tính bác học, đó là
sự uyên bác và tài năng nghệ thuật của tác giả. Có thể nói,
ĐIỂN tạo cho tác phẩm văn học một cốt cách sang trọng, mỹ lệ và đạt
hiệu quả thẩm mỹ cao. Đọc hai câu trong thơ Đuờng luật tựa đề “Loạn
hậu cảm tác” trong “ức Trai thi tập”, để thấy tác dụng của ĐIỂN dùng
trong đó:
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt
Bá Nhân chan lệ Tẩn sơn hà
{Nghĩa ỉà\ Tử Mỹ giữ lòng cô trung đối với ngày tháng nhà Đuờng; Bá
Nhân ứa nuớc mắt hai hàng khóc nhìn non sông nhà Tấn).
Trong hai câu thơ này, thi nhân đã sử dụng hai điến “Tử Mỹ” và “Bá
Nhân”, tạo nên hai vế đối nhau tuyệt đẹp. Tử Mỹ tức là Đỗ Phủ, là nhà thơ nổi
tiếng đời Đuờng, đuợc giữ một chức quan nhỏ triều vua Đuờng Huyền


Tông. Khi An Lộc Sơn nổi loạn dẫn quân tấn công quân triều đình và bao vây
kinh đô Truờng An, vua Đuờng Huyền Tông và triều thần phải bỏ chạy đi Ba
Thục, Đỗ Phủ bị bắt giam. Trong ngục tù, Đỗ Phủ luôn đau đớn ôm lòng cô
trung với nhà Đuờng. Bá Nhân tức Chu Nghĩ nguời thời Tây Tấn, làm quan đến
chức Thuợng thu Tả Bộc Xạ. Khi Tây Tấn bị quân Ngũ Hồ bao vây tiêu diệt,
triều đình phải bỏ kinh thành Lạc Duơng chạy xuống phuơng Nam. Ông đã cùng
các danh sĩ nhà Tây Tấn chạy sang Giang Đông, tụ hội ở Tân Đình bàn thế sự,
nhìn về non sông nhà Tấn ở phía bắc mà chứa chan hai hàng lệ. Nhung rồi Tử
Mỹ và Bá Nhân, mỗi nguời đều tìm đuờng phò giúp giang san.
Đằng sau hình ảnh Tử Mỹ, Bá Nhân, phải chăng chính là tấm lòng
Nguyễn Trãi (tức ức Trai) đối với non sông Đại Việt đang bị quân Minh giày
xéo, muôn dân rên xiết, loạn lạc, điêu linh mà bản thân ông chua tìm đuợc một

huớng đi để giúp nuớc? Cho nên, đúng nhu Bùi Duy Tân đã nhận xét: “Nguyễn
Trãi đã ký thác tẩm lòng cô trung và hai hàng lệ nhỏ vào chuyện cũ người xưa” .
Đọc nhiều bài thơ của Nguyễn Trãi, ta còn bắt gặp nhiều hình ảnh tuợng
trung, uớc lệ khác nữa chẳng hạn nhu:
Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ,
Tay còn lọ hái cúc Uyên Minh.
Chi là của tiêu ngày tháng?
Thơ một hai thiên, rượu một bình
(Mạn thuật, bài IX)
Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn,
Dường ẩy ta đà phỉ thửa nguyền
(Tự thán, bài IV)
Những câu thơ như thế của Nguyễn Trãi cho thấy ông là một nhà đại
Nho. Nguyễn Trãi sống bằng đạo vua - tôi, đạo cha - con, đạo cương thường,
nhưng phải trong một xã hội lý tưởng, một xã hội “vua Nghiêu Thuấn, dân
Nghiêu Thuấn”, một xã hội mà ông nỗ lực phấn đấu để tạo lập.
Tuy nhiên, nhờ sử dụng chữ Nôm, thơ Nguyễn Trãi đã ngày càng dung
dị, tự nhiên, gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động. Từ ngữ trong thơ
Nôm thường có sức gợi tả mạnh và đặc biệt độc đáo. Tập thơ Quốc âm thi tập


của Nguyễn Trãi ra đời giúp cho tiếng việt thật sự đi vào đời sống nhân dân, tạo
bước đột phá trong việc sử dụng tiếng Việt trong văn học dân tộc. Nếu như ở thế
kỉ XVIII Nguyễn Du đã tạo nên niềm tự hào cho tiếng Việt, thì ở thế kỷ XV,
Nguyễn Trãi là người xây nên niềm tin cho tiếng Việt.
Sống và làm việc ở Thăng Long là “sang ở nước”. Còn ẩn cư là “sống ở
làng”. Nông thôn và nông dân đã mang lại cho Nguyễn Trãi nhiều thứ: lương
thực, thực phẩm, tình máu mủ trong gia tộc, tình làng nghĩa xóm.
Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền,
Cành bẳc cành nam một cỗi nên.

[...]
Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp,
Cưong nhu cùng biết hết hai bên.
(Bảo kính cảnh giới, bài XV).
Yêu trọng người dưng là của cải,
Thương vì thân thích nghĩa chân tay
(Bảo kính cảnh giới, bài XVIII)


ức Trai lại viết:
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày
(Bảo kính cảnh giới, bài XIX).
Đen đây ửc Trai có đủ cảm hứng để hạ bút:
Trời đã có kho vô tận,
Dành để nhi tôn khỏi bợ vay
(Bảo kính cảnh giới, bài XIX).
Ồng còn thoải mái viết những câu vượt ra khỏi mọi ràng buộc câu thức lễ
nghi để thật sự hoà đồng cùng cây cỏ đất hời:
Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ẩy hứng nồng.
Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc,
Say lểu thểu đứng đường thông...
(Thuật hứng, 16)
Qua những câu thơ ở trên đã hình dung được đời sống và cốt cách của
một nhà nho ẩn cư ở nông thôn của nước Đại Việt. Đây chính là bản sắc dân tộc
trong thơ Nôm luật Đường của Nguyễn Trãi
ị- Nhờ chữ Nôm, Nguyễn Trãi đã thành công trong việc đưa vào thơ ca bác học
nguồn thi liệu vô cùng quý giá của tục ngữ, thành ngữ, ca dao. Nguyễn Trãi sử
dụng thành ngữ, tục ngữ, câu nói dân gian gần với đời sống nhân dân. Nhiều tác
phẩm, nhiều hình tượng, từ ngữ do văn học dân gian tạo



nên là nguồn cảm hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học viết xuyên suốt thời
trung đại và hiện đại
Không một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn nào của nuớc ta không
khẳng định, tôn vinh giá trị bất hủ của văn học dân gian. Đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du từng xác nhận Thôn ca sơ học ma tang ngữ” (Từ nhỏ học lời nguời
trồng dâu, trồng đay qua những bài hát nơi thôn xóm). Hồ Chí Minh khẳng định
văn học dân gian “ là những hòn ngọc quý”.Không chỉ tồn tại trong ý thức,
những nhà thơ trung đại và hiện đại đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và
nghệ thuật uu tú của văn học dân gian vào sáng tác của mình.Trong một thời kì
lịch sử khá dài, chữ Hán đuợc coi là một thứ chữ có tính quan phuơng, “ chính
thức” thì việc học tập, vận dụng ca dao tục ngữ, thành ngữ dân gian vào các sáng
tác đặc biệt là các sáng tác bằng tiếng nói dân tộc không chỉ có giá trị về phuơng
diện nghệ thuật ngôn từ mà còn là một hành vi văn hoá thể hiện sâu sắc lòng yêu
nuớc và tự hào dân tộc.
Có câu ca dao:
sổ giàu đem đến dửng dưng Lọ là con
mắt trảo trưng mới giàu
Trong thơ của mình, Nguyễn Trãi viết:
Sang cùng khó bồi chưng trời Lăn lóc
làm chi cho nhọc hơi Đựợc thua, phú
quỷ dầu thiên mệnh Chen chóc làm
cho cho nhọc nhằn.
Lại có câu:


Còn duyên như tượng tô vàng Hết duyên như ổ ong tàn gặp mưa

Còn duyên đóng cửa kén chồng Hết duyên cất quán ngồi trông bộ hành

Trong Quốc âm thi tập có viết La ỷ dập dìu hàng chợ họp Cửa nhà bịn rịn
tổ ong tàn
Một câu ca dao khác là :
Thật vàng chang phải thau đâu Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng
Quốc âm thi tập có câu
Ngọc lành nào có tơ vết Vàng thật âu chi lửa thiêu
Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành
ngữ.
Ở bầu thì dáng ẳt nên tròn Xẩu tốt đều thì lẳp khuôn Lân cận nhà giàu,
no bữa cốm Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn


Chơi cùng đứa dại nên bầy dại Kết
với người khôn học nết khôn Ở
đằng thấp thì nên đằng thấp Đen
gần mực, đỏ gần son.
Đọc bài thơ này chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng
sáng tạo nhiều tục ngữ:
Ở bầu thì tròn, ở ổng thì dài
Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm
Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn
Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Chính vì thế , những kinh nghiệm đuợc Nguyễn Trãi nêu ra trong bài thơ
rất gần gũi với dân gian, dễ đuợc nhân dân tiếp nhận và qua đó phản ánh cốt
cách thân dân của nhà yêu nuớc vĩ đại xứng danh “ Kinh bang hoa quốc cố vô
tiền” này.
Ngoài ra , thơ Nguyễn Trãi dùng rất nhiều từ láy, ta cũng bắt gặp điều này
trong thơ Nguyễn Du, bởi bản chất từ láy là gợi hình, gợi ảnh. Điều này khiến
cho các tác phẩm thơ trở nên giàu hình ảnh hơn, sống động hơn, nguời đọc dễ
hình dung đuợc các hình tuợng thơ.

Ta nhận ra một Nguyễn Trãi thật tự do phóng khoáng giữa đất hời, thật táo bạo
với những từ ngữ thuần Việt đắt giá “tênh hênh”, “lểu thểu”, ‘Tẩn thẩn” mà vẫn không
suồng sã, tuởng khó thành thơ mà vẫn lộ rõ cốt cách thanh cao nhung giản dị của
Nguyễn Trãi.
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,


Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ẩy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, 35)
2.1.2. Thể thơ
ị- Nguyễn Trãi đã sử dụng thành công thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ Nôm
của mình. Đây là một thể thơ đuợc sáng tác dựa trên quy cách và cấu trúc của thơ
Đuờng luật. Điểm khác biệt là ở hiện tuợng xen kẽ những câu sáu tiếng vào các câu 7
tiếng của bài thơ bát cú lẫn tứ tuyệt luật Đuờng.
Số luợng các bài thơ đuợc sáng tác theo hình thức này rất lớn (186/254)
chứng tỏ rằng Nguyễn Trãi hoàn toàn có ý thức khi vận dụng thế thơ này nhu
một sự thử nghiệm cho việc tìm ra một thế thơ mới cho dân tộc, chống lại ảnh
huởng quá sâu sắc của thi ca Trung Hoa.
Ba tiêu (236)
Bản Nôm:

Dịch thơ :

EB H


Cây chuối
Tự bén hơi xuân tốt lại them
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm

siaậiiĩ

Tình thu một bức phong còn kín


Gió nơi đâu gượng mở xem

PS«ặ 98 3ằM
Hồn thơ ấy cũng không gò bó câu thúc trong khuôn khổ thơ luật Đường mà tìm
cách thế hiện cá tính của mình trong những phá cách lục ngôn. Nghiêm cấm trong thơ
chữ Hán bao nhiêu thì ông lại phóng túng trong thơ chữ Nôm bấy nhiêu, đó cũng là dấu
ấn đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập.Người đọc có thể hình dung một
Nguyễn Trãi “Cơm ăn chẳng quản dưa muối - Áo mặc nài chi gấm thêu” giữa một thiên
nhiên rất giàu cảm xúc và đậm nét đời thường:
Tùng (218-220) (3 bài thủ vĩ liên hoàn)
Bản Nôm: Bản dịch:
Thu đến cây nào chẳng lạ lung Một
mình lạt thuở ba đông Lâm tuyền ai
rặng già làm khách Tài đống lương

m n x 0=
ỄB

cao ắt cả dùng Đống lương tài có mấy
bằng mày Nhà cả đòi phen chống

khoẻ thay Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay

* ĩù» ? m M.
HI
86®

lềsbmiẽ
,


Hổ phách phục linh nhìn mới biết Dành
còn để trợ dân này.
Tùng của Nguyễn Trãi là chùm thơ ba bài, đều viết theo tứ tuyệt, thất
ngôn xen lục ngôn, cấu trúc liên hoàn - thuớc kiều, tạo nên một chính thể nghệ
thuật toàn bích, trong đó, ngôn ngữ liên kết, liền mạch, hình tuợng cây tùng
mang ý nghĩa tuợng trung sâu sắc nhiều vẻ. Vịnh cây tùng, Nguyễn Trãi khẳng
định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của nguời quân tử, đồng thời kín đáo gửi
gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình.
Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen
lục ngôn khiến lời thơ hở nên cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, thuờng
phù họp với việc diễn đạt những chân lý của đời sống, những quyết tâm hành
động của nhà thơ. Ngoài ra, cách ngắt nhịp phong phú của câu thơ 6 chữ khiến
nó có khả năng diễn đạt đuợc những cung bậc tình cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc
của con nguời.
Văn chương chép lẩy đòi câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo trung.
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng.
(Bảo kính cảnh giới ( bài 5))
Tuy nhiên, sự xuất hiện của các câu thơ 6 chữ đã làm phá vỡ kết cấu hoàn
chỉnh của bài thơ Đuờng luật, dẫn đến việc thất niêm, thất luật. Vì vậy, thế thơ
này ngày càng ít đực sử dụng, nhuờng chỗ cho những thế thơ dân tộc khác hoàn
chỉnh hơn về mặt cấu trúc và niêm luật, nhịp thơ.


Không thể đọc nó theo nhịp thơ Đường quen thuộc: Hầu nên khôn lại

/

tiếc khuâng khuâng mà chỉ có thể coi cả câu là một nhịp hoặc phân nhịp tương
đối là Hầu nên khôn / lại tiếc khuâng khuâng. Câu thơ thuần như một thầm nhắc,
buột ra dễ dàng, tự nhiên đến thú vị, không có sự câu thúc của thể thức, chương
pháp
Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng
Thu đến đêm qua cảm vả mừng Một
tiếng chày đâu đâm cối nguyệt Khoan
khoan những lệ ác tan vầng.
Cách sử dụng biền Văn cũng rất đa dạng, được viết theo kiểu văn tứ lục,
dùng các câu ngắt quãng 4,6 chữ nối nhau. Kiểu tứ lục có thể biến thành các kiểu
đối 4,4 - 4,4 hoặc 6,6 - 6,6 hoặc xa hơn nữa nhưng lối câu thịnh hành nhất,là lối
biền văn cận thể tứ lục biến cách.
Nhân nghĩa chi cử ,yếu tại an dân.
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử đạo.
(4,4 - 4,4)
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang
(6-6)

Trong mỗi câu gần 10 chữ ngắt nhịp theo nhịp 4,6 :
Yết can vi kì,manh lẹ chi đồ tứ tập
Đầu giao hưởng sĩ,phu tử chi binh nhất tâm.
(Bình Ngô Đại Cáo)
Trật tự này có thế đảo ngược thành 6,4 :


Ninh kiều chi huyết thành xuyên,lưu tinh vạn lý,
Tổt Động chi thi tích dã,di xú thiên niên
(Bình Ngô Đại Cáo)
Thế thơ 6 chữ xen 7 chữ với cách gieo vần thích họp
“Rồi hóng mát thưở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán
rợp gương,
Thạch Lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng Liên trì đã tiễn mùi hương Lao xao chợ cá làng
Ngư Phủ Dẳng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
De có ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi
phương
(Gieo vần ở cuối các câu 2,4,6,8)
i- Thơ Nguyễn Trãi có sự ngắt nhịp rất nhiều và có sự gieo vần:
Thơ Đuờng Luật, thơ thất ngôn bát cú là thể thơ cơ bản của thơ Đuờng
Luật, về vần trong 7 tiếng 8 câu thì tiếng cuối câu 1 và các câu chẵn vần với
nhau (vần chân và độc vần) vần chủ yếu là vần bằng. Cũng có vần trắc nhung ít
hơn về luật:có sự luân phiên bằng trắc tạo lên nhịp cơ bản 223. Trong mỗi câu
thơ phổ biến là luật bằng, vần bằng.
Trong bài thơ “Bạch Đằng Hải Khẩu” đã thể hiện rất rõ:
“Sóc phong xuy hải khỉ lăng lăng Khỉnh khởi ngâm phàm
quá Bạch Đằng Ngọc Đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích triết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết



Hào kiệt công danh thử địa tầng
Vãng sư hồi đâu ta dĩ hỉ
Lâm lưu phủ ảnh khí nan thăng. ”
(Rút từ tập “ức Trai Thi Tập”)
Gieo vần chân :
“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ Thanh lỉnh lỉnh nhiên
Ngô dĩ vỉ huyền . ”
(Gieo vần chân ở cuối câu 1,3)
Một cách gieo vần khác là :
“Vãng sự nan tầm,thời di quá,
Quốc âm vị báo,lão kham niên
Bình sinh đôi bảo tiên ưu chỉ,
Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên. ”
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)
(Gieo vần chân cuối câu 2,4 (Niên - Miên )
(Gieo vần lung ở giữa câu 2,3 (Báo - Bão )
2.1.1. Thể loai
Nguyễn Trãi có rất nhiều đóng góp về thể loại tác phẩm Văn Học trong
lịch sử Văn Học Việt Nam. Các thế loại Văn học chính thời kì Trung Đại là: Thơ,
Phú, Chiếu, Biểu,Văn bia, Cáo, Truyện kí, Chính luận... trong đó, Nguyễn Trãi
đã có những đóng góp rất quan trọng với một số thể loại


chính như: Thơ,Văn chính luận,Chiếu,Cáo. Đây là những đóng góp rất quan
trọng.
Thơ
Nguyễn Trãi để lại tập thơ là ửc Trai thỉ tập bằng chữ Hán và Quốc âm thi

tập bằng chữ Nôm. Tiêu biểu nhất là Quốc Ẩm Thi Tập được viết bằng chữ Nôm,
chữ Quốc ngữ hiện nay còn lưu giữ được 254 bài. Hai tập thơ đã góp phần làm
phong phú thêm kho tàng thơ dân tộc.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi hàm xúc, tinh luyện, thâm trầm, đó là tập
thơ ửc Trai thỉ táp.Những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi nói lên tư tưởng của
người Nho gia, sống thanh thản hòa mình cùng thiên nhiên, không ham danh lợi
tiền bạc. Tập thơ ửc Trai thỉ tập hiện có khoảng 99 bài được làm chủ yếu lúc
Nguyễn Trãi ở ẩn tại Côn Sơn.
Thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi bình dị mà tài hoa, thiết tha, đằm thắm,
với một đặc điểm nghệ thuật độc đáo, đó là lấy thất ngôn xen lục ngôn là một dấu
ấn kỳ lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc. Ồng đã gắn liền Văn chương với sự
nghiệp, gắn việc làm văn với nhiệm vụ làm người tư tưởng này được thể hiện
trong các bài thơ Bảo kỉnh cảnh giới. Nguyễn Trãi đã mở đầu cho việc sáng tác
văn chương bằng chữ Quốc ngữ trong lịch sử văn học dân tộc.
Tập thơ Quốc âm thi tập đã đưa Nguyễn Trãi hở thành một trong ba đại
gia Thơ Nôm trong nền văn học Việt Nam (Cùng với Nguyễn Du và Hồ Xuân
Hương).
Đao bút phải đùng tài đã vẹn.
Chỉ thư nẩy chép việc càng chuyên.
Vệ Nam mãi mãi ra lay thước.


Điện Bẳc đà đà yên phận tiên.
(Bảo Kính Cảnh Giới: Bài số 56)
Những bài thơ của Nguyễn Trãi đã đóng góp vào nền Văn học Việt Nam.
Những tư tưởng uyên thâm và nghệ thuật làm cho thơ Nguyễn Trãi độc đáo,và
vô cùng đặc sắc.
t Văn Chính Luận
Nguyễn Trãi trong các tác phẩm của mình, đặc biệt trong các tác phẩm
chính luận, luôn có cái nhìn sâu rộng, cái nhìn thấu đáo và sâu sắc đối với thiên

nhiên, xã hội đối với cuộc sống của đất nước,của nhân dân. Nguyễn Trãi đã làm
nhiều bài văn chính luận trong các bài đó không thế không nhắc tới Quân Trung
từ mệnh tập. Đó là tập văn xuôi do Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết trong màn
trướng từ năm 1423-1427. Phần lớn là những thư từ gửi cho các tướng lính nhà
Minh trong thời gian chiến tranh và các biểu dụ. Quân hung từ mệnh tập nêu rõ
tư tưởng,lãnh đạo của Nguyễn Trãi đó là “Công tâm”.
“Công tâm” là thu phục lòng người chiến đấu trên cả lĩnh vực ngoại giao.
Nguyễn Trãi đã có ý thức về tính chiến đấu của văn chương, và đã tự hào rằng
mình biết dùng ngòi bút như một vũ khí. Với những lời lẽ đanh thép,lý luận sắc
bén, lúc mềm mại, lúc cứng cỏi, kiên quyết. Nguyễn Trãi đã giáng cho địch
những đòn tới tấp hên mặt hận tư tưởng. Quân Trung từ mệnh tập xứng đáng tiêu
biểu cho các loại văn chiến đấu của ta ngày trước. Ngoài Quân trung từ mệnh
tập, Nguyễn Trãi còn có các bài văn khác như: Chí linh sơn phú, Bằng Hồ di
thực lục, Truyện Nguyễn Phi Khanh, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục - đây
là một tập sử ký về cuộc khởi nghĩa Lam


Son. Dư địa chỉ là một tác phẩm có giá trị về mặt địa lý, lịch sử và dân tộc học.
*- Cáo
Cáo là một thế loại tác phẩm Văn Học ở thời kì Trung Đại.Trên danh
nghĩa của Lê Lợi sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh của toàn dân tộc ta
vừa kết thúc.Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo.Đây là tiếng ca khải hoàn
đồng thời cũng là bản tuyên ngôn đôc lập thứ hai thể hiện khí thế quân dân ta ở
tầm vóc vũ hụ.
Cáo có nghĩa là thông báo,tuyên bố một việc gì đó,đây là một thể loại
hành chính dùng nhiều trong thuợng thu,đó là các bài công bố của nhà vua truớc
công chúng.Đại cáo là thông báo rộng khắp cho toàn dân nghe.
Bài “Bình Ngô đại cáo”ẫuợc Nguyễn Trãi viết vào tháng 4/1428 thuật lại
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quá trình đánh đuối giặc Minh giành lại độc lập cho
đất nuớc Đại Việt. Bài cáo đuợc coi là áng thiên cổ hùng văn. Có ý nghĩa nhằm

công bố cho mọi nguời biết những chủ truơng chính trọng đại của toàn dân
tộc.Nhu việc xây dựng hòa bình,đánh đuổi giặc ngoại xâm và xây dựng triều
mới. Cáo viết bằng thể văn biền ngẫu số câu chữ không hạn chế,văn phong mang
tính chính luận nên trang trọng sắc bén,lập luận chặt chẽ giàu sức thuyết phục.
Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đuợc viết chủ yếu dựa vào kiểu
văn tứ lục dùng các câu cắt quãng 4,6 chu để nối nhau. Mở đầu bài cáo là tuyên
bố chủ quyền của nuớc ta “Từ Triệu ,Đinh ,Lỷ ,Trần bao đời gây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên mỗi bên hùng cử một phương”.Tiếp theo là
những tội ác của giặc và những chiến công rực rỡ của


quân ta “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,miền Trà Lân trúc chẻ tro bay” với
những lời văn sinh động với những hình tượng sắc và mạnh, Nguyễn Trãi đã kể
lại một cách xúc tích tất cả những sự kiện chính của cuộc kháng chiến đã miêu tả
một cách tinh tế khí thế hào hùng của quân dân ta, cũng như bộ mặt man rợ cùa
sự thất bại thảm hại của giặc Minh. Âm điệu hào hùng của Bình Ngô đại cáo là
âm điệu của thời đại. Giá trị chủ yếu của Bình Ngô đại cáo là phát biểu chủ
nghĩa yêu nước của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo Bình Ngô Đại Cáo mang tính chính luận rất cao vì đó là
lời thông báo với toàn thể dân tộc rằng khởi nghĩa Lam Sơn đã thắng lợi, nước
Đại Việt ta giành được độc lập, Lê Lợi là người xứng đáng làm Vua người đứng
đầu đất nước Đại Việt bấy giờ.
Với tư cách sử dụng từ ngữ và lời văn sắc bén,lập luận chặt chẽ, giàu sức
thuyết phục. Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử văn học Việt Nam một tác phẩm
văn học bất hủ. Đây là một áng thiên cổ hung văn - là bản tuyên bố đôc lập thứ
hai của lịch sử Việt Nam ta.

2.2. Đóng góp về nội dung
Nguyễn Trãi không những là nhân chứng cho những biến động bão táp của lịch
sử thế kỷ XV mà còn là người hực tiếp tham gia vào chính những biến động đó. Ngay

cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy những bão táp, thăng trầm. Vì vậy, thơ ông
thể hiện rõ một vốn sống đã ở độ chín, một suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời đầy phức tạp
và một tình cảm nhân hậu đối với thiên nhiên, con người.
Qua thơ Nguyễn Trãi, ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về con người Nguyễn
Trãi với những khát vọng lớn lao và những tâm tư u uất.
Trong thơ nguyễn Trãi ta thấy được những nội dung chính sau :


Tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu quê hương đất nước , tấm lòng ưu quốc ái dân
sâu nặng.
Một tấm hồn nhạy cảm rộng mở, một chí khí hào hùng, một nhân cách cao
thượng, một trí tuệ uyên bác, luôn tìm hiểu để nắm bắt nhưng quy luật của đời sống nói cách khác là con người cá nhân trong văn chương Nguyễn Trãi.
2.2.1. Tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu quê hương đất nước, tẩm lòng ưu quốc ái
dân sâu nặng
ị- Tư tưởng nhân nghĩa với nhân dân
Nhân và nghĩa vốn là khái niệm cũ của Nho gia.Chữ Nhân của Khổng Tử với
chữ Nghĩa của Mạnh Tử từ lâu đã trở thành những nguyên lý đạo đức và chính trị của
giai cấp phong kiến nhằm củng cố nội bộ và xác định địa vị thống trị của nó đối với
nhân dân. Vì vậy, chữ Nhân và Nghĩa lại được những nhà văn hóa dân tộc Việt Nam ta
từ Trương Hán Siêu, Nguyền Văn Ngạn cho đến Chu An , Phạm Sư Mạnh hiếu theo ý
nghĩa rộng rãi và tích cực , vượt ra khỏi nhận thức và nhãn quan của Nho gia .
Nhân và Nghĩa bao hàm những quan hệ tốt giữa người với người, Nhân và
Nghĩa không phải là những tiêu chuẩn đạo đức chỉ dành cho riêng một thiểu số ưu Việt
và cao quý nào . Từ ý nghĩa rộng rãi và tích cực như vậy , Nguyễn Trãi lại đi xa hơn
nữa là gắn nhân nghĩa với lòng yêu thương nhân dân.
Nhân và Nghĩa là sức mạnh để chiến thắng hung tàn và cường bạo nhưng cũng
lại chính vì thế mà chí nhân, đại nghĩa lại là nền tảng của tư tưởng bao dung độ lượng
đối với kẻ thù đã đầu hàng. Nhân nghĩa vê thực chất chính là chủ nghĩa nhân đạo của
dân tộc ta mà nội dung là coi trọng con người,coi trọng nhân dân,coi



trọng sự nhân ái giữa con người với con người,coi họng sự hòa hiếu giữa các dân tộc.
Nguyễn Trãi đã đế lại cho lịch sử văn học nước nhà một giá trị về tư tưởng thật
quý báu: Việc lớn phải lẩy nhân nghĩa làm đầu, làm đại tướng phải lẩy nhân nghĩa làm
nghĩa làm gốc. Đó là một nguyên lý mà Nguyễn Trãi coi như bất di bất dịch, là một tư
tưởng xuyên suốt trong văn chương của ông .
Ngay mở đầu Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước
lo trừ bạo
Nguyễn Trãi đã gắn chặt nhân nghĩa với yên dân. Tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi là làm sao cho nhân dân được sống trong hòa bình- ấm no-hạnh
phúc. Yên dân là một điều suốt đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong Bình Ngô đại
cáo Nguyễn Trãi đã vạch tội giặc một cách sắc sảo và nghiêm khắc:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dổi
trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh
kết oán trải hai mươi năm Bại nhân
nghĩa ,nát cả đẩt trời Nặng thuế khóa,
sạch không đầm núi...
Nguyễn Trãi đã nhìn rõ những mối tai vạ mà giặc Minh đem lại cho nhân
dân . Đối với Nguyễn Trãi cứu nước trước hết là cứu dân. Mặt khác Nguyễn Trãi
đã nhận thức được vai trò của nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng đất
nước. Ông đã miêu tả nghĩa quân như một đạo quân có nguồn gốc từ nhân dân :


×