Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

Thực hiện công bằng xã hội thông qua các hình thức phân phối ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 185 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------

NGUYỄN THANH ĐẠT

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
THÔNG QUA CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------

NGUYỄN THANH ĐẠT

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
THÔNG QUA CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 92. 29. 002

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


1. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương
2. TS. Nguyễn Đình Hòa

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Lan Hương và TS. Nguyễn
Đình Hoà.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận án đều trung thực và có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018.

Tác giả luận án

Nguyễn Thanh Đạt


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASXH: an sinh xã hội

LLSX: lực lượng sản xuất

BHXH: bảo hiểm xã hội


QHSX: quan hệ sản xuất

BHTN: bảo hiểm thất nghiệp

Sở LĐ,TB&XH: Sở Lao động
Thương binh và Xã hội

BHYT: bảo hiểm y tế
CBXH: công bằng xã hội
CNXH: chủ nghĩa xã hội
CNTB: chủ nghĩa tư bản
HTPP: hình thức phân phối

KTTT: kinh tế thị trường

TLSX: tư liệu sản xuất
TPKT: thành phần kinh tế

UBND: uỷ ban nhân dân


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................. 6
1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về công bằng xã hội và các hình thức
phân phối ......................................................................................................... 6
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện công bằng xã hội

thông qua các hình thức phân phối ở nước ta nói chung và TP. Hồ Chí Minh
nói riêng......................................................................................................... 14
1.3. Các công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công
bằng xã hội thông qua các hình thức phân phối ở nước ta nói chung và TP. Hồ
Chí Minh nói riêng. ....................................................................................... 22
1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...... 30
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG BẰNG XÃ

HỘI VÀ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI THÔNG QUA CÁC HÌNH
THỨC PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................32
2.1. Công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.32
2.2. Phân phối và các hình thức phân phối ở Việt Nam hiện nay .................. 38
2.3. Quan hệ giữa thực hiện công bằng xã hội và các hình thức phân phối

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay ......................................................................................................................50
Kết luận chương 2 ............................................................................................ 59


Chương 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI THÔNG QUA CÁC
HÌNH THỨC PHÂN PHỐI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN
NAY: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN .......................................... 61
3.1. Thực hiện công bằng xã hội thông qua các hình thức phân phối ở TP. Hồ
Chí Minh hiện nay: Thành tựu và nguyên nhân............................................ 63
3.1.1. Những thành tựu trong thực hiện công bằng xã hội thông qua các hình
thức phân phối ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay ................................................ 63
3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu ..................................................... 81
3.2. Thực hiện công bằng xã hội thông qua các hình thức phân phối ở TP. Hồ
Chí Minh hiện nay: Hạn chế và nguyên nhân ............................................... 85
3.2.1. Những hạn chế trong thực hiện công bằng xã hội thông qua các hình

thức phân phối ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay ................................................ 85
3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế ...................................................... 101
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 105
Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI THÔNG
QUA CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY ................................................................................................. 107
4.1. Phương hướng nhằm thực hiện tốt hơn công bằng xã hội thông qua các
hình thức phân phối ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ........................... 107
4.2. Những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn công bằng xã hội thông
qua các hình thức phân phối ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay......................... 115
4.2.1. Các giải pháp về hoàn thiện chính sách phân phối trong từng hình thức
phân phối .................................................................................................... 115


4.2.2. Các giải pháp về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện
các chính sách phân phối ............................................................................ 128
4.2.3. Các giải pháp về sự hỗ trợ của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và
nâng cao nhận thức của người dân............................................................. 144
Kết luận chương 4 .......................................................................................... 150

KẾT LUẬN ................................................................................................ 152
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ........................................... 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 155
PHỤ LỤC ................................................................................................... 168


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề CBXH và thực hiện CBXH đã được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử

nhân loại. Thực hiện CBXH đến nay vẫn là một yêu cầu bức thiết và là đòi hỏi
thường xuyên trước sự vận động của xã hội. Bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa
và kinh tế tri thức, vấn đề thực hiện CBXH đang đặt ra thách thức to lớn đối
với mỗi quốc gia và cũng là một trong những động lực cơ bản của các mục tiêu
phát triển bền vững xã hội. Vì thế, khi tình trạng mất công bằng đang ở mức
báo động như hiện nay ở mỗi quốc gia, thì việc xem xét lại vấn đề công bằng
với tư cách một trong các giá trị cốt lõi của bảng giá trị xã hội cũng như các chỉ
số phát triển xã hội là hết sức quan trọng.
Ở Việt Nam, trong những năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
hướng đến mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng và văn minh”. Có thể nói CBXH đã thực sự trở thành mục tiêu xuyên
suốt và là định hướng cơ bản trong các chính sách xã hội của Đảng. Quán triệt
mục tiêu đó, thông qua các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng ta luôn nhấn
mạnh tầm quan trọng và vai trò của vấn đề CBXH. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ cần “tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ
và CBXH” [37, tr.321]. Tuy nhiên, với thực tiễn xây dựng đất nước hiện nay,
để đảm bảo tốt CBXH là một nhiệm vụ khó khăn và đầy thách thức. Vấn đề
thực hiện CBXH thông qua các HTPP cũng đặt ra yêu cầu phải nhận thức cả
về lý luận và thực tiễn. Chế độ tập trung bao cấp vừa bình quân, vừa độc
quyền đã để lại nhiều bất cập trong các HTPP hiện nay. Mặt khác, cùng với
sự xuất hiện những mâu thuẫn mới rất phức tạp, đặc biệt là trong phân phối
thu nhập quốc dân và phân phối thu nhập cá nhân khiến phân phối đang trở
thành một trong những vấn đề nhạy cảm nhất trong đời sống kinh tế - xã hội.
Do đó, tiếp tục “đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu
nhập… khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân
1


phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay” [37, tr.324] để đảm bảo
CBXH đã và đang trở thành yêu cầu cấp thiết đồng thời là mối quan tâm của

toàn xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục nhấn
mạnh: “Nhà nước sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, chính
sách phân phối và phân phối lại để phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến
bộ và công bằng xã hội” [38, tr.269]. Để thực hiện yêu cầu ấy, vấn đề đặt ra là
cần phải làm rõ được tác động của các HTPP đối với sự phát triển kinh tế; lựa
chọn được cơ chế phân phối thích hợp, điều hòa giữa phân phối theo lao động
với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tìm ra sự thống nhất giữa phân
phối và CBXH… Đây cũng là đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn và cũng là nhiệm
vụ quan trọng trong việc xây dựng lý luận về phân phối để chỉ dẫn, lựa chọn
các HTPP phù hợp nhằm đảm bảo CBXH.
TP. Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ
của phía Nam và cả nước. Đặc biệt, đây là nơi có hoạt động kinh tế năng
động với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ và sự chỉ đạo của chính quyền thành phố, trong những năm qua
thành phố đã đạt được những thành tựu nổi bật về mọi mặt. Tuy nhiên, để
tiếp tục xây dựng và phát triển thành phố trong những năm tới đạt được mục
tiêu “gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [32, tr.186], thì vẫn còn nhiều vấn đề
cần phải giải quyết, nhất là vấn đề phân phối nhằm đảm bảo CBXH. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, tình trạng mất công bằng ở thành
phố đang trở nên đáng lo ngại với các biểu hiện như sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội ngày càng sâu sắc; sự mất cân đối trong quan hệ phân phối giữa
các thành phần kinh tế còn tồn tại; đối tượng người yếu thế còn đông; tình
trạng thất nghiệp, thiếu công ăn việc làm của người lao động cao hơn so với
cả nước; khoảng cách thu nhập giữa những người lao động, giữa các quận,
huyện vẫn chưa được thu hẹp; các chính sách ASXH chưa phát huy hết hiệu

2



quả, v.v.. thì sức ép phải tìm kiếm các giải pháp thiết thực để đảm bảo
CBXH một cách hiệu quả trên địa bàn thành phố đang trở nên bức bách. Có
thể khẳng định rằng, giải quyết vấn đề phân phối hiện nay được xem là một
giải pháp cơ bản, nó không chỉ góp phần thực hiện CBXH mà còn tạo ra
động lực để phát triển thành phố và giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng bộ thành phố trong thời gian tới.
Như vậy, xét cả từ phương diện lý luận lẫn thực tiễn, việc thực hiện
CBXH thông qua các HTPP đã trở thành yêu cầu cấp thiết đối với sự phát
triển bền vững TP. Hồ Chí Minh hiện nay. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh đã
chọn vấn đề “Thực hiện CBXH thông qua các HTPP ở TP. Hồ Chí Minh hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận chung về thực hiện CBXH
thông qua các HTPP tại Việt Nam, đồng thời phân tích thực trạng thực hiện
CBXH thông qua các HTPP ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay. Luận án đề xuất một
số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện CBXH thông
qua các HTPP ở TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được các mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
1. Làm rõ một số vấn đề chung về thực hiện CBXH thông qua các HTPP
ở Việt Nam hiện nay.
2. Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện CBXH thông qua các
HTPP ở TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân.
3. Luận giải và đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc thực hiện CBXH thông qua các HTPP ở TP. Hồ Chí Minh trong

3



thời gian tới.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CBXH và
thực hiện CBXH thông qua các HTPP. Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả
nghiên cứu trong công trình của các tác giả đi trước về những vấn đề có liên
quan đến đề tài.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được triển khai dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật.
Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp cụ thể, như phương pháp
lôgíc - lịch sử, hệ thống – cấu trúc, phân tích – tổng hợp, so sánh, thu thập số
liệu, phân tích thống kê...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu việc thực hiện CBXH thông qua các HTPP
ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung phân tích, đánh giá thực hiện CBXH thông qua các
HTPP trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa lý luận
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ tầm quan trọng của lý luận CBXH và
thực hiện CBXH thông qua các HTPP tại Việt Nam trong bối cảnh xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống việc thực hiện
CBXH thông qua các HTPP tại TP. Hồ Chí Minh, luận án còn có ý nghĩa góp
phần cung cấp những luận cứ thực tiễn, từ đó làm sâu sắc thêm lý luận về


4


thực hiện CBXH thông qua các HTPP tại Việt Nam.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thứ nhất, luận án là cơ sở Uỷ ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh tham
khảo trong thực hiện các HTPP nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng xã hội
công bằng hơn.
Thứ hai, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy và học tập cho những ai quan tâm đến vấn đề thực hiện CBXH
thông qua các HTPP ở Việt Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
6. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, trên cơ sở phân tích, đánh giá và chỉ ra những thành tựu, hạn
chế và những vấn đề đặt ra trong thực hiện CBXH thông qua các HTPP ở TP.
Hồ Chí Minh, luận án góp phần cung cấp các luận cứ, luận chứng khoa học
làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế, xã hội nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện CBXH qua các HTPP của thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ hai, luận án cũng đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả thực hiện CBXH thông qua các HTPP ở TP. Hồ Chí Minh trong hiện
tại và trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận án
Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục gồm 4 chương với 11 tiết.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Nghiên cứu vấn đề CBXH và thực hiện CBXH thông qua các HTPP đã
có rất nhiều công trình của các tác giả trong và ngoài nước. Các công trình
nghiên cứu được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận và thực
tiễn. Liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án, chúng tôi trình bày tổng
quan các công trình nghiên cứu gồm các nhóm sau :
1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về công bằng xã hội và các
hình thức phân phối
Lý luận về CBXH và các HTPP đã được trình bày trong nhiều công trình
của các tác giả nước ngoài và trong nước.
Trong công trình Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, Lý Bân đã lý giải một cách khách quan sự
hình thành lý luận và thực tiễn phân phối xã hội chủ nghĩa, đồng thời làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn mới nảy sinh trong quá trình cải cách kinh tế
của các nước đang phát triển trong lĩnh vực phân phối. Công trình này trình bày
một cách hệ thống lý luận về cơ sở và đặc trưng của phân phối, trong đó quan
hệ phân phối được xem như là mắt xích trung gian của quá trình tái sản xuất, có
mối quan hệ với nhiều yếu tố kinh tế, từ đó tác giả nêu rõ các đặc điểm cơ bản
của phân phối xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích vĩ mô về thu nhập quốc
dân và phân tích vi mô phân phối thu nhập cá nhân, công trình cũng làm rõ cơ
sở lý luận về cơ cấu, cơ chế và chính sách điều tiết phân phối thu nhập quốc
dân và thu nhập cá nhân. Công trình nhấn mạnh hệ thống lý luận về lượng lao
động trong quan hệ phân phối theo lao động thông qua chế độ tiền lương. Lý
luận về phân phối thu nhập cá nhân cũng chỉ dẫn cần có sự đa dạng hóa HTPP
thu nhập cá nhân. Đây là công trình có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,

6


được tác giả trình bày thông qua kiểm chứng thực tiễn hơn 70 năm của các

nước XHCN và hơn 40 năm xây dựng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chính vì vậy, công trình này là tài liệu tham khảo quan trọng để nghiên cứu
sinh tiếp cận, triển khai giải quyết những vấn đề liên quan đến đề tài.
Từ góc độ kinh tế học, phải kể đến quan điểm về công bằng của Max
Otto Lorentz và Corrado Gini. Hai tác giả này trong các công trình của mình
đã xây dựng các thước đo CBXH. Trong đó, đường cong Lorentz là biểu đồ
biểu thị mối quan hệ tỷ lệ giữa phần trăm dân số và tỷ lệ phần trăm trong tổng
thu nhập nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, do đó đồ thị biểu
hiện mức độ bất bình đẳng trong thu nhập. Dựa trên cơ sở đó có thể xác định
tỷ lệ cụ thể mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cần xác định
thông qua hệ số Gini. Như vậy hệ số Gini ngoài việc được sử dụng như một
công cụ để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư, còn được dùng để biểu thị mức độ chênh lệch giàu nghèo.
Các nhà kinh tế theo quan điểm Lorentz cho rằng không có công bằng tuyệt
đối, do đó để duy trì sự công bằng thì nhà nước phải can thiệp vào đời sống
của người dân thông qua các công cụ thuế và tái phân chia tài nguyên sao cho
đồng đều giữa các tầng lớp dân cư. Chính vì cho rằng không có công bằng
tuyệt đối nên quan điểm của các nhà kinh tế thuộc trường phái này cũng
không giải quyết được vấn đề chênh lệch thu nhập thế nào là công bằng. Còn
hệ số Gini thì chỉ mới phản ánh được mặt tổng quát nhất của sự phân phối thu
nhập. Trong những trường hợp cụ thể nó không đánh giá được mức độ bất
bình đẳng của các nhóm dân cư. Chính vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào các công cụ
đo lường này sẽ khó khăn trong việc đưa ra các tiêu chí công bằng và vì vậy,
dẫn đến gặp khó khăn trong việc định hướng các chính sách phát triển xã hội.
Nhà kinh tế học Stiglitz với công trình Kinh tế học công cộng (Nxb Khoa
học và kỹ thuật, Hà Nội, 1995) cho rằng, mọi người thường có những nhìn nhận
mâu thuẫn về thế nào là công bằng, trong đó điểm chủ yếu là sự đánh đổi giữa

7



công bằng và hiệu quả của sự phát triển. Công trình cũng chỉ ra độ hữu dụng cận
biên là cơ sở lý luận quan trọng để kết luận và đánh thuế thu nhập lũy tiến đối
với các nhóm có thu nhập cao hơn nhằm trợ cấp cho các nhóm thu nhập thấp
hơn. Theo đó, độ hữu dụng cận biên thu nhập của người giàu thấp hơn nhiều so
với độ cận biên thu nhập của người nghèo. Vì vậy, cần có các chính sách để các
cá nhân có mức thu nhập càng xa ranh giới của mức tiêu dùng tối thiểu (giàu
hơn) để mức độ co giãn của độ hữu dụng cận biên có thể nhỏ nhất. Stiglitz cũng
lưu ý rằng các chương trình trợ cấp thực hiện thông qua các phương thức tạo ra
các tác động thay thế sẽ hiệu quả hơn là chỉ tạo ra các tác động thu nhập đơn
thuần bằng cách trợ cấp trực tiếp bằng tiền. Với quan điểm trên, công trình cũng
đã chỉ ra được mâu thuẫn cơ bản giữa thực hiện CBXH và hiệu quả phát triển
kinh tế, định hướng giải quyết mối quan hệ này thông qua mức độ hữu dụng cận
biên. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa CBXH và
phát triển kinh tế mà định hướng này không thể giải quyết được.
Công trình Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong điều
kiện nước ta hiện nay, Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2009. Từ góc độ triết học các tác giả đã phân tích, phê phán, kế
thừa có chọn lọc quan niệm về CBXH của các tác giả trong và ngoài nước từ
cổ đại đến cận hiện đại và kinh nghiệm thực tiễn thực hiện CBXH ở một số
nước trên thế giới; từ đó đưa ra quan niệm về CBXH, rút ra những bài học cần
thiết và thiết thực cho việc thực hiện CBXH ở Việt Nam, đồng thời đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và ý thức của người dân về CBXH, đóng
góp căn cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách xã hội về thực hiện
CBXH phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay. Công trình này đã nghiên
cứu một cách tương đối đầy đủ, khái quát và có hệ thống khía cạnh lý luận
của CBXH qua khảo cứu các công trình ở cả phương Đông và phương Tây.
Trong đó, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin được xem xét trong mối

8



tương quan mật thiết với quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về CBXH và thực hiện CBXH.
Trong công trình Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã
hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, do Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn,
Trần Văn Đoàn, Ulrich Dornberg (chủ biên), vấn đề CBXH là nội dung cơ bản
được tiếp cận cả về lý luận và thực tiễn với những quan điểm khác nhau. Các
tác giả đã chỉ rõ CBXH là một trong những mục tiêu và động lực phát triển đất
nước. Công trình đã cho thấy thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một yêu cầu bức thiết và cũng là một
đòi hỏi thường xuyên. Chính vì vậy, nhiều bài viết đã đưa ra những quan điểm,
giải pháp có giá trị thiết thực nhằm gợi mở cho các chính sách phát triển xã hội
bền vững. Đặc biệt, bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh
việc thực hiện CBXH ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Hữu Tầng đã chỉ ra
nhiều quan điểm khác nhau về CBXH, tuy nhiên khái niệm CBXH không phải
là khái niệm bất di bất dịch, nó mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Tác giả cho rằng thực hiện CBXH là yêu cầu hàng đầu ở
nước ta hiện nay, đồng thời nhấn mạnh cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo
lao động và theo mức đóng góp vốn vào sản xuất kinh doanh hiện nay thành
nguyên tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng những
cống hiến khác) cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất, mặc dù
cống hiến cho sản xuất vẫn là chủ yếu.
Cũng trong công trình trên, tác giả Trần Văn Đoàn với bài viết “Nhận
thức lại sự phê phán của C.Mác về công bằng trong phân phối”, đã khẳng
định sự phê phán của C.Mác về công bằng trong phân phối không có nghĩa là
đòi hỏi thủ tiêu công bằng nói chung. Ngược lại, C.Mác chú trọng nhiều hơn
tới việc tái cấu trúc công bằng trong phân phối một cách hợp lý cho tất cả mọi
thành viên trong cộng đồng. Tác giả cũng ủng hộ quan điểm của C.Mác khi lý
giải cho sự phân phối hợp lý hơn dựa trên nhu cầu của con người thay vì dựa


9


vào tư bản, vào sản xuất (hàng hóa) hay dựa trên các nguồn phân phối. Trên cơ
sở đó, tác giả đưa ra quan điểm phân phối một cách công bằng dẫn tới công
bằng trong phân phối phải đáp ứng được các nguyên tắc: Thứ nhất, công bằng
không thể là một phương diện thuần túy, nó phải phản ánh trạng thái thực của
cuộc sống; thứ hai, với tư cách là một phương tiện, công bằng trong phân phối
chỉ có thể là công bằng nếu nó không mâu thuẫn với mục đích cuối cùng, do
vậy nó phải thích hợp với toàn bộ hoạt động của con người; thứ ba, một sự
phân phối không thiên vị không thể bị giới hạn trong bất kỳ một phạm trù phân
phối nào, mang tính định tính hay định lượng. Các nguyên tắc này cho thấy
quan hệ phân phối ở đây được hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, thể hiện ở sự
phân phối toàn diện cuộc sống và hướng đến đích cuối cùng là toàn bộ nhu cầu
của con người. Lý luận này phù hợp với mục đích và lý tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Tuy nhiên, để thực hiện mô hình lý luận này cần được thể
nghiệm và hoạch định chiến lược trong một tương lai xa.
Tác giả Phạm Xuân Nam trong bài “Vấn đề thực hiện công bằng xã
hội”, Tạp chí Xã hội học, số 2 (98), 2007, đã trình bày nhiều quan niệm khác
nhau về thực hiện CBXH và chỉ ra nhiều hình thức CBXH được thực hiện
tương thích với những quan niệm khác nhau ấy. Lý luận về CBXH và hình
thức thực hiện CBXH tiêu biểu đã được làm sáng tỏ ở các nước khác nhau
trong lịch sử. Cụ thể là các hình thức CBXH trong mô hình kinh tế thị trường
xã hội, các hình thức được xem là CBXH trong mô hình kinh tế thị trường tự
do, các hình thức CBXH trong mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị
trường. Tác giả cũng nhấn mạnh công bằng về kinh tế vẫn được xem là yếu tố
cốt lõi của CBXH trong những thập kỷ gần đây. Vấn đề CBXH trong các lĩnh
vực khác tuy có đề cập đến ở những mức độ khác nhau nhưng chưa được đi
sâu phân tích thỏa đáng.

Trong bài viết “Công bằng xã hội và bình đẳng xã hội”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 4, 2014, tác giả Nguyễn Đình Tấn cho rằng CBXH và bình đẳng

10


xã hội là những khái niệm cơ bản của tất cả các khoa học xã hội. Trong khi
phân biệt giữa CBXH và bình đẳng xã hội, tác giả cho rằng CBXH được hiểu
là sự phù hợp giữa năng lực thực tiễn của người ta với địa vị xã hội mà họ có,
giữa nghĩa vụ và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ, sự hy sinh, đóng góp
và sự đền đáp, công lao và sự thừa nhận, giữa làm và hưởng, lao động và trả
công, giữa tội ác và sự trừng phạt. Như vậy, tác giả khẳng định CBXH không
phải là cào bằng, cũng không phải bất cứ sự cào bằng nào.
Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với bài viết “Thực hiện công bằng xã
hội giữa các thành phần kinh tế - nhìn từ góc độ lý luận”, Tạp chí Triết học,
số 7, 2014. Để xác lập lý luận về CBXH giữa các TPKT, tác giả cho rằng
điểm chung nhất của quan niệm CBXH đó là quan niệm về phân phối công
bằng. Còn thế nào là phân phối công bằng thì mỗi thời đại lại có quan niệm
khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, ý thức hệ của từng giai cấp trong
xã hội và cả quyền lực kinh tế - chính trị của mỗi nhóm xã hội, nhưng cốt lõi
của CBXH luôn là vấn đề phân phối. Theo đó, thực chất của việc thực hiện
CBXH đối với các TPKT sẽ phải giải quyết hai vấn đề chủ yếu là thực hiện
bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các TPKT và thực hiện phân phối công
bằng giữa các TPKT. Theo tác giả, để thực hiện công bằng trong phân phối,
các chủ thể kinh tế phải được bình đẳng về quyền khi tiếp cận các nguồn lực
(không chỉ là các nguồn lực từ thiên nhiên mà còn là các nguồn lực từ xã hội
như lao động, khoa học - công nghệ…); mặt khác, nhà nước với chức năng
điều tiết phải phân phối (dưới dạng phân bổ) các nguồn lực (với tư cách các
loại vốn (nguồn vốn): Đất đai, tài nguyên, tiền, cơ sở hạ tầng…) một cách
công bằng. Tác giả cho rằng, ở Việt Nam nguyên tắc tương xứng giữa cống

hiến và thụ hưởng là phù hợp hơn cả trong việc thực hiện CBXH đối với các
TPKT. Nguyên tắc phân phối này dựa trên sự tương xứng giữa cống hiến và
thụ hưởng của các TPKT. Cống hiến ngang nhau thì thụ hưởng ngang nhau.
Chính phân phối công bằng sẽ góp phần thúc đẩy bình đẳng về cơ hội ngày

11


càng toàn diện hơn. Thực hiện phân phối công bằng đối với các TPKT không
chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp giải phóng sức lao động, khơi
dậy tiềm năng kinh tế của mọi thành phần kinh tế/chủ thể kinh tế, và tác động
tích cực trở lại bình đẳng xã hội nói chung và bình đẳng cơ hội nói riêng.
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn, trong công trình Công bằng xã hội trong
tiến bộ xã hội (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), đã trình bày sâu sắc
nội dung lý luận về CBXH và quan điểm thực hiện CBXH của Đảng ta. Tác
giả cũng đặt vấn đề CBXH và tiến bộ xã hội trong mối quan hệ tương tác lẫn
nhau; xem thực hiện CBXH là một trong những giải pháp góp phần cho việc
hoạch định các chính sách thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Công trình cũng gợi ý một số vấn đề đặt ra trong
việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay, như thái độ ứng xử của chúng ta
trước thực trạng gia tăng phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng; vấn đề CBXH
trong phân phối tư liệu sản xuất cũng như trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức
khỏe nhân dân; trong giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay.
Tác giả Ngô Thị Mỹ Dung với bài viết “Khái niệm công bằng xã hội
trong triết học pháp quyền Arthur Kaufmann” Tạp chí Khoa học xã hội, Viện
Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, số 5, 2014. Tác giả trình bày khái niệm công
bằng theo quan điểm của nhà triết học Đức Arthur Kaufmann. Theo đó, công
bằng được hiểu theo nghĩa rộng có ba khía cạnh: Sự bình đẳng, sự phù hợp
với mục đích và sự bảo đảm an toàn pháp lý. Trong đó bình đẳng là khía cạnh
hình thức của công bằng, sự phù hợp với mục đích là nội dung của công bằng

và sự bảo đảm an toàn pháp lý là chức năng của công bằng. Triết gia này cũng
lưu ý rằng khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể về nội dung của CBXH,
bởi cái cốt lõi nhất hay giá trị tối cao được hiểu khá khác nhau. Tuy nhiên, có
thể hiểu CBXH là sự kết hợp của công bằng về cơ hội, công bằng trong việc
phân chia phúc lợi xã hội cũng như cùng nhau chia sẻ gánh nặng, đảm bảo
quyền cơ bản của mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở khái niệm công

12


bằng của Kaufmann, tác giả bài viết cho rằng khó có thể thực hiện công bằng
được trên thực tế, nhưng nó đã thể hiện tính nhân văn sâu sắc bởi nó khẳng
định con người vừa là một thực thể tự quyết, vừa là mục đích của pháp luật và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Các tác giả Vũ Chương và Phạm Văn Vận trong Giáo trình kinh tế công
cộng, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2014, đã trình bày vấn đề
CBXH trong phân phối thu nhập dựa trên sự phân tích các lý luận về mức độ
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Một trong những đóng góp có ý nghĩa
lý luận về thực hiện CBXH trong phân phối thu nhập là các tác giả đã đưa ra
các nhóm nguyên nhân cơ bản của bất bình đẳng trong thu nhập là từ tài sản và
từ lao động. Đối với bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản được
xem xét trên cơ sở quan hệ kế thừa tài sản, do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm,
do kết quả kinh doanh; đối với bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao
động dựa trên các nguyên nhân từ sự khác nhau về khả năng và kỹ năng lao
động, về cường độ làm việc, tính chất công việc và các nguyên nhân khác.
Công trình cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước
nhằm đảm bảo CBXH, tuy nhiên việc phân phối lại như thế nào để có thể giảm
bất bình đẳng lại phụ thuộc vào quan niệm xã hội về phân phối thu nhập.
Hội thảo khoa học quốc tế Tư tưởng của C.Mác về công bằng phân phối và
ý nghĩa hiện thời của nó, do Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội

Việt Nam phối hợp với Viện FES và Quỹ Rosa Luxemburg (Cộng hoà Liên
bang Đức) tổ chức tại Ban Mê Thuộc tháng 05, 2017. Các nhà khoa học tham
gia Hội thảo đã góp phần luận giải tư tưởng khoa học của C.Mác về công bằng
phân phối, làm sáng tỏ giá trị hiện thời của nó đối với nhân loại nói chung và các
quốc gia nói riêng. Đối với Việt Nam, từ lý luận về CBXH của C.Mác, nhiều bài
viết đã phân tích sâu sắc các chính sách phân phối nhằm thực hiện CBXH. Ngoài
ra, qua đánh giá thực trạng thực hiện nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay,

13


các tác giả đã khuyến nghị nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
phân phối hướng đến mục tiêu CBXH.
Ngoài ra, còn có các bài viết khác liên quan đến vấn đề lý luận về CBXH
như: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng với tư cách là thước đo
trình độ giải phóng con người” (Nguyễn Minh Hoàn, Tạp chí Triết học, số 5,
2007); “Quá trình nhận thức của Đảng về CBXH” (Nguyễn Xuân Phong, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 4, 2008), v.v..
Các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy sự đa dạng về cách đặt vấn
đề và tiếp cận CBXH và các HTPP. Trong một chừng mực nhất định, các
công trình đó đã đưa ra quan niệm quan trọng về CBXH dựa trên quan hệ sở
hữu, quan hệ về các nguồn lực vật chất của xã hội và thậm chí là quan hệ về
văn hóa… Trong đó, mỗi công trình đã lần lượt trình bày các tiêu chí và thước
đo việc thực hiện CBXH thông qua các HTPP; xem các HTPP như là công cụ
quan trọng để thực hiện CBXH. Mỗi công trình, hệ thống lý luận CBXH được
đề xuất khác nhau vừa mang tính lý luận chung, vừa mang tính định hướng
dựa trên từng thời điểm lịch sử cụ thể. Tuy vẫn còn nhiều vấn đề lý luận
CBXH thông qua các HTPP đang đặt ra cần tiếp tục luận giải, nhưng các công
trình trên đã cho thấy cái nhìn tổng quát về lý luận CBXH thông qua các
HTPP trên thế giới. Vì vậy, những công trình trên là cơ sở lý luận quan trọng

để tác giả luận án kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài thực hiện CBXH ở
Việt Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng thông qua các HTPP.
1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện CBXH thông
qua các HTPP ở nước ta nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng
Nghiên cứu vấn đề thực trạng thực hiện CBXH thông qua các HTPP
được nhiều tác giả phân tích, đánh giá trên nhiều phương diện khác nhau: Đối
với các TPKT, thu nhập cá nhân, mức độ phân tầng xã hội, hiệu quả các chính
sách phân phối, v.v...

14


Tác giả Nguyễn Ngọc Hà với bài viết “Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới về nguyên tắc phân phối vì mục tiêu công
bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, số 12, 2011. Trong công trình này, tác giả đã
phân tích, làm rõ sự phát triển trong quan điểm của Đảng ta về nguyên tắc
phân phối vì mục tiêu CBXH thời kỳ đổi mới. Đối với nguyên tắc phân phối
nêu trong Đại hội XI, tác giả chỉ ra thực chất của nguyên tắc này là căn cứ vào
sự cống hiến về lao động và sự cống hiến về vốn, trong đó phân phối theo lao
động là chủ yếu. Đóng góp của công trình này là đã luận giải một cách cụ thể
HTPP theo lao động và theo vốn được thể hiện ra trong tổng giá trị xã hội, sự
phân chia giá trị đó ở những thành phần nào trong quá trình cống hiến và
hưởng thụ. Cho rằng nguyên tắc phân phối được chỉ ra trong Đại hội XI đã
thể hiện sự đổi mới dứt khoát và quan trọng tư duy về nguyên tắc phân phối
vì mục tiêu CBXH, công trình nhấn mạnh nếu thực hiện đúng nguyên tắc
phân phối này thì chúng ta có thể đạt được mục tiêu CBXH ngay trong giai
đoạn mà đất nước còn nghèo như hiện nay.
Công trình “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội”, của tác
giả Hoàng Đức Thân – Đinh Quang Ty (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2010. Công trình trình bày mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với

CBXH cả về lý luận lẫn thực tiễn của quốc tế và Việt Nam. Đặc biệt, khi làm
rõ sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và CBXH các tác giả đã
khẳng định tiến bộ, CBXH được Đảng và Nhà nước coi là mục tiêu phấn đấu,
là nhân tố ổn định xã hội. Công trình dựa trên số liệu thống kê từ tỷ trọng GDP,
hệ số GINI về bất bình đẳng thu nhập, tỷ lệ lao động thất nghiệp đã chỉ ra thực
trạng và đánh giá những tác động tích cực và hạn chế của việc thực hiện các
chính sách nhằm gắn kết tăng trưởng với tạo việc làm và thu nhập, tái phân
phối thu nhập. Công trình đã cho thấy tính tổng thể về thực trạng gắn kết tăng
trưởng kinh tế với CBXH trong từng lĩnh vực cụ thể về thu nhập, việc làm, xóa
đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, bất bình đẳng, phân tầng xã hội giữa các vùng

15


miền, v.v.. Những kết quả mà công trình này đạt được là cơ sở để luận án tiếp
tục luận chứng làm rõ vấn đề thực hiện CBXH thông qua các HTPP.
Tác giả Nguyễn Trọng Thản có bài viết “CBXH dưới sự tác động của
công cụ thuế”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Những vấn đề lý luận chung về thực
hiện CBXH, Viện Triết học, 2014. Tác giả cho rằng, về bản chất, thuế là quan
hệ phân phối thu nhập và thuế được sử dụng như là công cụ huy động nguồn tài
chính cho Nhà nước. Tính công bằng của thuế được hiểu trên hai giác độ: Công
bằng theo nguyên lý về lợi ích và công bằng theo khả năng nộp thuế. Liên hệ
chính sách thuế ở Việt Nam nhằm hướng đến thực hiện CBXH, tác giả dựa trên
thực trạng về cơ cấu thuế, phân tích số liệu thống kê đối với các TPKT và các
cá nhân trong xã hội đã chỉ rõ vẫn còn nhiều hạn chế trong bộ công cụ này. Vì
vậy, để đảm bảo công bằng cho các đối tượng trong xã hội, làn sóng cải cách
về chính sách thuế và quản lý thuế đã và đang được tiến hành. Công trình đã
nhận thức đúng bản chất của thuế và tác động của chúng đến CBXH, với ý
nghĩa đó sẽ là gợi ý cho Chính phủ xây dựng một hệ thống thuế công bằng và
hiệu quả, từ đó góp phần thực hiện CBXH nói chung.

Tác giả Nguyễn Minh Hoàn với bài viết “Quan điểm của Đảng về phân
phối công bằng tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 2, 2014. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin về lý luận phân
phối, công trình đã lý giải vấn đề CBXH trong phân phối TLSX từ toàn bộ
quan điểm của Đảng. Tác giả cho thấy vấn đề CBXH trong quan hệ phân phối
TLSX được Đảng nêu ra và vận dụng vào thực tiễn không chỉ tiếp tục củng cố
sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển LLSX, mà quan hệ phân phối
TLSX phù hợp đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của LLSX ở
nước ta kể từ đổi mới đến nay. Tác giả cũng nhấn mạnh việc Nhà nước đã và
đang tạo mọi điều kiện thuận lợi để tất cả các chủ thể đều có quyền ngang nhau
cùng được tiếp cận với nguồn vốn, TLSX và những điều kiện sản xuất kinh
doanh nói chung dưới nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với khả năng phát

16


triển sản xuất kinh doanh của mỗi chủ thể kinh tế là một trong những định
hướng quan trọng để thực hiện CBXH.
Trong bài viết “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Triết học, số 2, 2008, tác giả Phạm Xuân
Nam đã luận giải các vấn đề về việc giải quyết mối quan hệ giữa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH trong một số mô hình kinh tế tiêu
biểu trên thế giới, như mô hình kinh tế thị trường tự do, mô hình kinh tế thị
trường xã hội, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị trường. Công
trình này cũng trình bày những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong việc
kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH trong nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới, đồng thời cụ thể hóa quan điểm
và đề xuất các giải pháp thực hiện CBXH trong nền KTTT ở Việt Nam trong
những năm tiếp theo.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực hiện Công bằng xã hội đối với

các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, Viện Triết học, Hà Nội, 2014.
Công trình này nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn một cách toàn
diện về vấn đề thực hiện CBXH đối với các TPKT. Qua đó, góp phần cung
cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc thực hiện CBXH đối với các TPKT ở
Việt Nam hiện nay. Các tác giả cho rằng, thực chất của thực hiện CBXH đối với
các TPKT là thực hiện hài hòa lợi ích giữa các TPKT nói chung và các chủ thể
kinh tế nói riêng thông qua hệ thống các chính sách và các cơ chế, hiện thực hóa
các chính sách kinh tế - xã hội với các nội dung chính là đảm bảo sự bình đẳng
về quyền tiếp cận các nguồn lực, quyền tham gia vào hoạt động kinh tế và quyền
được chia sẻ (được phân phối công bằng) các thành quả của phát triển giữa các
TPKT, từ đó tạo động lực cho phát triển, góp phần ổn định xã hội. Trên cơ sở đó,
công trình tập trung phân tích, tìm hiểu thực trạng thực hiện CBXH đối với các
TPKT của Việt Nam trong những năm qua (từ đổi mới đến nay) nhằm tìm ra
nguyên nhân của những thành tựu cũng như hạn chế trong thực hiện CBXH đối

17


với các TPKT. Điểm nổi bậc là công trình đã chỉ ra những hạn chế, thiếu sót
trong thực hiện CBXH đối với các TPKT cả trong nhận thức và hành động;
đồng thời, xác định những nguyên nhân của những hạn chế đó nhằm cung cấp
những luận cứ cho việc đề xuất các giải pháp thực hiện CBXH đối với các
TPKT của Việt Nam từ tầng lý luận. Công trình này có ý nghĩa quan trọng đối
với việc định hướng các chính sách đối với các TPKT ở nước ta hiện nay.
Trong công trình Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện CBXH trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính tri quốc gia, Hà
Nội, 2012, tác giả Võ Thị Hoa đã phân tích lý luận về CBXH và tính tất yếu
của việc thừa nhận vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện CBXH. Tác giả
cũng làm rõ bản chất và tính tất yếu của Nhà nước ta với tư cách là công cụ
thực hiện CBXH trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN hiện nay. Tác

giả đã chỉ ra những kết quả đạt được và những yếu kém trong phát huy vai trò
của Nhà nước đối với việc thực hiện CBXH ở nước ta trong các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Riêng trong lĩnh vực kinh tế, tác giả đã chỉ rõ
những hạn chế trong điều tiết và phân phối thu nhập, chưa giải quyết hài hòa
các lợi ích. Tác giả cho rằng, việc điều tiết thu nhập còn chưa đủ mạnh, việc
phân phối còn nhiều bất công bằng giữa các giai tầng xã hội. Việc đánh giá
những hạn chế trên trong phân phối thu nhập là cơ sở quan trọng để công trình
đề ra nhiều biện pháp thiết thực nhằm hoàn thiện năng lực, vai trò của Nhà
nước đối với việc thực hiện CBXH.
Tác giả Nguyễn Hồng Sơn với bài viết “Thực hiện tư tưởng Hồ Chí
Minh về CBXH trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, 2015
đã trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về CBXH, nhấn mạnh tư tưởng Hồ
Chí Minh về CBXH có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc, là sự kế thừa và
phát triển những tư tưởng về CBXH của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá
trị căn cốt của truyền thống văn hóa và đạo lý dân tộc. Điểm đóng góp có ý
nghĩa quan trọng của bài viết là những phân tích về sự vận dụng tư tưởng Hồ

18


×