Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Chính sách tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.34 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TRONG KHU VỰC CÔNG
1.1 Một số khái niệm
1.2 Kết cấu của tiền lương tối thiểu trong KVC
1.3 Cơ sở xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công
1.4 Vai trò của tiền lương tối thiểu trong khu vực công
1.5 Yêu cầu của tiền lương tối thiểu trong khu vực công
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

1
1
1
1
2
3

TỐI THIỂU TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về chính sách tiền lương tối thiểu trong KVC ở Việt Nam
2.2 Một số văn bản quy định về tiền lương tối thiểu trong khu vực công

3
3

ở Việt Nam hiện nay
2.3 Tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam qua các giai đoạn
2.3.1 Giai đoạn từ 1945- 1960
2.3.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985
2.3.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1993


2.3.4. Giai đoạn từ 1993 đến năm 2004
2.3.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
2.4 Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam
2.4.1 Cách xác lập tiền lương tối thiểu
2.4.2 Các phương pháp xác định tiền lương tối thiểu
2.5 Đánh giá chung về chính sách tiền lương trong khu vực công ở Việt Nam
2.5.1 Mặt đạt được
2.5.2 Mặt hạn chế
2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế về chính sách tiền lương tối thiểu

4
5
5
6
6
7
8
9
9
10
11
12
12
12

trong khu vực công ở Việt Nam
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH

13


SÁCH
TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương tối thiểu trong khu vực công
3.2 Hoàn thiện cơ chế quản lí về tiền lương tối thiểu trong khu vực công
3.3 Hoàn thiện phương pháp xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

13
13
14



LỜI NÓI ĐẦU
Tiền lương tối thiểu là một trong các chế độ có vị trí hết sức quan trọng trong hệ
thống tiền lương, ảnh hưởng đến toàn bộ chính sách tiền lương. Vì vậy mà việc quy
định mức tiền lương tối thiểu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng Trải qua từng thời kì
chính sách tiền lương của Nhà nước đã có sự thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên,
trong bối cảnh như hiện nay chính sách tiền lương vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt
là chính sách tiền lương tối thiểu trong khu vực công chưa phù hợp dẫn đến đời
sống của nlđ gặp nhiều khó khăn. Với những biến động của tình hình giá cả như
hiện nay thì mức tiền lương tối thiểu trong KVC hiện tại là khá thấp. Mặc dù Nhà
nước đã có sự điều chỉnh song nó vẫn chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế,
chưa thực hiện được chức năng đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động.
Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Chính sách tiền lương tối thiểu trong khu
vực công ở Việt Nam” để nghiên cứu từ đó có thể hiểu hơn về các vấn đề lí luận
cũng như thực tiễn áp dụng của chính sách tiền lương tối thiểu, đồng thời chỉ ra
những điểm bất cập và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tiền
lương tối thiểu trong KVC ở Việt Nam.



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TRONG
KHU VỰC CÔNG
1.1 Một số khái niệm
- Tiền lương trong khu vực công là số tiền nhà nước trả cho cán bộ công chức, viên
chức, người lao động làm việc trong khu vực công căn cứ vào số lượng, chất lượng,
khả năng ngân sách quốc gia và các quy định của pháp luật.
- Chính sách tiền lương trong khu vực công là một hệ thống các nguyên tắc, các
thực hành của nhà nước trong lĩnh vực tiền lương nhằm phát triển chính sách do
Nhà nước ban hành giải quyết các vấn đề tiền lương nhằm điều tiết những quan hệ
tiền lương, tiền thưởng và thu nhập, bảo đảm lợi ích của người lao động, thường
xuyên cải thiện mức sống cho người lao động và phát huy vai trò kích thích của
tiền lương đối với việc thúc đẩy các động lực phát triển.
- Tiền lương tối thiểu trong KVC là số lượng tiền trả cho người lao động có trình độ
thấp nhất trong khu vực công, đó là số tiền đảm bảo cho người lao động mua được
tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng thiết yếu cho tái sản xuất sức lao động của cá nhân và
dành một phần bảo hiểm tuổi già và nuôi con.
1.2 Kết cấu của tiền lương tối thiểu trong KVC
Kết cấu của tiền lương trong KVC gồm 3 phần:
Thứ nhất, phần để tái sản xuất sức lao động: ăn, nghỉ, giải trí,…
Thứ hai, phần để đóng bảo hiểm: bảo hiểm y tế, thất nghiệp, ốm đau, hưu trí,.
Thứ ba, phần giành để nuôi con
1.3 Cơ sở xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công
Hệ thống các nhu cầu tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Hệ thống nhu
cầu tối thiểu này bao gồm các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội bao gồm: nhu
1


cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, y tế, sinh hoạt văn hóa, giao tiếp xã hội, nuôi

con…
+ Mức tiền lương chung trên thị trường lao động. Việc xác định tiền lương tối
thiểu phải dựa trên căn cứ này để đảm bảo tiền lương tối thiểu không quá thấp hoặc
không quá cao so với giá cả chung trong thị trường sức lao động đồng thời góp
phần vừa bảo vệ người lao động vừa bảo vệ được người sử dụng lao động.
+ Chi phí và sự biến động của giá cả sinh hoạt
+ Mối tương quan về điều kiện sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội
+ Sự đạt được và giữ vững về mức độ có việc làm trên phạm vi vùng và quốc gia
1.4 Vai trò của tiền lương tối thiểu trong khu vực công
Tiền lương tối thiểu có vai trò rất quan trọng, cụ thể:
+ Là thước đo đánh giá trình độ của người lao động.
+ Là cơ sở để Nhà nước xác định các thang, bảng lương phù hợp,
+ Là cơ sở để tính tiền lương và tính toán các khoản phụ cấp và thưởng trả cho
người lao động.
+ Là cơ sở để thực hiện một số chế độ bảo hiểm xã hội và chế độ ưu đãi xã hội đối
với người có công.
+ Đảm bảo sự trả lương tương đương cho những công việc tương đương, tiền
lương tối thiểu ở một mức độ nào đó là sự điều hoà trong các nhóm người lao động
mà ở đó thường không được tính đúng mức.
+ Giúp giảm bớt đói nghèo.
+ Là công cụ để nhà nước quản lí tiền lương và đạt được các mục tiêu của mình.

2


1.5 Yêu cầu của tiền lương tối thiểu trong khu vực công
+ Phải đảm bảo cuôc sống tối thiểu cho người lao động trong khu vực công.
+ Tiền lương tối thiểu phải đươc tính đúng, tính đủ.
+ Phải đảm bảo được mối quan hệ hợp lí giữa tiền lương tối thiểu, trung bình và
tối đa.

+ Phải đảm bảo mức sống tối thiểu thực tế cho những người hưởng mức lương tối
thiểu.
+ Đảm bảo tính xã hội cho tính pháp lí của nhà nước.
+ Phải đáp ưng được những biến đổi trong đời sống kinh tế- xã hội của đất nước.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU
TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về chính sách tiền lương tối thiểu trong KVC ở Việt Nam.
Tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam hiện nay chính là tiền lương
tối thiểu chung hay còn gọi là mức lương cơ sở là mức lương áp dụng đối với cán
bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và người lao động (gọi
chung là người hưởng lương, phụ cấp) làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có tính chất đặc thù ở
Trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (cấp huyện), ở xã, phường, thị trấn (cấp xã) và lực lượng vũ
trang.
Đó là số tiền lương trả cho người lao động có trình độ thấp nhất của khối công chức
hành chính trong một tháng để cho công chức hành chính và gia đình của họ
sống và làm việc với tiền lương tối thiểu này.
3


Tuy nhiên trên thực tế, tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam rất thấp,
mặc dù Nhà nước đã điều chỉnh tăng nhiều lần nhưng chủ yếu chỉ bảo đảm bù trượt
giá, chưa trở thành nguồn sống cơ bản tương ứng với giá trị lao động của cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước. Từ ngày 01/05/2016, theo nghị định 47/2016/NĐCP, thực hiện điều chỉnh tăng mức lương cơ sở từ 1.150.000 đồng/tháng lên
1.210.000 đồng/tháng (tăng khoảng 5%) đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang, bảo đảm thu nhập của đối tượng có hệ số lương từ 2,34 trở xuống
không giảm so với mức đang hưởng.
Trong khu vực công, cán bộ, công chức, viên chức áp dụng mức lương tối thiểu

chung chỉ bằng 1/3 “sàn” mức lương tối thiểu của doanh nghiệp với việc quy định
hết sức mâu thuẫn, vô lý: khu vực chi từ ngân sách, tiền lương tối thiểu ở thành
phố, khu đô thị là thấp nhất, ngược lại khu vực sản xuất, kinh doanh lại cao nhất.
Ngoài ra, việc xác định tiền lương tối thiểu trong KVC ở Việt Nam vẫn còn mang
nặng yếu tố ngân sách, dựa trên sự cân đối ngân sách.
Điều này cho thấy chính sách tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam
hiện nay còn nhiều bất cập.
2.2 Một số văn bản quy định về tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt
Nam hiện nay
+ Nghị quyết số 99/2015/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội về dự
toán ngân sách nhà nước năm 2016.
+ Nghị định 117/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
+ Nghị định số 47/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính phủ. Nghị định quy
định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
4


+ Thông tư số 103/2016/TT-BTC ngày 29/06/2016 của Bộ tài chính. Thông tư
hướng dẫn xác định nhu cầu, nguồn và phương thức chi thực hiện điều chỉnh mức
lương cơ sở theo nghị định số 47/2016/NĐ-CP ngày 26/05/206 của Chính phủ, điều
chỉnh trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc theo nghị định số
55/2016/NĐ-CP ngày 15/06/2016 của Chính phủ.
2.3. Tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam qua các giai đoạn
2.3.1 Giai đoạn từ 1945- 1960
Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới thành lập. để xây dựng, củng cố
và điều hành chính quyền còn non trẻ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 10SL về việc tạm thời áp dụng các văn bản pháp luật của chế độ cũ để lại miễn là
không trái với bản chất của chế độ XHCN. Tuy nhiên các vă bản đó chưa có quy
định về tiền lương tối thiểu.

Tại Sắc lệnh 133/SL (7/1946) đã ấn định lương tối thiểu của công chức các ngạch
(mỗi tháng 150 đồng – 15 kg gạo cho Hà Nội, Hải phòng và 130 đồng – 13 kg gạo
cho các tỉnh khác. Đến tháng 2/1947, lương tối thiểu nâng lên 180 đồng và lương
tối đa là 600 đồng (đã trừ 10% cho quỹ hưu bổng) cho công chức.
Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 188-SL ngày 29/5/1948 về
việc lập một chế độ công chức mới và một thang lương chung cho các ngạch và các
hạng công chức Việt Nam. Trong Sắc lệnh 188-SL không quy định rõ mức tiền
lương tối thiểu làm cơ sở để tính toán các bậc lương. Tuy nhiên Điều 5 Sắc lệnh
188-SL quy định “ Nếu lương và các khoản phụ cấp kể trên của một công chức
dưới 220 đồng một tháng thì công chức ấy được lĩnh 220 đồng”. Như vậy có thể
hiểu mức 220 đồng/tháng là mức tiền lương tối thiểu đối với một công chức.
Ngày 31 tháng 5 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 270TT quy định chế độ lương cho khu vực hành chính, sự nghiệp. Điều 3 của Nghị
5


định quy định mức lương thấp nhất là 27.300 đồng một tháng. Chế độ tiền lương
năm 1958 đã cải thiện một phần đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ, góp
phần khuyến khích mọi người ra sức đẩy mạnh sản xuất và công tác.
2.3.2 Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1985
Từ năm 1960 đến năm 1985 tuy Nhà nước không tiến hành cải cách tiền lương,
không công bố mức lương tối thiểu nhưng thực tế đã nhiều lần tăng tiền lương danh
nghĩa thông qua các hình thức trợ cấp tạm thời, hình thức tiền thưởng, khuyến
khích lương sản phẩm, lương khoán… và điều chỉnh mức phụ cấp khu vực.
2.3.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1993
Từ năm 1987, giá cả sinh hoạt ngày càng tăng nhanh làm cho tiền lương thực
tế giảm sút nhanh chóng, vì vậy đến tháng 9/1987, Hội đồng Bộ trưởng đã Quyết
định điều chỉnh lại tiền lương (trong đó có mức lương tối thiểu) 10,68 lần đối với
công nhân, viên chức hành chính sự nghiệp, cán bộ xã, phường; 11,51% đối với lực
lượng vũ trang. Đến tháng 4/1988 thống nhất áp dụng một hệ số 13,15 lần.
Ngày 28/12/1988, Hội đồng Bộ trưởng Quyết định số 203/HĐBT về tiền

lương công nhân, viên chức hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đối
tượng hưởng chính sách xã hội, nâng mức lương tối thiểu lên 22.500đồng/tháng.
Ngày 23/5/1993 Chính phủ ban hành Nghị định số 25-CP quy định tạm thời
chế độ tiền lương mới của công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp và lực
lượng vũ trang. Cũng giống như năm 1988, Nhà nước đã ban hành một mức lương
tối thiểu áp dụng cho cả hai khu vực doanh nghiệp và hành chính, sự nghiệp là
120.000đồng/ tháng.

6


2.3.4. Giai đoạn từ 1993 đến năm 2004
Bảng 1: Mức tiền lương tối thiểu trong khu vực công giai đoạn 1993-2004
Đơn vị: đồng
Nghị định
05/CP (Ngày 23/05/1993)
06/CP (Ngày 21/01/1997)
175/1999/NĐ-CP (Ngày 15/12/1999)
77/2000/NĐ-CP (Ngày 15/12/2000)
03/2003/NĐ-CP (Ngày 15/01/2003)

Thời điểm áp

Mức lương tối

dụng
01/01/1995
01/01/1997
01/01/2000
01/01/2001

01/01/2003

thiểu
120.000
144.000
180.000
210.000
290.000

Sau 3 năm điều chỉnh tiền lương tối thiểu, ngày 21/01/1997 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 06/CP về việc giải quyết tiền lương và trợ cấp năm 1997 đối với công
chức, viên chức hành chính, sự nghiệp, người nghỉ hưu, nghỉ mất sức, lực lượng vũ
trang; cán bộ xã, phường và một số đối tượng hưởng chính sách xã hội, nâng mức
tiền lương tối thiểu từ 120.000 đồng/tháng lên 144.000 đồng/tháng.
Tiếp đến, ngày 15/12/1999, Chính phủ tiếp tục điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu
cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước từ 144.000đồng/tháng lên
180.000đồng/tháng (Theo Nghị định số 175/1999/NĐ-CP).
Đến 15/12/2000, mức tiền lương tối thiểu được điều chỉnh lên 210.000đồng/tháng,
áp dụng cho cả khu vực doanh nghiệp và hành chính, sự nghiệp (Nghị định số
77/2000/NĐ-CP). Ngày 15/01/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
03/2003/NĐ-CP, mức tiền lương tối thiểu lên 290.000 đồng/ tháng. Và mức tiền
lương tối thiểu 290.000đồng/tháng được duy trì cho đến năm 2004.

2.3.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
7


Bảng 2: Mức lương tối thiểu trong khu vực công giai đoạn 2004 đến nay
Đơn vị: đồng
Nghị định


Thời điểm áp Mức lương tối

118/2005/NĐ-CP (Ngày 15/09/2005)
94/2006/NĐ-CP (Ngày 07/09/2006)
166/2007/NĐ-CP (Ngày 10/12/2007)
33/2009/NĐ-CP (Ngày 06/04/2009)
28/2010/NĐ-CP (Ngày 25/03/2010)
22/2011/NĐ-CP (Ngày 04/04/2011)
31/2012/NĐ-CP (Ngày 12/04/2012)
66/2013/NĐ-CP ( Ngày27/06/2013)
Nghị quyết 99/2015/QH13 ngày 11/11/2015

dụng
01/10/2005
01/10/2006
01/01/2008
01/05/2009
01/05/2010
01/05/2011
01/05/2012
01/7/2013
1/5/2016

thiểu
350.000
450.000
540.000
650.000
730.000

830.000
1.050.000
1.150.000
1.210.000

Từ năm 2004 đến nay, chứng kiến sự thay đổi tới 9 lần của mức lương tối thiểu: từ
mức 350.000 đồng (2004) lên đến 1.210.000 đồng (2015). Như vậy, sau hơn 10
năm, mức lương tối thiểu đã tăng hơn 3 lần. Và sau hơn 20 năm, tạm tính từ 1995
đến 2015, tiền lương tối thiểu đã tăng 10 lần từ mức 120.000 lên 1.210.000 đồng.
Tuy vậy, mức lương này vẫn luôn bị đánh giá là chưa thể đáp ứng được nhu cầu
sinh hoạt tối thiểu của cán bộ công chức, viên chức.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mức chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu năm
2010 ở thành thị là 1.827.900 đồng/tháng, ở nông thôn 950.200 đồng/tháng và của
cả nước là 1.210.700 đồng/tháng. Nếu tính theo chỉ số giá tiêu dùng năm 2011
khoảng 18% thì mức chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu năm 2011 ở thành thị là
2.156.900 đồng/tháng, ở nông thôn là 1.121.300 đồng/tháng và của cả nước là
1.424.600 đồng. Như vậy, mức lương tối thiểu năm 2011, là 830.000 đồng/tháng áp
dụng đối với cán bộ, công chức chỉ bằng 38,5% so với mức chi tiêu bình quân 1
nhân khẩu ở thành thị, bằng 74% so với mức chi tiêu bình quân 1 nhân khẩu ở nông
thôn và 58,1% so với mức của cả nước.
8


2.4 Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam
2.4.1 Cách xác lập tiền lương tối thiểu
Trước năm 1995: Chủ thể xác lập tiền lương tối thiểu do Nhà nước ấn định, các
đối tác xã hội hầu như không tham gia vào qua trình xác lập tiền lương tối thiểu.
Các yếu tố để tính toán tiền lương tối thiểu trong giai đoạn này dựa trên nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động, chưa tính đến các yếu tố của thị trường lao động.
Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện do khả năng cân đối của NSNN hạn chế, cho

nên mức lương tối thiểu thường được ấn định thấp hơn so với mức lương tối thiểu
tính toán theo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động.
Từ năm 1995 - 2013: Trong giai đoạn này, nền kinh tế chuyển đổi nhanh theo kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thị trường lao động, quan hệ lao động
cũng đã có bước phát triển mạnh. Việt Nam tích cực đẩy mạnh hội nhập kinh tế.
Theo đó, Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời, thể chế hóa quan hệ lao động và quá
trình xác lập tiền lương tối thiểu theo nguyên tắc kinh tế thị trường, phù hợp với
quá trình hội nhập quốc tế. Tiếp theo đó, năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định
114/2002/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động đã cụ thể hơn: Mức lương tối thiểu được quy định trên cơ sở cung cầu lao
động, khả năng kinh tế là chỉ số giá sinh hoạt theo từng thời kỳ.

Từ khi Bộ luật Lao động 2012 có hiệu lực đến nay.
Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế, năm 2012 Bộ luật Lao động được thông qua (có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/5/2013) đã tiếp tục xác lập một mức tiền lương tối thiểu
mới.Như vậy, đến nay cơ chế xác lập tiền lương tối thiểu đã có sự đổi mới căn bản
9


phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường và bảo đảm hài hòa lợi ích của các
bên trong quan hệ lao động.
Đã có sự đổi mới về các yếu tố căn cứ để tính toán, xác định mức lương tối thiểu từ
chỗ chỉ dựa vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và khả năng NSNN,
chuyển sang dựa trên nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, có
tính đến điều kiện kinh tế - xã hội và các yếu tố của thị trường lao động.
2.4.2 Các phương pháp xác định tiền lương tối thiểu
Trên thực tế, phương pháp xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt
Nam không khác so với thế giới. Trong đề án cải cách lương năm 1993 và năm
2004, tiền lương tối thiểu được xác định từ bốn phương pháp:

-

Xác định TLTT theo hệ thống nhu cầu và mức sống tối thiểu
Xác định TLTT theo mức tiền lương thấp nhất trên thị trường
Xác định TLTT theo mức tiền lương thấp nhất trong khu vực công
Xác định TLTT từ khả năng của nền kinh tế (GDP) và quỹ tiêu dùng cá nhân

Ở Việt Nam, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp xác định theo nhu cấu
và mức sống tối thiểu.Trong đó bao gồm các nhu cấu về ăn, mặc, ở, đi lại, y tế, giáo
dục,…
Tuy nhiên khi xác định tiền lương tối thiểu chính phủ ao giờ cũng cân nhắc “ bài
toán ngân sách”. Căn cứ vào tổng ngân sách có thể chi trả cho lương, số người
hưởng lương từ ngân sách, và hệ số lương trung bình dự kiến để tính toán mức
lương tối thiểu và mức lương tối thiểu được ban hành bao giờ cũng thấp hơn so với
tính toán.
2.5 Đánh giá chung về chính sách tiền lương trong khu vực công ở Việt Nam
2.5.1 Mặt đạt được
10


+ Thứ nhất, tiền lương tối thiểu đã phần nào đảm bảo tái sản xuất sức lao động giản
đơn và một phần để tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng cho người lao động
trong khu vực công.
+ Chính sách tiền lương tối thiểu phù hợp với nền kinh tế và khả năng chi trả của
ngân sách nhà nước.
+ Chính sách tiền lườn tối thiểu đi vào thực tế đã phát huy vai trò của nó trong việc
cải thiện đời sống cho người lao động. tiền lương tối thiểu được điều chỉnh tang
dần( trên 20% mỗi lần điều chỉnh) đã từng bước thực hiện tiền tệ hóa tiền lương,
thay đổi nhu cầu của mức sống tối thiểu theo hướng cải thiện hơn.
2.5.2 Mặt hạn chế

+ Việc xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu và cơ chế áp dụng mức lương tối
thiểu chưa được pháp luật quy định cụ thể, dẫn đến trong quá trình thực hiện còn
thiếu nhất quán, thiếu căn cứ khoa học và có tính áp đặt, chưa sát với tình hình thực
tế và yêu cầu khách quan của cuộc sống
+ Việc xác định mức lương tối thiểu trong kvc vẫn bị phụ thuộc bởi ngân sách nhà
nước, chưa gắn với nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và sát với mức tiền
công trên thị trường để đảm bảo tiền lương tối thiểu đủ sống. Một thực tế cho thấy,
trong những năm gần đây, việc điều chỉnh tiền lườn tối thiểu đã được thực hiện
thường xuyên tuy nhiên mức tiền lương tối thiểu do nhà nước quy định không đáp
ứng được cuộc sống tối thiểu cho người lao động. Theo Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội, mức lương tối thiểu chung do Chính phủ quy định thấp hơn so với nhu
cầu sống tối thiểu của người lao động khoảng 30% và bằng khoảng 80% so với
mức tiền công thực trả thấp nhất trên thị trường lao động. Mặt khác, mức lương tối
thiểu chung chỉ phù hợp với vùng có giá cả sinh hoạt, mức sống thấp nhất, những
vùng có mức giá sinh hoạt cao thì chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động.
11


+ Tiền lương tối thiểu khu vực công gắn liền với tiền lương tối thiểu chung là một
sự bất hợp lý, làm cho tiền lương khu vực này luôn thấp hơn khu vực thị trường, và
do đó dẫn đến dòng di chuyển lao động từ khu vực công sang khu vực có tiền
lương cao hơn, đồng thời là một trong những nguyên nhân gây tiêu cực, tham
nhũng.
+ Việc quy định căn cứ để điều chỉnh tiền lương tối thiểu còn chưa đầy đủ. Ngoài
yếu tố lạm phát của tiền tệ thì việc tăng mức lương tối thiểu cũng cần phải xem xét,
điều chỉnh khi năng suất lao động trung bình của xã hội tăng lên và theo sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Song các quy định của pháp luật và thực tế điều chỉnh tiền
lương tối thiểu trong thời gian qua chưa tính đến các yếu tố này.
2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế về chính sách tiền lương tối thiểu trong khu
vực công ở Việt Nam.

+ Nguyên nhân là do nền kinh tế đất nước phát triển chưa vững chắc, tiềm lực còn
hạn chế, nên ngân sách Nhà nước còn hạn chế khi chi cho tiền lương tối thiểu.
+ Nội dung chính sách tiền lương tối thiểu chưa hoàn chỉnh; quá trình điều chỉnh,
bổ sung chắp vá thiếu đồng bộ.
+ Chưa có phương pháp xác định tiền lương tối thiểu phù hợp, chính xác trong khu
vực công.
+ Chưa có văn bản quy định riêng về chính sách tiền lương tối thiểu, vẫn lấy mức
lương cơ sở (hay tiền lương tối thiểu chung) của Nhà nước để áp dụng.
+ Cơ chế quản lý tiền lương chưa phù hợp với hoạt động của khu vực công.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TRONG KHU VỰC CÔNG Ở VIỆT NAM
12


3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền lương tối thiểu trong khu vực công
Pháp luật về tiền lương tối thiểu trong khu vực công hiện nay đang thể hiện nhiều
bất cập, chưa phù hợp. Vì vậy việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Tiền
lương tối thiểu là hết sức cần thiết nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật lao
động; tiếp tục thực hiện đề án cải cách chính sách tiền lương; đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam.
Từng bước nghiên cứu, bổ sung các chế độ, chính sách có tính chất TLTT, tăng
thêm thu nhập cho những người hưởng lương trong khu vực lực lượng vũ trang.
Chủ động đề xuất các chính sách để nhằm tăng mức TLTT đối với lưc lượng vũ
trang.
Cần tập trung phối hợp đề xuất ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh, quy định
riêng tiền lương tối thiểu đối với khu vực công.
3.2 Hoàn thiện cơ chế quản lí về tiền lương tối thiểu trong khu vực công
Đổi mới cơ chế quản lý tiền lương tối thiểu đối phù hợp với đặc thù hoạt động của
khu vực công. Cơ chế quản lý tiền lương tối thiểu cần đổi mới vừa phản ánh được

cơ chế chung, bảo đảm sự liên thông về nội dung với quá trình cải cách chính sách
tiền lương của Nhà nước; đồng thời, phải phù hợp với đặc thù riêng của khu vực
công.
Cơ chế quản lý cần đổi mới để tăng tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm quản
lý Nhà nước về tiền lương nói chung và tiền lương nói riêng trong khu vực công.
Cần nâng cao năng lực, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác xây dựng
chính sách tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở Việt Nam.
3.3 Hoàn thiện phương pháp xác định tiền lương tối thiểu trong khu vực công.

13


Cần đánh giá một cách khách quan mức sống thực tế và tối thiểu của Người lao
động trong khu vực công để đưa ra các phương án, chính sách tiền lương tối thiểu
phù hợp, đảm bảo yêu cầu và mức sống tối thiểu của người lao động làm việc trong
khu vực công.
Tiền lương tối thiểu trong khu vực công phải được xác định đúng để thể hiện được
“giá trị” của nó và phải được thực thi nghiêm túc. Do vậy, ngoài việc xác định mức
sống tối thiểu thông qua “rổ hàng hóa” thiết yếu và “gói dịch vụ” cần thiết (phi
hàng hóa) để tính ra tiền lương tối thiểu, thì rất cần thiết phải tính đến những đặc
điểm đặc thù của lao động trong khu vực công.

14


KẾT LUẬN
Tiền lương tối thiểu là vấn đề quan trọng không chỉ với đời sống của cá nhân người
lao động mà đối với toàn xã hội bởi lẽ nó là cơ sở để thuê mướn, trả công lao động
trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương tối thiểu được coi là “lưới an toàn” cho
những người lao động làm công ăn lương. Tuy nhiên, tiền lương tối thiểu áp dụng

cho người lao động trong khu vực công hiện nay còn thấp, chưa đảm bảo được
chức năng, vai trò là nguồn thu nhập chính của người lao động. Chính vì vậy, cần
từng bước nghiên cứu, rà soát lại các yếu tố cơ bản làm căn cứ xác định lương tối
thiểu, Trước thực trạng đó, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật vè tiền
lương tối thiểu là vấn đề cần thiết. Trên cơ sở các yêu cầu hoàn thiện đang đặt ra
phù hợp với từng giai đoạn hiện nay, hệ thống pháp luật tiền lương nói chung và
tiền lương tối thiểu trong khu vực công ở việt nam nói riêng cần được sửa đổi, bổ
sung để bảo vệ người lao động hợp lý, linh hoạt và bền vững.
Trên đây là toàn bộ bài tiểu luận của em về đề tài: “ Chính sách tiền lương trong
khu vực công ở Việt Nam”.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi những sai
sót, rất mong nhận đươc những nhận xét, góp ý của cô để bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tiền lương- Tiền công, PGS. TS Nguyễn Tiệp ( chủ biên) và TS. Lê
Thanh Hà, NXB Lao động- xã hội, 2008.
2. Bộ luật lao động 2012.
3. ILO, Báo cáo tóm lược: “Chính sách tiền lương tại Việt Nam trong bối cảnh
kinh tế và hội nhập”, tháng 11 năm 2014.
Địa chỉ: />4. TS. Trương Văn Cẩm, “ Tiền lương tối thiểu ở một số quốc gia- kinh nghiệm
Địa chỉ: />5. Vũ Thi Là, Luận văn: “Chế độ tiền lương tối thiểu ở Việt Nam”
Địa chỉ: />6. “Vấn đề tiền lương tối thiểu ở Việt Nam, một tiếp cận khác”, Báo tuổi trẻ
online, ngày 2/5/2013.
Địa chỉ: />7. Phan Tuấn Nam, “Tổng hợp mức lương tối thiểu qua từng thời kì”.
Địa chỉ: />

8. TS Nguyễn Minh Phong. (2016). Tăng lương tối thiểu và tác động đa chiều.
Địa chỉ: />9. />



×