Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP MÔN DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.08 KB, 23 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

CHUYÊN ĐỀ:
PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG

Giáo viên hướng dẫn:
Khoa:
Họ và tên học sinh:
Lớp:
Địa điểm thực tập:

Năm 2017
MỤC LỤC


Mục lục

Trang

A. Lời mở đầu

2

B. Nội dung

4

Chương I: Khái quát chung phát luật về bảo vệ quyền lợi của người lao 4
động chưa thành niên ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về người lao động chưa thành niên



4

1.1.1.Một số khái niệm liên quan đền người chưa thành niên

5

1.1.2.. Khái niệm “người lao động chưa thành niên” theo pháp luật Việt Nam 7
1.1.3. So sánh khái niệm “người lao động chưa thành niên” ở Việt Nam và 14
khái niệm “ lao động trẻ em” theo pháp luật quốc tế
1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên theo 14
pháp luật
1.2.1. Sự tất yếu khách quan phải sử dụng người lao động chưa thành niên ở 18
Việt Nam
1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên 18
theo pháp luật
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của người lao 22
động chưa thành niên
1.3.1. Giai đoạn 1945 đến 1986

29

1.3.2. Giai đoạn từ 1986 đến 1994

33

1.3.3. Giai đoạn từ 1994 đến nay

34


1.4 Một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
về lao động trẻ em
1.4.1. Một số điều ước quốc tế về bảo vệ lao động trẻ em
1.4.2. Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về lao động trẻ em
Chương II. Quy định và thực trạng áp dụng pháp luật lao động Việt Nam về
bảo vệ quyền lợi cho người lao động chưa thành niên
2.1 Việc Làm cho người chưa thành niên


2.1.1. Quy định của pháp luật về việc làm cho người chưa thành niên
2.1.2. Thực trang việc làm của người lao động chưa thành niên
2.2. Pháp luật về hợp đồng lao động và tình hình thực hiện các quy định của
các hợp đồng lao đông với người chưa thành niên
Chương III. Thực trạng sử dụng lao động chưa thành niên và một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên
C. Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CTN
NLĐ
LĐTE
HĐLĐ
SDLĐ
BLLĐ

: Chưa thàn niên
: Người lao động
: Lao động trẻ em
: Hơp đồng lao động

: Sử dụng lao động
: Bộ luật Lao động


LỜI CẢM ƠN
Sau hơn hai năm học tập lớp Trung cấp Luật chuyên ngành Pháp luật tại
trường …………….với biết bao kỷ niệm vui, buồn bên thầy cô và bạn bè. Em
đã được các thầy, cô trong nhà trường tận tâm truyền đạt, giúp đỡ trong suốt
thời gian em theo học, em đã tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích và thiết
thực trong công tác cũng như trong cuộc sống. Đó là những hành trang, tiền
đề vững chắc giúp em vững vàng bước tiếp trong bước đường tương lai, sự
nghiệp của mình. Sẽ là một thiếu sót rât lớn nếu như em không gửi lời cảm ơn
chân thành nhất của em tới các thầy, cô. Những người đã tân tâm, đem hết
tâm huyết của mình dìu dắt, quan tâm, giúp đỡ em cho đến ngày hôm nay.
Để hoàn thành được báo cáo thực tập này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, với
lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin chân thành cảm ơn các thày, cô đã giảng
dạy, trao rồi cho em những kiến thức về pháp luật cũng như các ký năng thực
hiện công việc chuyên môn trong thực tế của mình. Đặc biệt em xin được gửi
lời cảm ơn chân thành đến cô ……………….- Khoa Đào tạo cơ bản, em cảm
ơn cô đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn để em có thể hoàn thành được báo cáo
thực tập tốt nghiệp. Không có sự hướng dẫn tân tình của cô em đã không thể
hoàn thành được báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Em xin chân thành
cảm ơn cô.
Đồng thời, em cũng xin được gửi lời cảm ơn của em tới các cô chú, anh chị
là Lãnh đạo Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã………..,
huyện………….., tỉnh ……………..nơi em đến thực tập. Các cô chú, anh chị
cán bộ công chức phụ trách các lĩnh vực: Tư pháp - Hộ tịch; Địa chính - xây
dựng; Văn hóa, Lao động - Thương binh xã hội; Công an xã… đã hướng dẫn,
chỉ bảo cho em trong quá trình thực tập tại địa phương, giúp em có điều kiện



rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm nghiệp vụ thực tế đã được học trên ghế nhà
trường.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc các thầy, cô giảng viên trường…………., các
cô chú, anh chị đang công tác, làm việc tại Ủy ban nhân dân …………………
và gia đình luôn luôn mạnh khỏe và hạnh phúc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày ….tháng….năm
2017
Sinh viên

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn chuyên đề
Lao động là một hoạt động quan trọng trong quá trình sống của một
con người, hoạt động nay góp phần tạo ra của cải vật chất cũng như các giá trị
tinh thần cho con người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Nhờ có lao
động mà con người có thể tồn tại, tiến hóa hơn các sinh vật khác và phát triển
cho đến ngày nay. Với ý nghĩa và vai trò to lớn đó, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm điều chỉnh các quan hệ lao động với tư cách là một quan hệ mang
tính kinh tế - xã hội thông qua các quy phạm pháp luật của mình.
Pháp luật lao động điều chỉnh rất nhiều quan hệ liên quan đến quan hệ
lao động, trong đó có loại quan hệ lao động mà một bên của quan hệ là người
chưa thành niên (CTN). Người CTN là người còn non nớt cả về thể chất, tinh
thần lẫn khả năng nhận thức về thế giới bên ngoài. Do những hoàn cảnh và
nhu cầu khác nhau mà người CTN đã sớm tham gia vào các quan hệ lao động.
Sự tham gia sớm này đã kéo theo một loạt các vấn đề có liên quan cần phải
giải quyết giữa nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu bảo đảm xã hội. Tuy
nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật lao động diễn ra khá phổ biến, trực tiếp
hoặc gián tiếp xâm hại một cách nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động CTN.

2. Phạm vi nghiên cứu
Với mong muốn góp phần đảm bảo thi hành tốt chính sách về bảo vệ người
chưa thành niên của Nhà nước Việt Nam cũng như trên địa bàn nơi thực tập,
em nghiên cứu bài báo cáo trong phạm vi người lao động chưa thành niên độ
tuổi từ 8 tuổi đến dưới 18 tuổi, trên địa bàn tỉnh ………….
3. Bố cục của báo cáo
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của
báo cáo bao gồm:
Chương 1: Khái quát chung pháp luật về bảo vệ người lao động chưa thành
viên ở Việt Nam


Chương 2: Quy định và thực trạng áp dụng pháp luật lao động Việt Nam và
thực trạng bảo vệ người lao động chưa thành niên
Chương 3: Thực trạng sử dụng lao động chưa thành niên và một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ người lao động chưa thành niên

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về người lao động chưa thành niên
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến người chưa thành niên
a. Khái niệm "trẻ em"
Theo Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Bách khoa toàn thư thì "trẻ
em" được hiểu là "giai đoạn phát triển của đời người từ lúc sơ sinh cho đến
tuổi trưởng thành có đặc điểm nổi bật là sự tăng trưởng và phát triển liên tục
về thể chất và tâm thần". Còn Luật trẻ em 2016 thì quy định ngay tại Điều 1:
“trẻ em là người dưới 16 tuổi”.
b. Khái niệm "vị thành niên"



Theo Từ điển tiếng Việt có giải thích về khái niệm "vị thành niên" là
được hiểu là "chưa nên người, chưa tới tuổi trưởng thành" nhằm phân biệt với
khái niệm "thành niên" với ý nghĩa là "đến tuổi trưởng thành, đến hạn tuổi mà
pháp luật nhìn nhận đầy đủ sức khỏe và trí khôn trong việc gì đó".
c. Khái niệm "người chưa thành niên"
Theo Bộ luật Dân sự 2015 quy định tại Điều 21. Người chưa thành niên
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.”
Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định người CTN là người chưa
đủ 18 tuổi, được phân nhóm độ tuổi thành ba nhóm người từ 0 đến chưa đủ 6
tuổi; người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi và người đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi.
1.1.2. Khái niệm "người lao động chưa thành niên" theo pháp luật Việt Nam.
Đối với khái niệm "lao động CTN" được quy định tại BLLĐ năm 2012
đã xác định giới hạn trên của "người lao động CTN là người lao động dưới 18
tuổi" và giới hạn dưới ít nhất đủ 15 tuổi. Tuy nhiên, có một số nghề và công
việc mà Nhà nước cho phép người SDLĐ được tuyển dụng người chưa đủ 15
tuổi vào làm việc với những điều kiện bắt buộc được quy định tại Thông tư số
11/2013/TB-LĐTBXH nhưng người lao động phải là trẻ em phải đủ 12 tuổi.
Riêng trẻ em tham gia biểu diễn nghệ thuật phải đủ 8 tuổi. Đối với một số
trường hợp đặc biệt phải sử dụng trẻ em chưa đủ 8 tuổi do Bộ văn hóa Thông tin quyết định. Như vậy, giới hạn dưới tận cùng của độ tuổi được lao
động không được luật pháp quy định mà do Bộ Văn hóa -Thông tin quyết
định trên cơ sở đánh giá khả năng thực hiện của từng vụ việc.
1.1.3. So sánh khái niệm "người lao động chưa thành niên" ở Việt Nam và
khái niệm "lao động trẻ em" theo luật pháp quốc tế
"Lao động trẻ em" là một khái niệm để chỉ người lao động là nhóm trẻ
em tham gia quan hệ lao động được pháp luật lao động điều chỉnh. Theo Công
ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 và Công ước số 182 năm
1999 của Tổ chức lao động quốc tế thì thuật ngữ "trẻ em" sẽ được áp dụng

cho tất cả những người dưới 18 tuổi và khi thực hiện các công việc dưới dạng
lao động sẽ được coi là LĐTE. Như vậy, phạm vi đối tượng được coi là LĐTE
của Tổ chức lao động quốc tế tương tự với phạm vi đối tượng mà pháp luật
Việt Nam xác định về lao động CTN. Do đó, "lao động trẻ em" cũng nằm
trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo.
1.2. Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên theo
pháp luật
1.2.1. Sự tất yếu khách quan phải sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt
Nam
Rất nhiều gia đình nghèo hiện nay không có đủ khả năng tài chính để
đảm bảo cho con em theo học, một số bộ phận gia đình không sẵn sàng cho
con em mình học lên vì ngại tốn kém, không kham nổi hoặc do sức ép từ một
số người đã tốt nghiệp đại học nhưng không thể kiếm được việc làm. Không
được học tập, tạo cho các em được làm việc để có thêm thu nhập trong thời


gian rảnh rỗi là rất cần thiết mà trước hết là để cho các em không bị lôi cuốn
vào các hoạt động vui chơi thiếu lành mạnh và vi phạm pháp luật. Việc lao
động của các em cũng có những mặt tích cực nhất định cần phải xem xét để
khuyến khích trong việc giáo dục về giá trị của lao động.
Ở Việt Nam một bộ phận lớn người SDLĐ là các tiểu chủ, các doanh
nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh cá thể có nhu cầu cao về sử dụng người lao động
CTN. Bởi họ không có đủ điều kiện để thuê mướn người lao động đã thành
niên vì khả năng tài chính và trình độ quản lý cũng như yêu cầu công việc.
Khi nhu cầu sử dụng lao động CTN được đáp ứng bởi nguồn cung ứng khá
dồi dào tất yếu phát sinh quan hệ thuê mướn đối với nhóm người này.
1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên
theo pháp luật
Có rất nhiều người SDLĐ mặc dù hiểu biết nhưng vẫn vi phạm pháp
luật lao động trong đó có vi phạm đối với người CTN. Mặc dù các các cơ

quan chức năng và xã hội có nhiều biện pháp xử lý nhưng vẫn chưa đảm bảo
cho tất cả các em có một môi trường làm việc theo đúng tiêu chuẩn và tình
trạng xâm hại cũng như lạm dụng sức LĐTE ngày càng nghiêm trọng. Trong
đó, người phải chịu thiệt thòi phần lớn thuộc về các em, những người yếu thế
về mọi mặt khi tham gia quan hệ lao động. Thậm chí, một số em sa chân vào
con đường phạm tội để rồi tự tước đi các quyền lợi mà đáng nhẽ các em được
hưởng từ chính sách bảo vệ của Nhà nước và xã hội. Do vậy, cần thiết phải có
những biện pháp mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn để bảo vệ những công dân lao
động tương lai của đất nước.
1.3. Sơ lược lịch sử pháp luật việt nam về bảo vệ quyền lợi của người lao
động chưa thành niên
1.3.1. Giai đoạn 1945 đến 1986
a. Hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội
Trong thời kỳ này đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, chính trị,
văn hóa, an ninh quốc phòng bởi vừa thoát khỏi tình trạng bị đô hộ, vừa tiến
hành cuộc chiến tranh suốt 30 năm, vừa xây dựng chế độ xã hội mới.
b. Các quy định của pháp luật về người lao động chưa thành niên
Thời kỳ này có sự xuất hiện của Sắc lệnh số 29/SL làm cơ sở cho việc
giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động, trong đó có lao động chưa thành
niên.
1.3.2. Giai đoạn từ 1986 đến 1994
a. Hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội
Đây là thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh và tìm hướng đi cho nền
kinh tế với chủ trương Đổi mới của Đảng và Nhà nước
b. Pháp luật về người lao động chưa thành niên
Thời kỳ này, Nhà nước đã ban hành một số văn bản để điều chỉnh quan
hệ lao động như Pháp lệnh Hợp đồng lao động năm 1990, Pháp lệnh bảo hộ
lao động năm 1991, Nghị định số 223/HĐBT ngày 22/6/1990.
1.3.3. Giai đoạn từ 1994 đến nay



a. Hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội
Đất nước đang phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho các quan hệ lao
động phát triển, có nhiều cơ hội và thách thức đặt ra với đất nước trong quá
trình hội nhập.
b. Pháp luật về người lao động chưa thành niên
Phần quy định cụ thể sẽ được chi tiết tại Chương 2
1.4. Một số điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về
bảo vệ lao động trẻ em
1.4.1. Một số điều ước quốc tế về bảo vệ lao động trẻ em
a. Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc năm 1989 về quyền trẻ em
Công ước xác định về độ tuổi được coi là trẻ em và các quyền cơ bản
mà mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo cho các em được hưởng, trong đó
có các quyền liên quan đến lao động.
b. Công ước số 138 của Tổ chức lao động quốc tế năm 1973 quy định về độ
tuổi tối thiểu của lao động trẻ em
Công ước quy định rằng, tuổi tối thiểu được nhận vào làm việc sẽ
không dưới độ tuổi hoàn thành giáo dục bắt buộc và trong bất kỳ trường hợp
nào sẽ không dưới 15 tuổi. Pháp luật quốc gia có thể cho phép SDLĐ hay lao
động của người từ 13 đến 15 tuổi trong những công việc nhẹ nhàng mà không
có khả năng tác hại đến sức khỏe hoặc sự phát triển; không phương hại đến
học tập … hay khả năng tiếp nhận kiến thức giảng dạy.
c. Công ước số 182 năm 1999 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ
các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
Công ước quy định các hình thức LĐTE tồi tệ nhất và yêu cầu các nước
thành viên của Công ước phải thực hiện việc nghiêm cấm và xóa bỏ những
hình thức LĐTE tồi tệ nhất, như mối ưu tiên chính của hành động của quốc
gia và quốc tế.
d. Công ước số 29 năm 1930 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc
Công ước nêu rõ các trường hợp được coi là lao động cưỡng bức và

quy định rằng "chỉ những người thanh niên nam giới khỏe mạnh ở độ tuổi
không dưới 18 và không quá 45 mới thuộc diện phải huy động đi làm việc lao
động cưỡng bức hoặc bắt buộc" (khoản 1 điều 11).
đ. Chương trình hành động của Hội nghị Quốc tế Oslo (Norway) về lao động
trẻ em
Chương trình này đã được các đại biểu với nhận định rằng lao động trẻ
em vừa là hậu quả và vừa là nguyên nhân của sự đói nghèo nên các chiến lược
xóa đói giảm nghèo cần phải đề cập tới vấn đề này. SDLĐ trẻ em làm chậm
việc tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và nó tạo ra một sự vi phạm pháp
luật nghiêm trong các quyền cơ bản của con người.
1.4.2. Pháp luật của một số quốc gia về bảo vệ lao động trẻ em
a. Pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về lao động trẻ em
Ðạo Luật Ðạo Luật Tiêu Chuẩn Lao Ðộng Công Bằng (FLSA) và luật
lao động trẻ em được công bố ở Qui Luật 29 CFR, Phần 570, thành lập những


tiêu chuẩn về giờ làm việc và những nghề nghiệp cho các em trẻ tuổi. Trẻ em
ở mọi lứa tuổi thường được phép đi làm cho những cơ sở của cha mẹ, ngoại
trừ các em dưới 16 tuổi không được phép làm việc trong những nghề khai mỏ
hay công ty sản xuất hàng hóa và không ai dưới 18 tuổi có thể đi làm bất cứ
nghề nghiệp nào mà Bộ Trưởng Bộ Lao Động tuyên bố là nguy hiểm.
b. Pháp luật của Trung Quốc về bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa
thành niên
Điều 64 Luật lao động quy định rằng "không người lao động CTN nào
bị bắt buộc phải làm việc dưới hầm mỏ, với sự độc hại, với cường độ lao động
mạnh cấp IV theo quy định của nhà nước hoặc làm các công việc không phù
hợp". "Người SDLĐ phải thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ" nhằm đảm
bảo cho sự phát triển bình thường của các em. "Không tổ chức, cá nhân nào
có quyền thuê mướn bất kỳ người CTN dưới 16 tuổi, trừ trường hợp có quy
định khác của Nhà nước" (Điều 38 Luật bảo vệ người CTN. "Doanh nghiệp

khai khoáng không được tuyển dụng người CTN đề làm các công việc dưới
lòng đất" (Điều 29 Luật về an toàn hầm mỏ). 1.4.2.3. Pháp luật một số quốc
gia quy định về ngưỡng tuổi được phép lao động. Nhìn chung các quốc gia
phân độ tuổi tối thiểu theo mức độ nặng nhọc, độc hại của công việc. Thông
thường, các quốc gia lấy độ tuổi 14 hoặc 15 làm độ tuổi tối thiểu được phép
lao động. Tuy vậy, các quốc gia cũng thường đặt ra các ngoại lệ cho việc thực
hiện quy định này.

Chương 2
QUY ĐỊNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA
THÀNH NIÊN
2.1. Việc làm cho người chưa thành niên.
2.1.1. Quy định của pháp luật về việc làm cho người chưa thành niên
a. Các quy định chung về việc làm cho người lao động
Vấn đề việc làm được quy định tại Mục 1 Chương XI của BLLĐ năm
2012, và Nghị định 05/2015/NĐ-CP. Người CTN khi lao động hợp pháp cũng
có đầy đủ các quyền của người lao động thành niên như có quyền làm việc
cho bất kỳ người SDLĐ nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm,
được quyền trực tiếp hoặc thông qua sự trợ giúp của các tổ chức giới thiệu
việc làm để tìm việc làm.
b. Các quy định riêng về việc làm cho người lao động chưa thành niên


Theo Thông tư số 09-TT/LB thì người SDLĐ không được tuyển người
CTN từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi để làm các công việc cấm sử dụng lao
động CTN. Với các trẻ em dưới 15 tuổi, người SDLĐ chỉ được nhận các em
vào làm các nghề, công việc theo Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH nhưng
phải đảm bảo các điều kiện mà Thông tư này đã quy định. Riêng đối với các
cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm thì Thông tư

liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH - BYT quy định danh mục chỗ làm
việc, công việc không được SDLĐ dưới 18 tuổi.
2.1.2. Thực trạng việc làm của người lao động chưa thành niên
Công việc mà người lao động CTN thực hiện khá đa dạng và với phạm
vi trải dài trên khắp đất nước, tập trung chủ yếu trong các cơ sở dịch vụ và
đơn vị sản xuất nhỏ của tư nhân như: làm thợ phụ nghề thủ công; nhân viên
trong các nhà hàng, quán ăn khách sạn nhỏ; phu cửu vạn tại bến tàu, bến xe,
chợ hoặc các khu du lịch. Do lao động nhiều mà thời gian dành cho học hành
và rèn luyện đạo đức, thể chất của các em bị thu hẹp thậm chí là không có nên
rất nhiều em không biết chữ, bị suy dinh dưỡng hoặc suy thoái về đạo đức lối
sống, nghiện ma túy, hoạt động mại dâm hoặc hoạt động tội phạm.
2.3. Pháp luật về hợp đồng lao động và tình hình thực hiện các quy định của
pháp luật hợp đồng lao động đối với người chưa thành niên
2.3.1. Pháp luật về hợp đồng lao động cho người lao động chưa thành niên
a. Quy định chung về hợp đồng lao động
Ngoài BLLĐ năm 2012, vấn đề HĐLĐ còn được quy định tại:
Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động.
=> Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2013 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động.
- Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
=> Thông tư 23/2015/TT-BLĐTBXH ngày 23/6/2015 của Bộ Lao độngThương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định
05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
Theo đó HĐLĐ có 3 loại HĐLĐ không xác định thời, hợp đồng xác định thời
hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng và HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công
việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. HĐLĐ có thời hạn từ 03 tháng trở
lên thì phải lập thành văn bản.

2.3.1.2. Các quy định riêng về hợp đồng lao động áp dụng cho người lao động
chưa thành niên
Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ngày 11 tháng 06 năm 2013 quy định
danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc, thì việc


giao kết HĐLĐ phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người đỡ
đầu của người đó mới có giá trị. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, cha mẹ
hoặc người giám hộ của các em được quyền giám sát, theo dõi việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của con em mình.
2.3.2. Tình hình giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng lao động đối với
người lao động chưa thành niên
Tình trạng sử dụng lao động CTN để làm công việc mang tính chất thường
xuyên kéo dài trên 03 tháng mà không ký HĐLĐ diễn ra khá phổ biến ở hầu
khắp các đơn vị SDLĐ tư nhân. Không có hợp đồng, người SDLĐ sẽ rất tùy
tiện trong hành xử với người lao động. Những vi phạm về giao kết, thực hiện
và chấm dứt hợp đồng diễn ra rất phổ biến trong đó có cả đối với người lao
động CTN và dường như nằm ngoài khả năng kiểm soát của các cơ quan quản
lý lao động.
2.4. Pháp luật về tiền lương cho người lao động chưa thành niên và thực
trạng áp dụng
2.4.1. Pháp luật về tiền lương cho người lao động chưa thành niên
2.4.1.1. Quy định chung về tiền lương cho người lao động
Điều 90 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định tiền lương của người lao động
do hai bên thỏa thuận trong HĐLĐ và được trả theo năng suất lao động, chất
lượng và hiệu quả công việc. Người lao động làm thêm giờ thì được trả lương
làm thêm giờ. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng lương ngừng việc,
tiền phụ cấp, tiền thưởng, được nâng bậc và các chế độ khuyến khích được trả
vào lương khác của người SDLĐ.
2.4.1.2. Các quy định riêng về tiền lương áp dụng đối với người lao động

chưa thành niên
Đối với người lao động CTN đang học nghề, tập nghề, nếu trực tiếp làm ra
sản phẩm thì được trả lương nhưng không được thấp hơn 70% mức lương cấp
bậc của người lao động cùng làm công việc đó.
2.4.2. Thực trạng áp dụng quy định về tiền lương đối với người lao động chưa
thành niên
Tiền lương là lĩnh vực chủ yếu bị người SDLĐ vi phạm thể hiện ở nhiều
dạng như chậm trễ trả lương, trả lương thấp, trả lương cao nhưng tìm cách để
phạt hoặc khấu trừ, không trả lương làm thêm giờ hoặc trả nhưng không đạt ở
mức tối thiểu. Do đó, việc đảm bảo cho tái sản xuất sức lao động và sự phát
triển bình thường của các em sẽ bị ảnh hưởng.
2.4.3. Pháp luật quy định về danh mục các công việc, nơi làm việc cấm sử
dụng lao động chưa thành niên
Ngày 10/06/2013 Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã ra Thông tư
10/2013/ TT- BLĐTBXH luật quy định về danh mục các công việc, nơi làm
việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên kèm theo như sau:


CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NLĐ CTN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ BẢO VỆ NLĐ CTN
1. Thực trạng sử dụng lao động chưa thành niên
1.1. Sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam
Theo kết quả khảo sát quốc gia về lao động chưa thành niên do Tổng
cục Thống kê phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam và
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thực hiện gần đây cho thấy, Việt Nam có
khoảng 1,75 triệu lao động chưa thành niên (có độ tuổi từ 5 tuổi đến 17 tuổi).
Trong tổng lao động là người chưa thành niên, có tới 85% lao động chưa
thành niên sinh sống ở nông thôn và 15% ở thành thị; 67% tham gia lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp, 16,6% nhóm ngành dịch vụ và 15,8% nhóm xây

dựng, công nghiệp.
Thực tế hiện nay, một bộ phận lao động là người chưa thành niên làm việc
trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều dễ bị tai nạn, nguy hiểm, điều
kiện làm việc quá nóng, quá lạnh, môi trường có hoá chất độc hại và các tổn
thương khác đến sự phát triển thể chất của người chưa thành niên. Thậm chí,
nhiều trường hợp phải làm việc các nghề cấm sử dụng lao động chưa thành
niên hoặc điều kiện lao động có hại. Số liệu thống kê cũng cho thấy, có
khoảng 933 ngàn trẻ em là người chưa thành niên làm việc ở những nơi có
nguy cơ bị bóc lột và bị xâm hại, trong đó có 11,6% lao động phải dịch
chuyển nơi làm liên tục; gần 3,9% người chưa thành niên làm việc tại các nhà
máy, xưởng sản xuất; trên 2,3% làm việc tại nhà khách hàng, 1,47% làm việc
tại các nhà hàng, quán, bar, khách sạn; khoảng 2,45% trẻ em là người chưa
thành niên phải làm việc tại các phố chợ. Các địa điểm làm việc khó khăn như
mỏ đá, công trường xây dựng, xưởng sản xuất, hoặc môi trường nhạy cảm
như cửa hàng, quán, bar, nhà hàng, khách sạn chủ yếu là người chưa thành
niên ở nhóm từ 15 tuổi đến 17 tuổi.
Mặc dù, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phòng ngừa và
giảm thiểu lao động chưa thành niên, xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách
vững chắc để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, đồng thời, cũng
đã thực hiện một số chương trình, dự án cấp trung ương và địa phương để
giảm thiểu lao động chưa thành niên. Nhiều mô hình được triển khai thí điểm
tại một số địa phương đã cải thiện điều kiện lao động và an toàn vệ sinh lao
động, môi trường làng nghề, hoạt động du lịch và các hoạt động trong nông
nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, lao động chưa thành niên vẫn còn tồn tại ở


một số nơi, đặc biệt trong khu vực kinh tế phi chính thức. Tình trạng này đã
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về tâm lý, sức khoẻ của người chưa
thành niên, hạn chế cơ hội học tập và ảnh hưởng đến cơ hội có việc làm bền
vững của họ trong tương lai. Để bảo vệ và tạo điều kiện cho người chưa thành

niên vừa có thể tham gia quan hệ lao động lại không ảnh hưởng đến sự phát
triển thể lực và trí lực, pháp luật về lao động hiện hành của Việt Nam cho
phép đối tượng này được tham gia vào những quan hệ lao động phù hợp với
sức khỏe và năng lực của họ, đồng thời nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao
động của người chưa thành niên vào làm những công việc năng nhọc, độc hại,
nguy hiểm, làm việc quá sức. Đối với lao động chưa thành niên, quy chế lao
động riêng được quy định nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thể
lực, trí lực của họ. Việc cho phép và tạo điều kiện cho họ tham gia quan hệ lao
động là một bước tập dượt về chuyên môn tay nghề, về ý thức tổ chức kỷ luật
trước khi trở thành chủ nhân của xã hội.
1.2. Sử dụng lao động chưa thành niên trên địa bàn ……..
Trong những năm qua được sự tuyên truyền phổ piến giáo dục pháp luật của
cả hệ thống chính trị, các phương tiện thông tin đại chúng và của toàn thể xã
hội nên tình trạng sử dụng lao động là người CTN ở tỉnh Thái Nguyên cơ bản
chấp hành đúng phát luật. Tuy nhiên vẫn còn một số ít chủ sử dụng lao động
vì chạy theo lợi nhuận bất chấp các quy định của pháp luật sử dụng lao động
CTN vào những công việc không phù hợp chủ yếu là ở nông thôn, vùng sâu
vùng xa nơi trình độ dân trí còn thấp, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Bên
cạnh đó do người lao động CTN và gia đình họ vì không có việc làm, không
có điều khiện đi học nên chấp nhận làm việc trái với quy định của pháp luật.
Tình trạng sử dụng lao động CTN trên nhiều lĩnh vực công việc như: làm việc
ở các công trường xây dựng, các mỏ khai khoáng, phục vụ các nhà hàng, quán
Bar, các cơ sở kinh doanh, khai thác lâm sản…
Ngoài ra còn phổ biến tinh trạng do các doanh nghiệp thiếu lao động nên rễ
dãi trong thẩm định hồ sơ xin việc nên một số người lao động CTN đã mượn
giấy tờ của người thành niên sau đó gián ảnh của mình vào để đi xin việc,
trong đó có nhiều công việc rất nguy hiểm, và điều kiện, thời gian làm việc
không phù hợp với người chưa thành niên.
1.3. Nguyên nhân của tình trạng lao động trẻ em
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lao động trẻ em, dưới đây liệt kê

một số nguyên nhân chủ yếu:
a. Nghèo đói là nguyên nhân cội rễ của lao động trẻ em, những hoàn cảnh như
gia đình đói ăn thiếu mặc, hoặc bản thân côi cút bơ vơ … là lý do đẩy tuổi thơ
vào con đường mưu sinh làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, rủi ro hoặc
bất công. Tổ chức Lao động Quốc tế ILO nhấn mạnh: lao động trẻ em liên
quan chặt chẽ đến sự nghèo đói, và dẫn đến hậu quả là số trẻ được đến trường
bị giảm, số trẻ thất học, mù chữ thì tăng.


b. Một bộ phận trẻ em buộc phải di cư theo gia đình đến các thành phố lớn
tìm kiếm việc làm do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá và mất đất sản xuất
của những hộ gia đình sống ở các vùng ven đô thị;
c. Một bộ phận lao động trẻ em khác tham gia lao động do những biến cố lớn
của gia đình (cha mẹ bất hòa, ly hôn hoặc do mải miết làm giàu, bị hút theo
những ma lực khác nên bỏ mặc con cái … ), nhóm này tập trung nhiều ở lao
động trẻ em tự làm (trẻ em đường phố);
d. Một bộ phận không nhỏ các chủ doanh nghiệp tư nhân vì muốn tiết kiệm
chi phí sản xuất đã sử dụng nhiều lao động vị thành niên với tiền công rẻ mạt,
trường hợp này khá phổ biến tại các cơ sở trong ngành công nghiệp dệt may
hoặc giày da;
đ. Sự phát triển của các khu vực du lịch và đa dạng hoá các loại hình du lịch
cũng là nguyên nhân đẫn đến lao động trẻ em gia tăng trong các hoạt động tự
làm như bán hàng rong, đồ lưu niệm
e. Một bộ phận dân cư nông thôn do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về điều
kiện làm việc, về nguy cơ tiềm ẩn của việc trẻ em tham gia lao động, vì ngộ
nhận vào việc ‘dễ kiếm tiền ở thành phố” đã sẵn sàng để con em bỏ học đi
làm.
Từ những văn bản pháp luật lao động đầu tiên của Nhà nước ta đã có những
quy định chế độ lao động riêng đối với lao động là người chưa thành niên. Ví
dụ: Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/03/1947 quy định các xưởng kỹ nghệ, hầm mỏ

không được sử dụng trẻ em dưới 12 tuổi làm việc. Người Lao động có quyền
yêu cầu người chủ phải thay đổi hoặc thôi không cho trẻ em từ 12 tuổi đến 15
tuổi làm những công việc quá sức mình sau khi có sự xem xét của thầy thuốc
nhà nước. Nghiêm cấm trẻ em trai dưới 15 tuổi và phụ nữ bất kỳ tuổi nào làm
những công việc dưới hầm mỏ hoặc công việc độc hại, nguy hiểm mà Nhà
nước đã quy định; không được sử dụng trẻ em làm ca đêm; thời gian nghỉ
đêm của lao động trẻ em dưới 18 tuổi ít nhất là 11 giờ liên tiếp... Các văn bản
pháp luật lao động sau đó như Pháp lệnh Hợp đồng lao động năm 1990, Pháp
lệnh bảo hộ lao động năm 1991, Nghị định 233/HĐBT ngày 22/06/1990 của
Hội đồng Bộ trưởng về ban hành quy chế lao động đối với các xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài..., cũng có quy định về độ tuổi tham gia quan hệ lao
động của người lao động chưa thành niên, nhất là trong lĩnh vực an toàn lao
động, vệ sinh lao động, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi...
Kế thừa những quy định trên, pháp luật lao động Việt Nam hiện hành một mặt
vừa tổng hợp các quy định này, vừa có những quy định mới đối với người lao
động chưa thành niên. Bộ luật Lao động năm 2012 đã dành Mục 1 của
Chương XI với năm điều (từ Điều 161 đến Điều 165) để quy định riêng về
chế độ lao động đối với người chưa thành niên, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của những người lao động này khi tham gia quan hệ lao động. Về
nguyên tắc, người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa
thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát
triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người


lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập
trong quá trình lao động. Khi sử dụng người lao động chưa thành niên, người
sử dụng lao động phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng
năm sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ
và xuất trình khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động chưa thành niên làm

những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc
ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành; không được sử dụng
người chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất
tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác; phải tạo cơ hội để người
lao động chưa thành niên và người dưới 15 tuổi tham gia lao động được học
văn hoá, bố trí giờ làm việc không ảnh hưởng đến việc học tập ở trường của
người lao động và đảm bảo điều kiện làm việc, an toàn và vệ sinh lao động
phù hợp với lứa tuổi của lao động chưa thành niên. Cụ thể, người sử dụng lao
động không được sử dụng lao động chưa thành niên trong các công việc sau:
Mang, vác các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; sản
xuất và sử dụng, vận chuyển các hoá chất, khí gas, chất nổ; bảo trì, bảo dưỡng
thiết bị, máy móc; phá dỡ công trình xây dựng; nấu, thổi, đúc, cán, dập, và
hàn kim loại; lặn biển, đánh bắt cá xa bờ; và các công việc khác gây tổn hại
cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên.
Người sử dụng lao động cũng không được tuyển dụng lao động chưa thành
niên làm việc ở các môi trường như: Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang
động, trong đường hầm; công trường xây dựng; cơ sở giết mổ gia súc; sòng
bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm
hơi và phòng xoa bóp và nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an
toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên.
Khi tuyển dụng lao động là người dưới 15 tuổi, người sử dụng lao động cần
lưu ý: Chỉ được tuyển dụng vào làm các công việc nhẹ theo danh mục của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quy định; phải ký kết hợp đồng lao động
bằng văn bản với người đại diện theo pháp luật và phải được sự đồng ý của
người lao động; khi tuyển dụng phải có giấy khám sức khoẻ của cơ sở khám
chữa bệnh có thẩm quyền xác nhận sức khoẻ phù hợp công việc; tổ chức kiểm
tra sức khoẻ định kỳ ít nhất 6 tháng 1 lần; phải thông báo bằng văn bản trong
vòng 30 ngày từ ngày bắt đầu tuyển dụng vào làm việc và thực hiện báo cáo
hàng năm về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp tỉnh nơi cơ sở đặt trụ

sở chính.
Thời giờ làm việc của người lao động chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần; đối với
người dưới 15 tuổi không được quá 4 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01
tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm.
Đối với những người lao động dưới 13 tuổi, chỉ có thể tham gia các công việc
liên quan đến năng khiếu trong các lĩnh vực nghệ thuật và thể thao như: Diễn


viên, múa, hát, xiếc, điện ảnh, sân khấu kịch, tuồng, chèo, cải lương, múa rối
(trừ múa rối dưới nước); các vận động viên năng khiếu thể dục dụng cụ, bơi
lội, điền kinh (trừ tạ xích), bóng bàn, cầu lông, bóng rổ, bóng ném, bi-a, bóng
đá, các môn võ, đá cầu, cầu mây, cờ vua, cờ tướng, bóng chuyền... Hoặc
những công việc nhẹ chủ yếu liên quan đến các ngành nghề truyền thống, thủ
công mỹ nghệ như: Chấm men gốm, cưa vỏ trai, vẽ tranh sơn mài, làm giấy
dó, nón lá, se nhang, chấm nón, dệt chiếu, làm trống, dệt thổ cẩm, làm bún
gạo, giá đỗ, bánh đa...; các nghề thủ công mỹ nghệ như thêu ren, mộc mỹ
nghệ, làm lược sừng, đan lưới vó, làm tranh Đông Hồ, nặn tò he, làm các đồ
gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như mây, tre, nứa,
dừa, chuối, bèo lục bình, nuôi tằm, gói kẹo dừa.
Các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về chế độ lao động đối với
người chưa thành niên được xử lý như sau:
- Phạt cảnh cáo đối với người sử dụng lao động có hành vi không lập sổ theo
dõi riêng khi sử dụng lao động chưa thành niên hoặc không xuất trình sổ theo
dõi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với người sử dụng
lao động khi sử dụng người dưới 15 tuổi mà không ký kết hợp đồng lao động
bằng văn bản với người đại diện theo pháp luật; sử dụng lao động chưa thành
niên làm việc quá thời giờ làm việc theo quy định pháp luật lao động; sử dụng
người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ

một số nghề, công việc được pháp luật cho phép.
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng
lao động khi sử dụng lao động là người chưa thành niên làm công việc, tại nơi
làm việc bị cấm sử dụng theo quy định của pháp luật; sử dụng người dưới 15
tuổi làm công việc ngoài danh mục được pháp luật cho phép.
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 cũng đã quy định về tội “Vi phạm
quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi” tại Điều 296, theo đó,
những người sử dụng người dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước
quy định có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm trong
các trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người
trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp
phạm tội hai lần trở lên hoặc đối với 02 người trở lên; làm chết 01 người hoặc
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 01 người với tỷ lệ tổn thương
cơ thể 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02
người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; gây thương


tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của những người này 61% trở lên.
Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
Làm chết hai người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng
tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên. Người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
1.4. Pháp luật về xử lý tình trạng sử dụng lao động chưa thành niên hiện nay
Đánh giá chung về các biện pháp chế tài xử lý thực trạng sử dụng lao động
chưa thành niên hiện nay có thể thấy, các quy định pháp luật là khá toàn diện,
thậm chí mức phạt trong một số trường hợp cũng rất nặng. Vấn đề còn lại là
các cơ quan quản lý nhà nước về lao động tại các địa phương phải phát huy
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc chấm dứt các hành vi sử
dụng lao động là người chưa thành niên trái pháp luật. Để làm được điều này,
các cơ quan đó phải tích cực công tác thanh tra, kiểm tra, nắm địa bàn mình
quản lý để kịp thời phát hiện hành vi vi phạm và xử lý các đối tượng vi phạm
theo quy định pháp luật. Thanh tra Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội
cần lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm tại doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất có sử dụng lao động trẻ em. Quá trình thực hiện cần kết hợp chặt chẽ với
các cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể địa phương nơi doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất đóng trụ sở. Cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu cụ thể và thống nhất,
đồng bộ để có thể theo dõi và cập nhật số liệu. Xây dựng mạng lưới bảo vệ
lao động chưa thành niên dựa vào cộng đồng, trong đó xác định rõ trách
nhiệm, vai trò của chính quyền, gia đình, nhà trường, người sử dụng lao động
trong quá trình ngăn chặn tình trạng bóc lột sức lao động của người chưa
thành niên. Tăng cường hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật về các
quy định của pháp luật lao động nói chung và các quy định đối với lao động
chưa thành niên nói riêng. Phát triển các hệ thống dịch vụ trợ giúp lao động
chưa thành niên thông qua xây dựng các mô hình can thiệp tại địa phương và
thiết lập mạng lưới trợ giúp cộng đồng, đặc biệt tại tuyến cơ sở. Kết hợp đồng
bộ các chính sách cụ thể để hỗ trợ đối tượng lao động chưa thành niên về kinh
tế, giáo dục, định hướng nghề nghiệp, hỗ trợ việc làm, chăm sóc sức khỏe.
Đồng thời khuyến khích các hoạt động đấu tranh, phát hiện và tố giác về các
trường hợp sử dụng lao động chưa thành niên trên địa bàn. Ngoài ra, cần có
chế tài mạnh đối với những người sử dụng lao động chưa thành niên vào các
công việc độc hại, nguy hiểm, thậm chí có thể truy tố trách nhiệm hình sự

trong
trong
nhng
.
Bên cạnh đó, về lâu dài, chính quyền đoàn thể, địa phương cần có sự quan
tâm, hỗ trợ các gia đình có trẻ lao động sớm, tạo điều kiện để các em được
học hành đến nơi đến chốn, được vui chơi, giúp các em phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần để có được tương lai tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó, phải tăng
cường công tác tuyên truyền cho các bậc cha mẹ thực sự hiểu rõ vai trò, trách


nhiệm của bản thân đối với con em mình. Nhà trường và xã hội cũng đều phải
có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ các em, đảm bảo các em được
quyền vui chơi, giải trí, học tập trước khi bước vào tuổi lao động.
1.5. Một số đề xuất kiến nghị
Đề xuất yêu cầu người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động
chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự
phát triển thể lực, trí lực, nhân cách. Thêm vào đó, các nguyên tắc cũng như
quy định được đưa ra khá cụ thể nhằm đảm bảo cho người chưa thành niên
lao động trong môi trường làm việc ổn định, phù hợp như:
Không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới
nhân cách của họ;
Không được sử dụng người chưa thành niên sản xuất và kinh doanh cồn,
rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác;
Cấm sử dụng lao động dưới 15 tuổi như công việc: mang, vác các vật nặng
vượt quá thể trạng; sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất
nổ; bảo trì, bảo dưỡng thiết bị máy móc; phá dỡ các công trình xây dựng…
Và đặc biệt, thời gian làm việc cho lao động chưa thành niên cũng phải thật
hạn chế: Đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và

40 giờ trong 01 tuần; Người dưới 15 tuổi không được quá 4 giờ trong 01 ngày
và 20 giờ trong 01 tuần và không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào
ban đêm. Đây là những quy định được Bộ lao động - thương binh và xã hội
đánh giá cao, mang tính tích cực. Song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số
nhược điểm và bất cập.
Thực tế hiện nay, lao động chưa thành niên vẫn còn thiếu hiểu biết về quyền
lợi của mình khi tham gia vào quan hệ lao động. Điển hình như họ chưa biết
được tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng lao động, phần lớn quan hệ lao
động chỉ được xây dựng bằng lời nói và dĩ nhiên không có sự ràng buộc nào
về mặt pháp lý giữa người sử dụng lao động và lao động là người chưa thành
niên. Hoặc có thể ký hợp đồng nhưng chỉ là việc đưa hợp đồng rồi ký tên vào
thôi chứ không hiểu hoặc không biết đến một số quyền lợi mà mình đáng
được hưởng như tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, chế độ làm việc, nghỉ ngơi.
Dẫn đến, tình trạng vi phạm phạm pháp luật về sử dụng lao động chưa thành
niên rất nhiều song lại khó phát hiện, không có cơ sở chứng minh người lao
động chưa thành niên bị bóc lột sức lao động. Phổ biến nhất là các cơ sở sử
dụng lao động trong độ tuổi chưa thành niên hầu như không đăng ký khai
trình lao động với cơ quan quản lý lao động địa phương, do đó gặp khó khăn
trong công tác quản lý, giám sát.
Đề nghị bổ sung chế tài đối với trường hợp doanh nghiệp sử dụng lao động
chưa thành niên nhưng không ký kết hợp đồng lao động theo đúng quy định
và không thực hiện khai trình lao động cho cơ quan quản lý lao động tại địa
phương.


Cần điều chỉnh thống nhất các quy định liên quan để xác định cụ thể đối với
nhóm người lao động từ 15 đến dưới 16 tuổi tham gia quan hệ lao động.
Khi sử dụng người lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải lập
sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang
làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi cơ quan

nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Người sử dụng lao động khi tuyển dụng lao động là người dưới 15 tuổi cần
lưu ý các điều kiện sau:
- Chỉ được tuyển dụng vào làm các công việc nhẹ theo danh mục của Bộ
LĐTBXH quy định.
- Phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người đại diện theo pháp
luật và phải được sự đồng ý của người lao động.
- Khi tuyển dụng phải có giấy khám sức khoẻ của cơ sở khám chữa bệnh có
thẩm quyền xác nhận sức khoẻ phù hợp công việc; tổ chức kiểm tra sức khoẻ
định kỳ ít nhất 6 tháng 1 lần.
- Phải thông báo bằng văn bản về Sở LĐTBXH cấp tỉnh nơi cơ sở đặt trụ sở
chính trong vòng 30 ngày từ ngày bắt đầu tuyển dụng vào làm việc.
- Hằng năm, báo cáo việc sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc cùng với báo
cáo công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động về Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội


KẾT LUẬN
Lao động là một loại hàng hóa đặc biệt, quan trọng nhất trong mọi hoạt
động sản xuất – kinh doanh. Trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay, các
máy móc không ngừng được sáng tạo và phát triển nhằm nâng cao năng suất
lao động. Tuy nhiên, dù máy móc hiện đại đến đâu thì cũng không thể thay
thế được con người trong mọi lĩnh vực. Khoa học đã chứng minh chỉ khi con
người ta trưởng thành về sức khỏe và kỹ năng có thể lao động tốt được, nếu
lao động vất vả, độc hại khi chưa thành niên thì hậu quả có thể phải ngánh
chịu lâu dài. Dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn luật pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những quy định cụ thể độ tuổi lao động,
công việc, nơi làm việc cho những người lao động chưa thành niên. Người lao
động CTN và người sử dụng lao động cần nghiêm chỉnh chấp hành với
phương châm “ sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”

Trên đây là bài báo cáo thực tập của em, trong quá trình tìm hiểu bài
viết còn nhiều thiếu xót rất mong nhận được sự nhận xét của thầy cô để bài
báo cáo của em được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Bộ luật dân sư năm 2015
2. Giáo trình Luật lao động.
3. Giáo trình Luật lao động và an sinh xã hội
4. Bộ luật lao động 2012
5. Tạp chí Luật học
6. />

7. />8. moj.gov.vn

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
(Dành cho giáo viên ghi)
Họ và tên Giáo viên hướng dẫn:
Khoa:

Nhận xét:
- Về thái độ:

- Về nội dung Báo cáo thực tập tốt nghiệp:
+ Ưu điểm:
+ Hạn chế:


- Nhận xét chung:


Ngày
nhận
Báo
………………………………….

cáo

Thực

tập

tốt

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

Phạm Thị Quỳnh Trang

nghiệp:



×