Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Báo cáo thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự (luật tố tụng hình sự) 17

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.75 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
I Khái quát về thẩm quyền khởi tổ vụ án hình sự..................................................1
1. Khái niệm thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự......................................................1
2 Ý nghĩa của Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự...................................................1
II Quy định của pháp luật về thẩm

quyền khỏi tổ vụ án hình sự......................2

1/ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sựcủa cơ quan điều tra.................................2

1.1/ Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân:.... 2
1.2/ Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân...........4
1.3/ Thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC.......................6
2/ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sự của Viện kiểm sát....................................7

3/ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sự của To à án...............................................8

4/ Thẩm quyền khởi tố vụ án hình

sự của các cơ quan khác đuợc giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra....................................................................9
III Hướng hoàn thiện pháp luật về Thẩm quyền khỏi tổ vụ án hình sự.............12
KẾT LUẬN..................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................16




Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Có vụ án
thì trải qua tất cả các giai đoạn tố tụng có vụ án thì ít hơn, có thể dừng lại ở bất kì một
giai đoạn nào1; nhung vụ án nào cũng có giai đoạn khởi tố vụ án. Đây là giai đoạn mở
đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm
từ kết quả xác định này mà chủ thể có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố hoặc quyết
định không khởi tố vụ án. Việc Nhà nuớc trao quyền cho chủ thể nào, pháp luật quy
định cho chủ thể nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là một vấn đề quan trọng,
nó ảnh huởng tới cả quá trình giải quyết vụ án. Nghiên cứu về thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành qua đó phát hiện ra
những điểm chua đuợc và hoàn thiện nó là một vấn đề nghiên cứu chứa đựng nhiều
thực tiễn pháp lý, giúp chúng ta hiểu rõ hơn vấn đề này.
I Khái quát về thẳm quyền khỏi tố vu án hình sư
1 ■ Khái niêm thầm quyền khởi tố vu án hình sư
Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các
cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nuớc do luật pháp quy định2, khởi tố vụ
án hình sự là hành vi tố tụng của chủ thể có thẩm quyền làm phát sinh quan hệ tố tụng
giữa cơ quan có thẩm quyền và nguời tham gia tố tụng là tiền đề cho quá trình điều tra
làm rõ hành vi phạm tội và nguời thực hiện tội phạm.
Vậy, Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là quyền hạn mà pháp luật quy định
cho những chủ thể nhất định đuợc ra quyết định (thực hiện hành vi tố tụng) sau khi xác
định một sự kiện pháp lý xảy ra trong thực tế là có dấu hiệu của những tội phạm cụ thể
đuợc quy định trong Bộ luật hình sự nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu
cho việc thực hiện những hành vi tố tụng hình sự cần thiết để làm rõ sự thật khách
quan về sự kiện đó.
2 Ý nghĩa của Thầm quyền khởi tố vu án hình su.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án. Đây là tiền đề, cơ sở để thực hiện các giai đoạn tiếp theo. Việc xác định
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự cũng mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.

+/ Pháp luật quy định cho những chủ thể nhất định có thẩm quyền khởi tố
nhằm mục đích: trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, phát hiện dấu
1Theo Trang 10, 11 Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội - 2006.
2Theo http:www.luat.xalo.vn/thuat-ngu-phap-ly/

1


hiệu của tội phạm thì chủ thể có thẩm quyền này sẽ đuợc ra quyết định khởi tố vụ án,
để phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội và nguời thực hiện tội phạm.
+/ Quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự một cách rõ ràng sẽ làm giảm đi
tình trạng chồng lấn trong thầm quyền khởi tố vụ án hình sự giữa các chủ thể.
+/ Xác định đúng chủ thể có thẩm quyền khởi tố là xác định ai, cơ quan nào là
nguời sẽ ra các quyết định (thực hiện các hành vi tố tụng) để giải quyết những yêu cầu
ở giai đoạn khởi tố vụ án.
II Quy định của pháp luật về thẳm quyền khỏi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự đuợc quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 (BLTTHS 2003) và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 (PLTCĐTHS
2004), theo đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự gồm: Cơ quan điều tra
(CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án và các cơ quan khác đuợc giao nhiệm vụ điều
tra.
1/ Thầm quyền khởi tố vu án hình su của cơ quan điều tra.
Theo quy định của BLTTHS 2003 và PLTCĐTHS 2004, CQĐT có thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự bao gồm: CQĐT trong công an nhân dân, CQĐT trong quân đội
nhân dân, CQĐT thuộc VKSNDTC. Thẩm quyền khởi tố của các cơ quan này khác
nhau, cụ thể:
1.1/ Thầm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân:
Theo tại Khoản 1 Điều 104 và Khoản 1 Điều 110 thì cần hiểu rằng: Cơ quan
điều tra trong Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố (ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự) đối với tất cả các tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của

Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Xuất phát từ nguyên tắc chung CQĐT cấp nào thì sẽ khởi tố những vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp đó, pháp luật BLTTHS hiện hành đã có sự
phân định tuơng đối rõ ràng thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các CQĐT trong
công an nhân dân. Theo quy định tại Điều 11 PLTCĐTHS 2004, thẩm quyền của cơ
quan cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân nhu sau:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố
vụ án hình sự về các tội quy định tại các chuơng từ Chuơng XII đến
Chương XXII của BLHS, trừ các tội thuộc thẩm quyền khởi tố của CQĐT thuộc
VKSNDTC và cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân.
Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân được tổ chức ở ba cấp: Bộ
công an, cấp tỉnh và cấp huyện.
+ Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an khởi tố vụ án hình sự về các tội đặc
2


biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra
cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình1. Tội phạm phức tạp là tội phạm có nhiều tính tiết phải xác minh
hoặc do nhân thân vị thế xã hội của người thực hiện hành vi phạm tội có những điểm
khác biệt so với trường hợp bình thường do vụ án có liên quan đến nhiều nghành,
nhiều cấp địa phương. Ví du: ngày 22/1/2010, cơ quan cảnh sát điều tra, Bộ Công an
đã khởi tố vụ án về tội “môi giới hối lộ và đưa hối lộ”; sau đó đã khởi tố bị can đối với
Trần Văn Quế (tức Minh "đầu bò"), Phạm Văn Long, Hoàng Thị Lộc về tội môi giới
hối lộ và đưa hối lộ 2
+ Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh khởi tố vụ án hình sự về các tội khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, hoặc các tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện nhưng xét tấy cần trực tiếp

điều tra. Ví du: Ngày 15-6-2010, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước
đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng”3
+ Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện khởi tố vụ án hình sự về các tội khi các
tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện, trừ các tội thuộc thẩm
quyền điều tra của CQĐT thuộc VKSNDTC và cơ quan An ninh điều tra trong Công
an nhân dân. Ví du: Chiều 25-2, lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân Nha Trang xác nhận
Cảnh sát điều tra Công an TP Nha Trang vừa ra quyết định khởi tố vụ án “gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ” xảy ra
ngày 24-4-2010 tại xã Vĩnh Phương, Nha Trang4.
Đây là điểm mới trong quy định của BLTTHS 2003 và PLTCĐTHS 2004 so
với quy định trong các văn bản pháp luật trước đây. Trước đây theo quy định tại Điều
8 và Điều 9 PLTCĐTHS 1989, thẩm quyền điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra công
an cấp huyện, chỉ đuợc điều tra, xét xử đối với tội phạm mà BLHS quy định hình phạt
từ 7 năm tù trở xuống. Hiện nay, theo quy định tại Điều 170 của BLTTHS 2003,
TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử đối ới những tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng có mức cao nhất khung hình phạt từ 15
năm tù trở xuống. Do vậy, PLTCĐTHS 2004 quy định CQĐT cấp huyện có thẩm
1Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009
2Trích bài “Điều tra cáo buộc một công an nhận hối lộ 15 tỷ đồng” báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh ngày
11/03/2011
~
3Trích bài “Điều tra làm rõ và truy tố vụ án hơn 1.879m3 gỗ “vô chủ”” báo Bình Phước Online ngày 27/04/2011
4Trích bài “Khởi tố vụ án cảnh sát giao thông gây thương tích” báo Tuổi trẻ Online ngày 25/02/2011

3


quyền khởt tố, điều tra tuơng ứng với thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện.
- Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố

vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm phá hoại hòa
bình, chống loài nguời, tội phạm chiến tranh và các tội phạm theo quy định tại các
Điều: 180, 181, 221, 222, 223, 230, 231, 232, 236, 263, 264, 274 và 275 của BLHS.
Ví du: ngày 28-4-2011, Cơ quan An ninh điều tra- Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành
lệnh bắt, khám xét và tạm giam Nguyễn Công Chính về tội “Phá hoại chính sách đoàn
kết” theo điều 87 Bộ Luật Hình sự.1
- Bộ luật BLTTHS 1988 chua có quy định cụ thể về thẩm quyền của cơ quan
An ninh điều tra trong Công an nhân dân nên trong thực tiễn đã dẫn đến việc tranh
chấp về thẩm quyền. Bộ luật BLTTHS 2003 đã khắc phục những hạn chế này bằng
việc quy định rõ thẩm quyền trong nội bộ CQĐT các cấp, các nghành nhằm hạn chế
bớt việc vi phạm thẩm quyền, giúp cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng.
1.2/ Thầm quyền khởi tố của Co quan điều tra trong quân đôi nhân dân.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS về thẩm quyền khởi tố của các
CQĐT trong Quân đội nhân dân thì thấy rằng có một số điểm khác biệt so với quy
định về thẩm quyền khởi tố của CQĐT trong các nghành khác, đó là đối tuợng phạm
tội thuộc thẩm quyền khởi tố của CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm:
+ Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dẫn quân,
tự vệ phối thuộc chiến đấu trong quân đội ...
+ Những nguời không thuộc các đối tuợng trên mà phạm tội liên quan đến bí
mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội.
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
đối với những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự., và cũng là thẩm
quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra hình sự các cấp tuơng đuơng với
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cùng cấp đó.
Việc phân cấp các CQĐT trong Quân đội nhân dân, theo quy định tại Điều 15
PLTCĐTHS 2004 thì:
1. Cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm
quy định tại các chuông từ Chuông XII đến Chuông XXIII của Bộ luật hình sự khi các
tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự khu vực, trừ các tội phạm

thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung uơng.
2. Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tuơng đuơng điều tra các vụ án hình
1 Trích bài Bắt và tạm giam Nguyễn Công Chính về tội “Phá hoại chính sách đoàn kết” báo baomoi.com ngày
29/04/2011

4


sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án quân sự quân khu và tuơng đuơng hoặc các tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự khu vực nhung xét thấy cần trực tiếp
điều tra. Ví du: Sáng 7/5, Đại tá Phan Đức Nhâm - Chính ủy Bộ chỉ huy Biên phòng
tỉnh Gia Lai đã xác nhận tin về việc cơ quan điều tra hình sự Quân khu V vừa khởi tố
bắt giam Thiếu tá Duơng Văn Nghiệp -Trợ lý Quân lực- Bộ Chỉ huy Biên phòng Gia
Lai. Đại tá Nhâm cho biết Nghiệp bị khởi tố về tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ”, bị tạm giam 4 tháng kể từ ngày 26/4/2007.1
3. Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án hình sự về
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra hình sự quân khu và tuơng đuơng nhung xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội nhân dân khởi tố những tội phạm
đuợc quy định tại các Chuông XI và Chuông XXIV của BLHS. Khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự các cấp, cụ thể:
1. Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tuơng đuơng điều tra các vụ án hình
sự về các tội phạm trên khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân
sự quân khu và tuơng đuơng.
2. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng điều tra các vụ án hình sự về
những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan An ninh điều tra quân khu và tuơng đuơng nhung xét thấy cần trực tiếp
điều tra.
1.3/ Thầm quvèn khởi tố của Cữ quan điều tra thuốc VKSNDTC

Theo quy định của Điều 18 PLTCĐTHS 2004, CQĐT thuộc VKSNDTC có
thẩm quyền khởi tố một số loại tọi xâm phạm hoạt động tu pháp. Hoạt động của các cơ
quan tu pháp có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động chung của Bộ máy nhà nuớc. Những
hành vi phạm tội xảy ra trong hoạt động tu pháp một mặt xâm hại đến úy tín cũng nhu
việc thự hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này, mặt khác xâm phạm tới khách thể
mà luật hình sự bảo vệ.
Không phải tất cả các tội phạm xâm phạm hoạt động tu pháp đều thuộc thẩm
quyền khởi tố vụ án của CQĐT của VKSNDTC mà chỉ có một số loại tội phạm xâm
phạm hoạt động tu pháp mà nguời thực hiện tội phạm là cán bộ thuộc cơ quan tu pháp
mới thuộc thẩm quyền khởi tố của CQĐT của VKSNDTC.
Tuơng tự nhuu các CQĐT trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, CQĐT
của VKSNDTC cũng có thẩm quyền khởi tố căn cứ vào thẩm quyền xét xử của Tòa
1 Trích bài “Khởi tố bắt giam thiếu tá ừọ lý quân lực Bộ chỉ huy Biên phòng Gia Lai” trên báo tin247.com ngày
09/05/2007

5


án. Theo đó:
Cơ quan điều tra của VKSNDTC có thẩm quyền khởi tố vụ án về một số loại
tội phạm xâm phạm hoạt động tu pháp mà nguời phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tu
pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Ví du: Ngày 23.12, cơ
quan điều tra hình sự viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã tống đạt quyết định khởi tố bị
can đối với 2 nguời của vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế chức vụ về hành vi nhận hối lộ.
Cơ quan điều tra của VKS quân sự Trung uơng có thẩm quyền khởi tố những
truờng hợp thuộc thẩm quyền khởi tố của CQĐT của VKSNDTC, khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.
Truớc đây, Điều 18 PLTCĐTHS 1989 quy định CQĐT của VKSND có thẩm
quyền khởi tố đối với các chủ thể thực hiện tội phạm có thể là cán bộ tu pháp hoặc
những nguời khác. Quy định này đã đuợc sửa đổi, Điều 18 PLTCĐTHS 2004 quy định

thẩm quyền khởi tố của CQĐT thuộc VKSNDTC hẹp hơn, đó là chỉ khởi tố vụ án hình
sự về một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tu pháp với điều kiện nguời phạm tội
là cán bộ trong cơ quan tu pháp mà không phải bất kỳ ai. Quy định nhu vậy nhằm bảo
đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự đuợc kịp thời, chính xác khách quan tạo điều kiện
cho VKS có thời gian tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát tu pháp.
Nhận xét về thẩm quyền khỏi tổ vụ án hình sự của Cff quan điều tra. Thẩm
quyền khởi tố vụ án chủ yếu đuợc trao cho các cơ quan điều tra. Đây là lực lượng
chính bảo vệ xã hội, lực lượng tiếp nhận và giải quyết các vấn đề an ninh trật tự, xã
hội, quyền lợi của nhân dân. Pháp luật quy định thẩm quyền khởi tố vụ án rất rộng cho
chủ thể này là phù hợp với công việc, nhiệm vụ của nhóm chủ thể này. Tuy nhiên,
trong thực tế vẫn còn nhiều trường hợp việc khởi tố vụ án hình sự không đúng thẩm
quyền của mình, ví dụ như: Ngày 07/04/2011, cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã
công bố các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam ông Trần Văn
Mười - Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 1. Ông Mười bị bắt
với tội danh "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ". Theo điều 12
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an không có
thẩm quyền điều tra Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ quy
định tại Điều 281 BLHS.
2/ Thầm quyền khởi tố vu án hình su của Viên kiểm sát.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát được quy định tại Khoản
1 Trích bài “Khởi tố vụ án, bắt tạm giam Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” báo Công an nhân dân
ngày 08/04/2011

6


2 Điều 36, Khoản 1 Điều 104, Khoản 1 Điều 112 BLTTHS 2003, ngoài ra thẩm quyền
khởi tố vụ án của VKS còn được quy định tại Khoản 1 Điều 13 luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002.
Khởi tố là một trong các nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân. Thông qua

đó, VKS thực hiện một cách có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự nhằm đảm bảo cho
mọi tội phạm được pháp hiện, tránh tình trạng oan sai đối với người vô tội.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLTTHS 2003 và Khoản 1 Điều 109,
VKS có quyền khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp:
-

Khi kiểm sát khởi tố vụ án mà có căn cứ để huỷ quyết định không khởi tố

vụ án của CQĐT, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây là trường hợp mà quyết định
không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan này không đúng với quy định về căn cứ
không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 107 BLTTHS 2003. Việc quy định thẩm quyền
khởi tố như vậy là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với chức năng kiểm sát.
-

Khi hội đồng xét xử yêu cầu VKS khởi tố vụ án. Trong khi xét xử vụ

án, nếu phát hiện ra người phạm tội mới, đồng phạm mới mà nếu tách riêng ra thành
vụ án mới không làm ảnh hưởng tới sự khách quan, sự thật của vụ án đang giải quyết
thì Tòa án có thể yêu cầu VKS khởi tố vụ án, khi xem xét yêu cầu của Tòa án có căn
cứ pháp luật thì VKS sẽ ra quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều
tra để điều tra vụ án.
Theo quy định tại Điều 87 BLTTHS 1988, khi xác định được dấu hiệu tội phạm
thì CQĐT, VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Với quy định này thì phạm vi
khởi tố của CQĐT, VKS là như nhau. Điều đó dẫn đến tình trang việc khởi tố vụ án bị
chồng chéo, làm giảm hiệu quả của công tác thực hành quền công tố và kiểm sát tư
pháp của VKS. Khắc phục tình trạng này, BLTTHS 2003 đã thu hẹp phạm vi khởi tố
vụ án hình sự của VKS nhằm đảm bảo cho VKS tập trung vào thực hiện chức năng

chính của mình là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Nhận xét về thẩm quyền khởi tổ vụ án hình sự của Viện kiểm sát.
Theo Khoản 1 Điều 103 thì: “Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” “Cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh tin
báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan Nhà nước; nếu xác định có dấu
hiệu tội phạm xảy ra thì quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu có một trong những căn
7


cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự”.
Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp CQĐT không ra văn bản quyết định nào, gây
khó khăn cho công tác kiểm sát. Vì thế cần mở rộng thẩm quyền của VKS trong
trường hợp này.
Điều 112 BLTTHS 2003 có quy định:
“Khi thực hành quyền công tổ trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tổ bị can;... ”. Quy định như trên không thống
nhất với quy định tại Điều 104 vì VKS chỉ được khởi tố vụ án trong hai trường hợp đã
được quy định cụ thể, quy định như trên là không rõ ràng nếu hiểu như BLTTHS 1988
thì VKS có thẩm quyền khởi tố tất cả các vụ án như CQĐT.
3/ Thầm quyền khởi tố vu án hình sư của To à án.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của To à án chỉ thuộc về Hội đồng xét xử.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 BLTTHS 2003 thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
của Hội đồng xét xử mang tính lựa chọn. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc
yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện
đuợc nguời phạm tội mới cần phải điều tra.
Tội phạm mới là hành vi phạm tội mới đuợc phát hiện và chua vị khởi tố vụ án
hình sự. Nguời phạm tội mới là nguời phạm tội chua bị phát hiện hoặc cũng có thể là
đồng phạm trong vụ án dã vị khởi tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu

có căn cứ cho rằng bị cáo có đồng phạm khác thì thẩm phán đuợc phân công làm chủ
tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo Điều 179 BLTTHS 2003.
Tại phiên tòa xét xử nếu xác định bị cáo có đồng phạm thì Hội đồng xét xử ra quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung.
Khi phát hiện tội phạm mới hoặc nguời phạm tội mới tại phiên tào thì không
phải mọi truờng hợp Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án. Nếu tội phạm mới
hoặc nguời phạm tội mới có liên quan đến vụ án đang xét xử, không thể tách ra thành
vụ án độc lập thì giải quyết trong cùng một vụ án để đảm bảo sự thật khách quan toàn
diện và đầy đủ thì Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nhu
vậy, những tội phạm mới hoặc nguời phạm tội mới mà Hội đồng xét xử quyết định
khởi tố phải là những tội, những nguời không liên quan đến vụ án đang xét xử hoặc có
liên quan nhung có thể tách ra giải quyết một cách độc lập.
Nhận xét về thẩm quyền khỏi tổ vụ án hình sự của Tòa án. Thẩm quyền
khởi tố của Tòa án đuợc quy định từ khi có BLTTHS 1988 tại Đoạn 2 Điều 87: “Tòa
án ra quyết định khởi tổ vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện tội phạm
8


hoặc người phạm tội mới cần điều tra” tuy nhiên trong quá trình áp dụng thì rất ít
truờng hợp Tòa án (Hội đồng xét xử) ra quyết định này, điều đó cũng phần nào phản
ánh tính không khả thi của quy định này.
4/ Thầm quyền khởi tố vu án hình su của các cơ quan khác đuơc giao nhiêm vu
tiến hành mốt số hoat đông điều tra.
Theo quy định tại Đoạn 1 Điều 104 BLTTHS 2003 và các Điều 19, 20, 21, 22
của PLTCĐTHS 2004 thì các cơ quan khác có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự gồm:
đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực luợng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Đây là những
cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nuớc trong các lĩnh vực khác nhau nhung do
tính chất đặc thù trong lĩnh vực quản lý và địa bàn hoạt động ở những nơi biên giới,
hải đảo... Vì vậy, pháp luật quy định cho các cơ quan này cũng có thẩm quyền khởi tố

một số vụ án hình sự là hết sức đúng đắn, cần thiết nhằm phát hiện và xử lý kịp thời,
nhanh chóng, chính xác tội
phạm, người phạm tội.
- Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải
quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển.
Các cơ quan nói trên không phải là CQĐT chuyên trách nên pháp luật TTHS
quy định thẩm quyền khởi tố trong phạm vi hạn chế phụ thuộc vào lĩnh vực quản lý
của từng cơ quan. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của những cơ quan này được xác
định theo sự việc và trường hợp pháp hiện tội phạm cụ thể:
“Bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều 119, 120, 153, 154, 172,
180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 236, 263, 264, 273, 274 và 275 của
Bộ luật hình sự xảy ra trong khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên
các vùng biển do Bộ đội biên phòng quản lý”1 mà “Đối với tội phạm ít nghiêm trọng
trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra
quyết định khởi tố vụ án”; “Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố
vụ án” và “chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án”.
Cơ quan Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà
pháp hiện tội phạm quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLHS xảy ra trong khu vực
quản lý của Hải quan thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu, Cục trưởng Cục
1 Điều 1 Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh tổ chức điều ừa hình sự, năm 2009

9


kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan cửa khẩu có quyền:
“Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng

cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án”
“Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc
tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án” và “chuyển
hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án”.
Cơ quan Kiếm lâm khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình
mà phát hiện hành vi phạm tội quy phạm tại các Điều 175, 189, 190, 191, 240, 272 của
BLHS. Ví du: Ngày 6-4-2011, Hạt kiểm lâm huyện Lạc Dương đã khởi tố vụ án hình
sự về tội hủy hoại tại tiểu khu 123, khu vực To Poh, xã Đạ
Chais thuộc lâm phần do Ban quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim và Công ty
TNHH Khánh Giang quản lý1.
Các đơn vị thuộc lực lượng Cảnh sát biển khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh
vực quản lý của mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều 153,
154, 172, 183, 188, 194, 195, 196, 212, 213, 221, 223, 230, 231, 232, 236, 238, 273 và
274 của Bộ luật hình sự xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển quản lý.2
Ngoài ra, đối với Bộ đội biên phòng và lực lượng Cảnh sát biển, PLTCĐTHS
2004 được sửa đổi bổ sung năm 2009 còn quy định thẩm quyền khởi tố theo lãnh thổ.
Bộ đội biên phòng khởi tố vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố
của mình xảy ra ở khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng
biển do Bộ đội biên phòng quản lý. Lực lượng Cảnh sát biển khởi tố vụ án hình sự về
những tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của mình xảy ra trên các vùng biển, thềm
lục địa của Việt Nam do lực lượng Cảnh sát biển quản lý.
Thẩm quyền khỏi tổ vụ án hình sự của các Cff quan khác trong Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan
khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được PLTCĐTHS 2004 quy định rõ
tai các điều 23, 24, 25 cụ thể như sau:
+ Các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát trong Công an nhân dân khi làm
nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền Điều
tra của cơ quan Cảnh sát điều tra quy định tại Điều 11 PLTCĐTHS 2004 thì có thẩm

quyền khởi tố vụ án hình sự. Theo Điều 3 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của
1Trích bài “Vụ hủy hoại thông tại Lạc Dưong, Lâm Đồng, báo tuoitre.vn ngày 0/04/2011
2Điều 2 Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh tổ chức điều ừa hình sự, năm 2009

1
0


pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 ban hành năm 2009 thì thẩm quyền này đã
được mở rộng hơn bao gồm các chủ thể có thẩm quyền: Cục Cảnh sát giao thông
đường bộ - đường sắt, Cục Cảnh sát giao thông đường thuỷ, Cục Cảnh sát phòng cháy,
chữa cháy, Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cục Cảnh sát bảo vệ và
hỗ trợ tư pháp ...
Các cơ quan khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân khi thực hiện
nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thì Cục trưởng cục
an ninh, Trưởng các phòng an ninh của Công an cấp tỉnh ra quyết định khởi tố vụ án.
Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân đuợc giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra nhu nguời chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn hoặc
tuơng đuơng trở lên trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu
hiệu phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT trong Quân dpi đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự thì có quyền khởi tố vụ án hình sự.
Việc quy định của pháp luật nhu trên một mặt giúp cho việc phát hiện tội phạm
đuợc nhanh chóng, chính xác, không bỏ lọt tội phạm, mặt khác thể hiện sự phối hợp
trong hoạt đọng đấu tranh phòng chống tội phạm giữa các CQĐT và các cơ quan đuợc
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều ra vì mục đích phát hiện kịp thời, chính
xác tội phạm, nguời phạm tội.
Nhận xét về thẩm quyền khỏi tổ vụ án hình sự của các cơ quan khác đuợc
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc quy định thẩm quyền khởi tố
cho những chủ thể này là hợp lí với nhiệm vụ của các chủ thể này. về chuyên môn,
nghiệp vụ thì các chủ thể này đáp ứng đuợc yêu cầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình

sự.
III Hướng hoàn thiện pháp luật về Thẳm quyền khỏi tố vụ án hình sư.
Sửa đồi, bồ sung quy định của BLTTHS 2003 theo hướng bỏ thẩm quyền
khỏi tổ vụ án hình sự của Hội đồng xét xử.
Trong thực tiễn, quy định về quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
không được thực hiện bởi những lý do sau:
+ Hội đồng xét xử không có đủ điều kiện kiểm tra, xác minh các thông tin về
tội phạm. Đe khởi tố vụ án hình sự cần phải có quá trình kiểm tra, xác minh các tình
tết có liên quan đến sự việc phát hiện tội phạm, có thể là những tình tiết phức tạp, có
liên quan đến nhiều người, phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm khác nhau, thậm
chí còn phải tiến hành một số hoạt động điều tra có tính chất phức tạp trước khi khởi
tố vụ án hình sự. Như vậy, Hội đồng xét xử không thể có đủ điều kiện để đảm bảo thực
hiện việc này. Hơn nữa, chức năng chính của Tòa án nói chung và Hội đồng xét xử nói
1
1


riêng là xét xử, vì vậy tại phiên tòa các thông tin về tội phạm và người phạm tọi mới
cũng chỉ có thể được phản ánh qua lời khai của người tham gia tố tụng, từ việc xem
xét, đánh giá những tài liệu có trong hồ sơ mà các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập
được trước đó cung cấp và đã biết nhưng chưa đủ căn cứ để xác định dấu hiệu tội
phạm nên đã không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, sẽ là khó chính xác nếu chưa kiểm
tra, xác minh lại những thông tin này bằng các hoạt động ngoài phiên tòa mà đã ra
quyết định khởi tố vụ án.
+ Mục tiêu của khởi tố vụ án hình sự là bảo đảm đuợc yêu cầu phải nhanh
chóng, kịp thời tiến hành các hoạt động tố tụng sau khi khởi tố vụ án hình sự. Nếu
trong truờng hợp các cơ quan khác không phải Hội đồng xét xử khởi tố vụ án thì hoạt
động điều tra đuợc tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án hình sự cho dù quyết định đó
có phải gửi cho VKS để kiểm sát việc khởi tố vụ án. Ngay cả khi chua xác định đuợc
thẩm quyền điều tra thì cơ quan nào phát hiện tội phạm cũng đuợc tiến hành ngay

những hoạt động điều tra cần thiết để kịp thời thu thập chứng cứ của vụ án. Nhung
trong truờng hợp là Hội đồng xét xử khởi tố thì Hội đồng xét xử không có khả năng
tiến hành hoạt động điều tra. Do vậy, quyết định phải đuợc gửi cho VKS xem xét ra
quyết định việc điều tra. Trong truờng hợp xét thấy quyết định trên không có căn cứ
thì VKS kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Thực hiện thủ tục trên mất nhiều thời gian
cũng nhu tạo khó khăn cho việc điều tra thu thập chứng cứ. Vì vậy nên bỏ quy định về
thầm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử vì thực tế quy định này không
có tính khả thi. Với chức năng duy nhất là xét xử, cần tạo điều kiện đẻ Hội đồng xét
xử tập trung hoàn thành tốt chức năng bằng việc bỏ quy định về thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự của Hội đồng xét xử trong BLTTHS 2003.
Nếu tại phiên tòa xét xử xác định bị cáo phạm tội khác hoặc vụ án có đồng
phạm khác thì Hội đồng ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung theo quy định tại
Khoản 2 Điều 179 BLTTHS 2003; nếu phát hiện tội phạm mới hoặc nguời phạm tội
mới cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử làm văn bản yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình
sự.
Sửa đổi, bổ sung quy định của BLTTHS 2003 về thẩm quyền khỏi tố vụ án
hình sự của Viện kiểm sát.
Ngoài việc quy định tại Khoản 1 Điều 104 về quyền khởi tố vụ án hình sự của
VKS, tại Điều 112 BLTTHS 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra cũng có đề cập đến quyền khởi tố vụ án
hình sự của VKS tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều này. Tuy nhiên, quy định tại Điều 112
còn nhiều hạn chế mà theo chúng tôi cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo sự
1
2


thống nhất giữa các quy định của BLTTHS 2003 về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
của VKS.
+/ Tại Khoản 1 Điều 112 BLTTHS 2003 quy định khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra, VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn: Khởi tố vụ án hình

sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này. Quy định tại Khoản 1
Điều 112 BLTTHS 2003 nhu vậy là mâu thuẫn với quy định về quyền khởi tố vụ án
của VKS tại Điều 104 của BLTTHS 2003. Nhu vậy, cần phải sửa đỏi, bổ sung quy
định tại khoản 1 Điều 112 theo huớng xác định cụ thể là VKS có thẩm quyền khởi tố
vụ án chỉ đối với những truờng hợp đã đuợc quy định tại Điều 104.
+/ Quy định tại Khoản 3 Điều 112 về quyền khởi tố vụ án của VKS trong
truờng hợp phát hiện hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm là mâu thuẫn với
quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án của VKS quy định tại điều 104 BLTTHS 2003.
Trong quá trình điều tra, Điều tra viên có thể có những hành vi vi phạm có liên quan
hoặc không có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Nếu hành vi của Điều tra viên có
dấu hiệu của tội phạm xâm phạm hoạt động tu pháp thì việc điều tra vụ án thuộc thẩm
quyền của CQĐT của VKSNDTC. Trong truờng hợp này thẩm quyền khởi tố vụ án chỉ
thuộc về CQĐT của VKSNDTC chứu không thuộc về VKS các cấp nói chung. Vì vậy,
khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, nếu phát hiện hành vi của Điều
tra viên có dấu hiệu của tội phạm xâm phạm hoạt động tu pháp thì VKS tiến hành tố
tụng trong vụ án đó phải làm văn bản yêu cầu CQĐT của VKSNDTC ra quyết định
khởi tố vụ án, chuyển toàn bộ hồ sơ về sự việc có dấu hiệu tội phạm của Điều tra viên
cho cơ quan này xem xét, quyết định. Truông hợp hành vi của Điều tra viên có dấu
hiệu phạm tội khác thì việc điều tra vụ án thuộc thẩm qyền của các CQĐT khác chứ
không thuộc thẩm quyền của CQĐT thuộc VKSNDTC. Trong truờng hợp này, nếu
VKS phát hiện thì cần áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 103 để chuyển giao ngay
các tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và các tài liệu có liên quan cho
CQĐT có thẩm quyền kiểm tra, xác minh và giải quyết.
Truông hợp chuyển hồ sơ cho CQĐT có thẩm quyền kiểm tra, xác minh mà
CQĐT không ra cả hai quyết định: quyết định khởi tố vụ án và quyết định không khởi
tố vụ án, thì cần quy định cho VKS thẩm quyền khởi tố trong truờng hợp này nếu có
đủ cơ sở khẳng định có dấu hiệu tội phạm tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm.
KẾT LUẬN
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật tố tụng về Thẩm quyền

khởi tố vụ án hình sự đã cho ta thấy chủ thể nào có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự.
1
3


Sau khi xác minh có dấu hiệu phạm tội thì chủ thể này sẽ ra quyết định khởi tố vụ án,
để làm cơ sở, tiền đề tiến hành các hoạt động tố tụng khác để giải quyết vụ án. Vai trò
của việc xác định đúng chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án góp phần vào vai trò
chung của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Luật TTHS năm 2003 đã có nhiều quy định
tiến bộ hơn các văn bản pháp luật truớc đó cùng quy định về vấn đề này. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cũng có nhiều điểm còn chua phù hợp với thực tiễn và tính áp dụng còn
chua cao. Trong phạm vi bài viết, có đề xuất một số điểm nhằm hoàn thiện các quy
định này góp phần đua những quy định của pháp luật áp dụng vào thực tế. Ngoài ra,
cũng cần hoàn thiện các cơ chế quản lý cũng nhu các biện pháp tuyên truyền, giáo
dục...để việc áp dụng pháp luật trên thực tế đạt đuợc hiệu quả.

1
4


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Nxb
Tư pháp - 2006.
2. TS. Vũ Gia Lâm “Thấm quyền khởi tổ vụ án hình sự của Viện kiểm sát và
Tòa án” Tạp chí Luật học số 08/2010.
3. Th.s Phan Thanh Mai “Một số ý kiến về vấn đề Hội đồng xét xử khởi tố vụ
án hình sự” Tạp chí Luật học số 04/2004.
4. PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng
hình sự. Nxb Công an nhan dân -2004.
5. Nguyễn Đức Hạnh “Mợ/ số ỷ kiến về tăng thẩm quyền khởi tổ vụ án hình sự

của Viện kiểm sát\ Tạp chí Kiểm sát, số 05/2009.
6. Luận văn Tốt nghiệp- Lê Thị Hồng Phượng “Khởi tổ vụ án hình sự một sổ
vấn đề lý luận và thực tiễn” Hà Nội - 2010.
7. Các Trang báo mạng:
mot-cong-an-nhan-hoi-lo-15 -ty-dong ,htm
http ://b aobinhphuoc.com. vn/newsdetails.aspx?newsid=l 473
/> />


×