Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.78 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN HÀ NHI

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA QUẢN TRỊ VỐN
LƯU ĐỘNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VẬT LIỆU XÂY DỰNG
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Đà Nẵng - Năm 2017


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

NGUYỄN HÀ NHI

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA QUẢN TRỊ VỐN
LƯU ĐỘNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VẬT LIỆU XÂY DỰNG
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trương Bá Thanh



Đà Nẵng - Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của GS.TS Trương Bá Thanh.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Hà Nhi


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
2.1
2.2
3.1

Tên bảng
Kỳ vọng dấu cho các biến
Biến và công thức tính biến
Thống kê mô tả các chỉ tiêu về quản trị vốn lưu động và


3.2

khả năng sinh lời
Kết quả phân tích tương quan Sperman
Phân tích ANOVA về sự phù hợp của phân tích mô hình

3.3

hồi quy giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời

3.4
3.5
3.6
3.7
3.8

3.9

3.10
3.11

(GROSS)
Hệ số phù hợp của mô hình giữa quản trị vốn lưu động
và khả năng sinh lời (GROSS)
Hệ số mô hình hồi quy giữa quản trị vốn lưu động và khả
năng sinh lời (GROSS)
Phân tích ANOVA về sự phù hợp của phân tích mô hình
hồi quy giữa kỳ thu tiền bình quân và khả năng sinh lời
Hệ số phù hợp của mô hình giữa kỳ thu tiền bình quân và
khả năng sinh lời

Hệ số mô hình hồi quy giữa kỳ thu tiền bình quân và khả
năng sinh lời
Phân tích ANOVA về sự phù hợp của phân tích mô hình
hồi quy giữa kỳ thanh toán bình quân và khả năng sinh
lời
Hệ số phù hợp của mô hình giữa kỳ thanh toán bình quân
và khả năng sinh lời
Hệ số mô hình hồi quy giữa kỳ thanh toán bình quân và
khả năng sinh lời
Phân tích ANOVA về sự phù hợp của phân tích mô hình

Trang

58
65

68

68

69

71

72

73

75


75

76

3.12

hồi quy giữa chu kỳ chuyển hóa hàng tồn kho và khả

78

3.13

năng sinh lời
Hệ số phù hợp của mô hình giữa chu kỳ chuyển hóa hàng

78


3.14

3.15

3.16
3.17

tồn kho và khả năng sinh lời
Hệ số mô hình của mô hình giữa chu kỳ chuyển hóa
hàng tồn kho và khả năng sinh lời
Phân tích ANOVA về sự phù hợp của phân tích mô hình
hồi quy giữa Chu kỳ chuyển hóa tiền mặt và khả năng

sinh lời
Hệ số phù hợp của mô hình giữa Chu kỳ chuyển hóa tiền
mặt và khả năng sinh lời
Hệ số phù hợp của mô hình giữa Chu kỳ chuyển hóa tiền
mặt và khả năng sinh lời

79

81

81

83


DANH MỤC SƠ ĐỒ, MÔ HÌNH
Số
hiệu
Hình
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
1.7
2.1
2.2
2.3
3.2

3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9

Tên hình
Sơ đồ chu kỳ vốn lưu động
Sơ đồ mức dự trữ hàng tồn kho
Mô hình chu kỳ dặt hàng dự trữ EOQ
Sơ đồ luân chuyển tiền mặt
Mô hình Miller Orr
Mô hình tổng quát để ra quyết định quản trị khoản phải
thu
Sơ đồ tín dụng thương mại
Cơ cấu đóng góp của các nhóm ngành trong BXH V1000
năm 2013
10 ngành có chỉ số ROE, ROA trung bình cao nhất trong
BXH V1000 năm 2013
10 ngành có hệ số Nợ/ Tổng tài sản trung bình lớn nhất
trong BXH V1000 năm 2013.
Mô hình phân phối chuẩn của Tỷ suất lợi nhuận gộp
Mô hình phân phối chuẩn của Chu kỳ chuyển hóa hàng
tồn kho
Mô hình phân phối chuẩn của Kỳ thu tiền bình quân
Mô hình phân phối chuẩn của Kỳ thanh toán bình quân
Mô hình phân phối chuẩn của Chu kỳ chuyển hóa tiền
mặt

Mô hình phân phối chuẩn của Tỷ lệ nợ
Mô hình phân phối chuẩn của Quy mô công ty
Mô hình phân phối chuẩn của Hệ số khả năng thanh toán
hiện hành

Tran
g
18
22
26
31
33
35

48

49

49
60

62
62
63
63


8

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế ngày càng phát triển giúp cho các doanh nghiệp có thể mở
rộng thị trường. Để sản xuất kinh doanh được liên tục đòi hỏi phải có một
lượng vốn lưu động nhất định. Hơn nữa, trong sản xuất kinh doanh có thể gặp
những rủi ro, mất mát, hư hỏng, giá cả giảm mạnh, nếu doanh nghiệp không
có lượng vốn đủ lớn sẽ khó đứng vững trong cơ chế thị trường cạnh tranh đầy
rủi ro như vậy. Trong quá trình đối phó với các thách thức cạnh tranh này, vấn
đề quản trị tài chính doanh nghiệp nói chung và quản trị vốn lưu động – cụ
thể là quản trị tài sản ngắn hạn và quản trị nợ ngắn hạn nói riêng là một vấn
đề lớn mà các doanh nghiệp rất cần phải quan tâm và chú trọng.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc quản lý vốn lưu động chưa có
sự quan tâm đúng mức, một số các doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán và thua lỗ vì hàng tồn kho lớn trong những năm từ 20122014, cụ thể như các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng như Tập đoàn
Hòa Phát, Công ty Thép Dana Ý bị thua lỗ nhiều do tồn kho lớn trong năm
2012, 2013 (theo số liệu thống kê trên sàn HOSE). Như vậy các doanh nghiệp
cần chú trong hơn trong việc quản trị vốn lưu động. Quản trị vốn lưu động có
vai trò quan trọng trong việc gia tăng khả năng sinh lời, tăng hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cũng có những nghiên cứu đã tập trung vào phân tích mối quan hệ này
như Shin và Soenen (1998) , Deloof (2003), Eljelly (2004), Gul & cộng sự
(2013), Afeef (2011) …. Tuy nhiên rất ít nghiên cứu xem xét trong một ngành
cụ thể, đặc biệt lĩnh vực vật liệu xây dựng ở Việt Nam chưa được nghiên cứu
một cách rõ ràng. Trong khi đó ngành vật liệu xây dựng được coi là cầu nối
của ngành công nghiệp-xây dựng, vật liệu xây dựng không thể thiếu được
trong các công trình xây dựng cơ bản. Đặc trưng của ngành vật liệu xây dựng


9


là một ngành kinh tế thâm dụng vốn, các tài sản của nó là những tài sản nặng
vốn, và chi phí cố định của ngành khá cao. Do đó, việc quản trị vốn lưu động
hết sức quan trọng đối với ngành vật liệu xây dựng, vì nếu quản trị không tốt
sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không đủ tiền để chi trả cho các hoạt động
thường xuyên của mình. Hơn nữa việc lựa chọn phân tích một ngành sẽ giúp
tác giả đưa ra kết quả nghiên cứu với nét đặc thù riêng của ngành hơn là phân
tích chung chung cho các dữ liệu của tất cả các ngành.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu
mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của các doanh
nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Bài nghiên cứu này sẽ giải thích rõ hơn về tầm quan trọng của quản trị vốn
lưu động, đồng thời, thực hiện các quy trình phân tích để tìm ra mối quan hệ
giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp vật liệu
xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu

2.

- Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động với khả năng sinh lời của
các doanh nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Từ đó đưa ra kết luận và gợi ý đối với việc quản trị vốn lưu động để nâng cao

-

khả năng sinh lời của các doanh nghiệp ngành này.
Câu hỏi nghiên cứu

3.


Nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời
của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Lần lượt làm rõ các vấn đề sau:
-

Quản trị vốn lưu động ảnh hưởng như thế nào đến khả năng sinh lời của các
doanh nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam.


10

-

Các thành phần của vốn lưu động ảnh hưởng như thế nào đến khả năng sinh
lời của các doanh nghiệp này?
- Từ mối quan hệ đó rút ra được quản trị vốn lưu động như thế nào để
tăng khả năng sinh lời?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.


Đối tượng nghiên cứu: Các chỉ tiêu quản trị vốn lưu động và tác động của các
chỉ tiêu quản trị vốn lưu động đến khả năng sinh lời của các doanh nghiệp vật
liệu xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.




Phạm vi nghiên cứu: các doanh nghiệp vật liệu xây dựng niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Thông tin dữ liệu phục vụ nghiên cứu được
thu thập gồm 38 doanh nghiệp, trong khoảng thời gian 5 năm, giai đoạn 20122016.
Phương pháp nghiên cứu

5.
-

Thống kê mô tả: Nhận thấy đặc điểm chung trong các số liệu chi tiết, sử dụng
phần mềm SPSS.

-

Phân tích tương quan Spearman để đo lường sự tác động giữa các biến số với
nhau. Sau đó phân tích hồi quy để ước lượng các mối quan hệ giữa biến khả
năng sinh lợi và các biến được chọn khác.

6.

Bố cục đề tài
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu
động và khả năng sinh lời của các doanh nghiệp.
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Hàm ý chính sách và kiến nghị.

7.

Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động với khả năng

sinh lời đã được khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu tại các nền kinh tế và


11

các khu vực khác nhau:
Shin và Soenen (1998) [24] nhấn mạnh rằng quản lý vốn lưu động hiệu
quả vô cùng quan trọng trong việc tạo ra giá trị cổ đông, được sử dụng để đo
lường hiệu quả quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời doanh nghiệp. Hai
tác giả này đã sử dụng phân tích tương quan và hồi quy để nghiên cứu mối
quan hệ giữa chu kỳ kinh doanh, khả năng sinh lời. Kết quả nghiên cứu cho ra
mối quan hệ ngược chiều giữa chu kỳ kinh doanh và khả năng sinh lời.
Deloof (2003) [14] tìm thấy mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu
động và khả năng sinh lời của các công ty phi tài chính lớn của Bỉ gồm 1.009
công ty trong giai đoạn 1992-1996. Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy
tương quan Peason, từ kết quả phân tích ông đề xuất rằng các nhà quản trị có
thể tăng khả năng sinh lợi của công ty bằng cách giảm kỳ thu tiền, kỳ phải trả
người bán và thời gian chuyển đổi hàng tồn kho.
Eljelly (2004) [15] làm sáng tỏ rằng hiệu quả quản trị vốn lưu động liên
quan đến việc lập kế hoạch, kiểm soát tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn sao
cho tránh nguy cơ không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ ngắn hạn và tránh
đầu tư quá mức vào tài sản ngắn hạn. Eljelly kiểm tra mối quan hệ giữa khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời trên mẫu là các công ty niêm yết của
Saudi Arabia. Sử dụng phân tích hồi quy tương quan để chỉ ra mối quan hệ
ngược chiều giữa khả năng thanh toán và khả năng sinh lời.
Gul & cộng sự (2013) [19] cũng tiến hành nghiên cứu sự tác động của
quản trị vốn lưu động đến khả năng sinh lợi (ROA) của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Pakistan trong giai đoạn 2006-2012. Kết quả cho thấy kỳ thanh toán
bình quân có tác động cùng chiều đến khả năng sinh lợi (ROA). Trong khi kỳ
thu tiền bình quân, kỳ luân chuyển hàng tồn kho và chu kỳ chuyển đổi tiền

mặt có tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi (ROA). Mặt khác, nghiên
cứu cũng tìm thấy sự tác động cùng chiều của biến kiểm soát quy mô doanh


12

nghiệp đến khả năng sinh lợi (ROA). Trong khi đó, biến kiểm soát tỷ lệ nợ có
tác động ngược chiều đến khả năng sinh lợi (ROA).
Afeef (2011) [8] nghiên cứu sự tác động của quản trị vốn lưu động đến
khả năng sinh lợi (ROA) của 40 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thị trường chứng
khoán Pakistan giai đoạn 2003-2008. Các biến độc lập đại diện của quản trị
vốn lưu động gồm kỳ thu tiền bình quân, kỳ luân chuyển hàng tồn kho, kỳ
thanh toán bình quân, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, kỳ luân chuyển hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân có tác động ngược
chiều đến khả năng sinh lợi (ROA). Điều này hàm ý rằng, việc rút ngắn kỳ
luân chuyển hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân sẽ giúp gia tăng khả năng
sinh lợi.
Mumtaz & cộng sự (2011) [23] cho rằng có tồn tại mối quan hệ ngược
chiều giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lợi (ROA) khi nghiên cứu
dữ liệu của 22 doanh nghiệp ngành hóa học cho giai đoạn từ năm 2005-2010.
Các biến độc lập được sử dụng trong nghiên cứu gồm các thành phần của
quản trị vốn lưu động (kỳ thu tiền bình quân, kỳ luân chuyển hàng tồn kho, kỳ
thanh toán bình quân, chu kỳ chuyển đổi tiền mặt). Kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng kỳ luân chuyển hàng tồn kho và kỳ thu tiền bình quân có tác động
ngược chiều với khả năng sinh lợi (ROA). Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm thấy
sự tác động cùng chiều của các biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp đến khả
năng sinh lợi (ROA), đòn bẩy tài chính có mối quan hệ ngược chiều với khả
năng sinh lợi (ROA)
Sharma và Kumar (2011) [25] đã nghiên cứu tác động của vốn lưu động
lên tỷ suất sinh lời ở những công ty Ấn Độ. Hai nhà khoa học đã chỉ ra rằng

khi các công ty gia tăng vòng quay tiền mặt, tỷ suất sinh lời có thể cao hơn.
Tại Việt Nam, Dong, Huynh Phương & Jyh-tay Su (2010) đã nghiên cứu
mối quan hệ giữa chu kỳ chuyển đổi tiền mặt và khả năng sinh lợi trên mẫu


13

130 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai
đoạn 2006-2008. Các tác giả đã tìm ra mối quan hệ khá mạnh giữa chu kỳ
chuyển đổi tiền mặt và khả năng sinh lợi.
TS Nguyễn Thị Uyên Uyên & Ths. NguyễnThị Kim Thoa (2014) [26]:
“Mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lợi: Bằng chứng
thực nghiệm ở Việt Nam”. Bài nghiên cứu này sử dụng phân tích dữ liệu bảng
gồm 208 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán
TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai
đoạn 2006 đến 2012 kiểm định mối quan hệ giữa quản trị vốn lưu động và
khả năng sinh lợi ở các doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cho thấy việc quản
trị vốn lưu động hiệu quả bằng cách rút ngắn kỳ thu tiền và kỳ lưu kho sẽ gia
tăng khả năng sinh lợi cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí và diễn đàn có nội dung
chuyên biệt, đi sâu vào một vài khía cạnh riêng của vốn lưu động mang
tính chủ quan của tác giả, chưa đưa ra cái nhìn khái quát về các nội dung
của vốn lưu động như:
Bài viết: Dell’s working capital của Richard – Havard Business
school cho thấy việc quyết điịnh cơ cấu tài sản lưu động không chỉ phụ
thuộc vào các chỉ số tài chính được dự báo mà còn phụ thuộc mạnh vào
chiến thuật kinh doanh của doanh nghiệp và tính chất lĩnh vực kinh doanh.
Bài viết “Mối quan hệ giữa quản trị vốn luân chuyển và tỷ suất sinh
lợi của các công ty cổ phần Việt Nam” của Phạm Bích Hồng (2012) [3]
xây dựng bộ dữ liệu gồm 74 công ty được niêm yết trên sàn giao dịch

chứng khoán Hose trong khoảng thời gian từ 2007-2012, phân tích tác
động của thành phần vốn luân chuyển lên tỷ suất sinh lời đại diện bởi tỷ
suất sinh lời gộp và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản. Chỉ ra mối tương
quan giữa kỳ thu tiền bình quân, tỷ số nợ, tỷ số thanh toán hiện hành với


14

tỷ suất sinh lợi là tương quan âm có ý nghĩa thống kê.
Bài viết của Abdul RahemKulkanya Napomech và Mohamed Nasr
(2007) [7] nghiên cứu mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và khả năng
sinh lời thông qua nghiên cứu mẫu gồm 94 công ty niêm yết trên Thị
trường chứng khoán Karachi trong giai đoạn 6 năm từ năm 1999 đến năm
2004. Trong nghiên cứu này hai ông sử dụng thước đo thời gian thu nợ
trung bình, thời gian lưu kho trung bình, thời gian trả nợ trung bình và khả
năng thanh toán ngắn hạn để đo lường biến độc lập khả năng thanh toán
và tỷ suất sinh lời hoạt động để đo lường khả năng sinh lời. Các biến kiểm
soát trong mô hình này là tỷ số nợ, quy mô công ty và đòn bẩy tài chính.
Phương pháp mà nghiên cứu này sử dụng là phương pháp phân tích hồi
quy tương quan Pearson. Kết quả chỉ ra có mối tương quan mạnh giữa
quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời, đây là mối quan hệ ngược
chiều và mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô công ty và khả năng sinh
lời, mối quan hệ ngược chiều giữa việc sử dụng nợ và khả năng sinh lời.
Tuy nhiên hạn chế của nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến hàng tồn kho
và khoản phải thu khách hàng mà chưa đề cập đến các tài sản khác có tính
thanh khoản cao như tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tác động của quản trị vốn lưu động
đến khả năng sinh lợi tại các doanh nghiệp ở nước ngoài cũng như ở Việt
Nam, nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể nào cho lĩnh vực vật liệu xây dựng.
Trong khi đó ngành vật liệu xây dựng là ngành đầu vào của các ngành khác,

đặc biệt là ngành xây dựng. Ngành vật liệu xây dựng ngành là nhạy cảm với
chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh
số và lợi nhuận của các công ty trong ngành sẽ tăng cao. Tại Việt Nam thì các
nghiên cứu đa số dùng phương pháp ước lượng bình phương tối thiểu để phân
tích và cũng chỉ một trong ba chỉ tiêu ROA hoặc ROE hoặc Tobin’s Q để đánh


15

giá tác động của quản trị vốn lưu động đến khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp. Ở bài nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu về tác động của việc quản trị
các yếu tố vốn lưu động đến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp vật liệu
xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tác giả sử dụng chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận gộp để xem xét khả năng sinh lợi của doanh nghiệp
cùng các biến: Biến kỳ thu tiền bình quân (AR), Chu kỳ chuyển hóa hàng tồn
kho (INV), Kỳ thanh toán bình quân (AP), Chu kỳ chuyển hóa tiền mặt
(CCC), Logarit tự nhiên của doanh thu (LOS-Quy mô công ty), Tỷ lệ nợ
(DR), Hệ số khả năng thanh toán hiện hành (CR)
Tóm lại, tất cả các nghiên cứu trên đều có xu hướng chỉ ra được mối
quan hệ giữa quản trị vốn lưu động với khả năng sinh lời. Trên cơ sở đó, bài
nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định xem có tồn tại mối quan hệ
giữa các chỉ tiêu quản trị vốn lưu động và khả năng sinh lời của các doanh
nghiệp trong một ngành cụ thể, đó là ngành vật liệu xây dựng. Nếu có thì từng
thành phần trong vốn lưu động có mối tương quan như thế nào với khả năng
sinh lời của các doanh nghiệp.


16

CHƯƠNG 1


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA QUẢN TRỊ VỐN
LƯU ĐỘNG VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP
1.1.

TỔNG QUAN VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ QUẢN TRỊ VỐN LƯU ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP

1.1.1.

Khái niệm vốn lưu động và quản trị vốn lưu động
Vốn lưu động là lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về các đối
tượng lao động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động hoàn thành một
vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong quá trình đó, vốn
lưu động chuyển toàn bộ, một lần giá trị vào giá trị sản phẩm, khi kết thúc quá
trình sản xuất kinh doanh, giá trị hàng hóa được thực hiện và vốn lưu động
được thu hồi. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu trong quá
trình sản xuất. Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình
vận động của vật tư hàng hóa, tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm
dự trữ, sản xuất, tiêu thụ cảu doanh nghiệp. Trong doanh nghiêp, sự vận động
của vốn là phản ánh sự vận động của vật tư hàng hóa. Vốn lưu động là một
yếu tố quan trọng gắn liền với toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Vốn lưu động là biểu hiện bằn tiền của tài sản lưu động và vốn
lưu thông, vì vậy nó tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh.
Quản trị vốn lưu động là quản trị tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp như:
Tiền mặt, chứng khoán, các khoản phải thu, hàng tồn kho và nợ ngăn hạn (để
hỗ trợ cho tài sản ngắn hạn). Nền tảng quyết định cho việc quản trị này liên
quan đến mức độ đầu tư vào tài sản ngắn hạn. Quản trị vốn lưu động là quản

lý đầu tư vào tài sản lưu động và tài trợ tài sản ngắn hạn. Khả năng quản lý
vốn lưu động của doanh nghiệp càng tốt thì nhu cầu vay nợ càng giảm. Ngay


17

cả khi doanh nghiệp có tiền nhàn rỗi thì việc quản lý vốn lưu động cũng rất
cần thiết vì nó đảm bảo rằng lượng vốn nhàn rỗi này sẽ được đầu tư một cách
hiệu quả nhất cho nhà đầu tư.
1.1.2.

Vai trò của vốn lưu động và quản trị vốn lưu động
Vốn lưu động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và sinh lợi của
các doanh nghiệp. Nếu khả năng vốn lưu động đủ lớn sẽ giúp cho doanh
nghiệp có nhiều thuận lợi hơn trong việc làm chủ sản xuất và đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu lượng vốn lưu động không đủ thì có thể dẫn đến sự thiếu hụt và gặp khó
khăn trong hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Vốn lưu động cũng được
gọi là vốn lưu động thuần và được xác định như sau (Hiller và ctg, 2010)
[21]:
Vốn lưu động thuần = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn
Tài sản lưu động bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương tiền, đầu
tư ngắn hạn, các khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho. Nợ ngắn hạn là
những khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống, bao gồm khoản phải trả, nợ
ngắn hạn, các khoản nợ đáo hạn.
Để minh họa, chu kỳ vốn lưu động được mô tả như hình 1.1 dưới đây:


18


Nguyên liệu

Sản phẩm
dở dang

Thành phẩm

Bán hàng

Chi phí hoạt
động: Lương,
quảng cáo, ...

Khoản
phải trả

Khoản
phải thu

Tiền

Vốn cổ đông

Nợ dài hạn Hợp đồng tài chính trung hạn
Tài sản cố định

(Nguồn: Afnold, 2008)
Chu kỳ vốn lưu động
Dòng tiền khác
Hình 1.1: Sơ đồ chu kỳ vốn lưu động

Chu kỳ vốn lưu động bắt đầu từ việc mua nguyên vật liệu, sau đó nguyên
vật liệu được chuyển thành thành phẩm. Những thành phẩm này được lưu
trong kho cho đến khi chúng được bán cho khách hàng. Bán hàng có thể thu
ngay bằng tiền mặt hoặc bằng tín dụng bán hàn hàng. Cùng với mỗi bước
trong chu kỳ luân chuyển vốn lưu động thì có các chi phí hoạt động phát sinh,
đó là những chi phí trực tiếp và chi phí cơ hội. Chi phí trực tiếp là chi phí vốn
đầu tư vào mỗi thành phần của vốn lưu động. Chi phí cơ hội là những thu
nhập có thể bị bỏ lỡ do đầu tư vào vốn lưu động thay vì đầu tư vào cơ hội
khác (Berry and Jarvis, 2006) [13].
Quản trị vốn lưu động là một phần của quản trị tài chính của một doanh


19

nghiệp. Quản trị vốn lưu động tập trung chủ yếu vào các nguồn tài chính ngắn
hạn và quyết định đầu tư ngắn hạn của các doanh nghiệp (Sharma và Kumar,
2011) [25]. Quản trị vốn lưu động là rất quan trọng cho một doanh nghiệp,
đặc biệt là cho các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và phân phối, bởi vì
trong các doanh nghiệp này Quản trị vốn lưu động trực tiếp ảnh hưởng đến lợi
nhuận và tính thanh khoản. Điều này là do các doanh nghiệp này có vốn lưu
động chiếm hơn một nửa tổng tài sản của họ (Raheman và Nasr, 2007) [26].
Nếu Quản trị vốn lưu động không hiệu quả có thể dẫn đến phá sản, ngay cả
khi công ty có lợi nhuận. Nếu tài sản lưu động quá dư thừa thì sẽ dẫn đến lợi
nhuận bình quân trên các khoản đầu tư thấp (Raheman và Nasr, 2007) [26].
Quản trị vốn lưu động hiệu quả phải quản trị theo cách mà có thể loại bỏ nguy
cơ không thanh toán được các khoản nợ ngắn hạn đến hạn và tối thiểu hóa sự
thay đổi quá mức của vốn lưu động (Eljelly, 2004) [15].
Việc xác định mức vốn lưu động phụ thuộc vào các chính sách vốn lưu
động của một doanh nghiệp. Theo Arnold (2008) [10] có hai chính sách Quản
trị vốn lưu động trái ngược nhau. Chính sách thứ nhất là chính sách Quản trị

vốn lưu động thận trọng, doanh nghiệp sẽ dự trữ tiền mặt lớn, tín dụng khách
hàng rộng rãi hơn và hàng tồn kho cao. Chính sách này thích hợp với các
doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường không chắc chắn thì nó là cần
thiết để tránh đình trệ sản xuất (Arnold, 2008) [105]. Những ưu điểm của
chính sách này là giảm chi phí cung cấp, bảo vệ chống lại biến động giá cả và
gia tăng doanh số bán hàng, lợi nhuận do hàng tồn kho cao và các khoản phải
thu cao. (Garcia-Ternuel và Martinez Solano, 2007) [18]. Tuy nhiên nó cũng
có một số nhược điểm, đó là chi phí dự trữ cao hơn do mức tồn kho cao, làm
giảm lợi thế thương mại do sử dụng số lượng lớn tín dụng thương mại và gia
tăng nguy cơ vỡ nợ thanh toán của khách hàng. Chính sách ngược lại là chính
sách Quản trị vốn lưu động mạo hiểm. Chính sách này thích hợp với các


20

doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường ổn định và vốn lưu động được
giữ ở mức tối thiểu. Các doanh nghiệp này giữ mức tồn kho tối thiểu, tiền
mặt và lượng khách hàng thanh toán tại thời điểm sớm nhất có thể. Nhưng
chính sách này bị chỉ trích bởi Wang (2002) [27]. Ông lập luận rằng việc giảm
lượng hàng tồn kho có thể làm giảm doanh số bán hàng. Ưu điểm của chính
sách này chủ yếu là giảm chi phí do mức độ thấp của hàng tồn kho và các
khoản phải thu. Những rủi ro của chính sách này cũng thấp, vì số lượng các
khoản phải thu thấp. Những nhược điểm của chính sách này chủ yếu là việc
giảm doanh thu, lợi thế thương mại và lợi nhuận do thiếu hàng tồn kho và mở
rộng tín dụng thương mại cho các khách hàng.
Khi một công ty xác định chính sách Quản trị vốn lưu động, phải đối mặt
với mục tiêu đạt được mức tối ưu của vốn lưu động, sự cân bằng giữa tính
thanh khoản và lợi nhuận đạt được (Hill và ctg, 2010) [21]. Sự cân bằng này
là một sự lựa chọn giữa rủi ro và lợi nhuận. Đầu tư với nhiều rủi ro hơn sẽ cho
kết quả trở lại nhiều hơn. Như vậy, một doanh nghiệp có tính thanh khoản cao

của vốn lưu động sẽ có rủi ro thấp và lợi nhuận do đó cũng thấp. Ngược lại là
khi một doanh nghiệp có tính thanh khoản thấp của vốn lưu động thì có rủi ro
cao nhưng lợi nhuận cao. Khi xác định chính sách Quản trị vốn lưu động,
doanh nghiệp phải xem xét cả hai mặt của đồng tiền và cố gắng tìm sự cân
bằng giữa rủi ro và lợi nhuận.
Nghiên cứu trước đây đã ghi nhận rằng việc quản trị vốn lưu động ảnh
hưởng đến lợi nhuận của một công ty. Quản trị vốn lưu động hiệu quả là một
trong những đặc điểm quan trọng của các công ty phát triển mạnh về tài
chính. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa quản trị vốn
lưu động và lợi nhuận đã xác nhận quan điểm cho rằng việc giảm tài sản ngắn
hạn trong tổng tài sản sẽ giảm đầu tư vốn lưu động; do đó, nó sẽ ảnh hưởng
tích cực đến lợi nhuận của công ty.


21

1.1.3.

Các chỉ tiêu phản ánh quản trị vốn lưu động

a. Quản lý hàng tồn kho
Quản trị hàng tồn kho liên quan đến thiết lập các mức hàng tồn kho để
tối đa hóa lợi ích mà vẫn giảm thiểu được chi phí lưu giữ hàng tồn kho. Quản
lý hàng tồn kho là quan trọng đối với hầu hết các công ty. Để đại diện cho
việc quản lý hàng tồn kho tác giả sử dụng chỉ tiêu Chu kỳ chuyển hóa hàng
tồn kho (INV).


Tồn kho và các nhân tố ảnh hưởng đến tồn kho dự trữ
Hàng tồn kho là những mặt hàng sản phẩm được doanh nghiệp giữ để

bán ra sau cùng. Nói cách khác, hàng tồn kho là những mặt hàng dự trữ mà
một công ty sản xuất ra để bán và những thành phần tạo nên sản phẩm. Do đó,
hàng tồn kho chính là sự liên kết giữa việc sản xuất và bán sản phẩm đồng
thời là một bộ phận của tài sản ngắn hạn, chiếm tỉ trọng lớn, có vai trò quan
trọng trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hàng tồn kho chiếm
một phần lớn trong tổng tài sản của nhiều công ty, vì vậy quản trị hiệu quả là
cần thiết để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bình
thường và để giữ các chi phí dự trữ hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Mục tiêu
của quản trị hàng tồn kho là để tối thiểu hóa chi phí lưu trữ và chi phí tài
chính trong khi duy trì một mức hàng tồn kho đáp ứng nhu cầu bán hàng.
Deloof (2003) [14] cho rằng việc quản trị hàng tồn kho có một sự đánh đổi
giữa doanh thu và chi phí. Nếu một công ty dự trữ nhiều hàng tồn kho hơn, nó
có thể dẫn đến tăng doanh số bán hàng, nhưng nó cũng sẽ tốn kém. Do đó các
công ty cần phải xác định mức tồn kho tối ưu cho mình. Trong hình 1.2 cho
thấy những khó khăn khi dự trữ hàng tồn kho quá cao hay quá thấp.


22

Mức tồn kho thấp

Chi phí cho lượng tiền ứ đọng ở hàng tồn kho (mất tiền lãi)
Chi phí đặt hàng cao
Chi phí thiệt hại khi hết hàng Chi phí lưu kho
không có để bán Chi phí quản lý
Không có doanh thu Chi phí bảo hiểm
Không có lợi nhuận Lỗi thời
Mất lợi thế kinh doanhHư hỏng
Sản xuất rối loạn
Mức tồn kho cao


(Nguồn: Arnold, 2008)
Hình 1.2: Sơ đồ mức dự trữ hàng tồn kho
Các nhân tố ảnh hưởng đến tồn kho dự trữ:
Trong các doanh nghiệp tài sản tồn kho dự trữ thường ở 3 dạng: Nguyên
vật liệu, nhiên liệu dự trữ sản xuất, các sản phẩm dở dang và bán thành phẩm;
các thành phẩm chờ tiêu thụ.
Đối với trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu, mức tồn kho dự thường phụ
thuộc vào:
- Quy mô sản xuất và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất của
doanh nghiệp. Nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu của doanh nghiệp thường bao
gồm 3 loại: Dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm, dự trữ thời vụ (đối với các
doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ).
- Khả năng sẵn sàng cung ứng của thị trường.
- Chu kỳ giao hàng quy định trong hợp đồng giữa đơn vị cung ứng
nguyên vật liệu với doanh nghiệp.


23

- Thời gian vận chuyển nguyên vật liệu từ nơi cung ứng đến doanh
nghiệp.
- Giá cả của các loại nguyên vật liệu, nhiên liệu được cung ứng.
Đối với mức tồn kho dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, các
nhân tố ảnh hưởng gồm:
- Đặc điểm và các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo
sản phẩm.
- Độ dài thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm.
- Trình độ tổ chức quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Đối với tồn kho dự trữ sản phẩm thành phẩm, thường chịu ảnh hưởng

các nhân tố:
- Sự phối hợp giữa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng.
- Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.


Các chi phí liên quan đến việc quản trị hàng tồn kho
Chi phí tồn trữ: là những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa và
có thể chia thành 2 loại là chi phí hoạt động và chi phí tài chính.
+ Chi phí hoạt động bao gồm: chi phí bốc xếp hàng hóa, chi phí bảo
hiểm hàng tồn kho, chi phí hao hụt, mất mát, mất giá trị do bị hư hỏng bà chi
phí bảo quản hàng hóa.
+ Chi phí tài chính bao gồm: chi phí sử dụng vốn, trả lãi vay cho nguồn
kinh phí vay mượn để mua hàng dự trữ, chi phí về thuế, khấu hao,…
- Chi phí đặt hàng gồm: chi phí quản lý, giao dịch và vận chuyển hàng
hóa. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường rất ổn định, không phụ
thuộc vào số lượng hàng được mua. Trong nhiều trường hợp, chi phí đặt hàng
thường tỷ lệ thuận với số lần đặt hàng trong năm. Khi số lượng hàng của mỗi


24

lần đặt hàng nhỏ thì số lần đặt hàng tăng và chi phí đặt hàng cao. Khi khối
lượng mỗi lần đặt hàng lớn, số lần đặt hàng giảm và chi phí đặt hàng cũng
thấp hơn.
- Chi phí cơ hội: nếu 1 doanh nghiệp không thực hiện được đơn hàng khi
có nhu cầu, công ty sẽ bị đình đốn sản xuất và có thể không kịp giao hàng. Sự
thiệt hại do để lỡ cơ hội này gọi là chi phí cơ hội.
- Chi phí khác: các chi phí khác được quan tâm trong quản trị tồn kho là

các chi phí thành lập kho (chi phí lắp đặt thiết bị kho và các chi phí hoạt
động) chi phí trả lương làm thêm giờ, chi phí huấn luyện…
Hàng tồn kho được coi là một trong những tài sản quan trọng đối với
nhiều công ty. Nó là một trong những tài sản đắt tiền nhất, trong nhiều công ty
hàng tồn khi chiếm tới 40% tổng kinh phí đầu tư.
Mô hình xác định mức tồn kho tối ưu


-

Mô hình sản lượng đặt hàng hiệu quả nhất (Economic Odering Quantity –
EOQ)
Mô hình EOQ là một mô hình quản trị tồn kho mang tính định lượng, có
thể sử dụng nó để tìm mức tồn kho tối ưu cho doanh nghiệp.
Yếu tố quyết định trong quản trị hàng tồn kho là sự dự báo chính xác nhu
cầu sử dụng các loại hàng hóa trong kỳ nghiên cứu – thường là một năm và
khối lượng hàng hóa trong mỗi lần đặt hàng. Những doanh nghiệp có nhu cầu
hàng hóa mang tính mùa vụ có thể chọn kỳ dự báo phù hợp với đặc điểm kinh
doanh của mình.
Sau khi đã có số liệu dự báo chính xác về nhu cầu sử dụng hàng năm,
trên cơ sở đó có thể xác định số lần đặt hàng trong năm và khối lượng hàng


25

hóa trong mỗi lần đặt hàng. Mục đích của những tính toán này là tìm được cơ
cấu tồn kho có tổng chi phí năm ở mức tối thiểu.
Giữa chi phí đặt hàng và chi phí tồn kho có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Khi số lần đặt hàng nhiều, khối lượng hàng tồn kho bình quân thấp, dẫn tới
chi phí tồn kho thấp, song chi phí đặt hàng cao. Ngược lại khi số lần đặt hàng

giảm thì khối lượng hàng trong mỗi lần đặt cao, lượng tồn kho lớn hơn, do đó
chi phí tồn trữ hàn hóa cao hơn và chi phí đặt hàng giảm.
Mô hình này là một trong những kỹ thuật kiểm soát tồn kho phổ biến và
lâu đời nhất, nó được nghiên cứu và đề xuất từ năm 1915 do ông Ford. W.
Harris đề xuất, nhưng đến nay nó vẫn được hầu hết các doanh nghiệp sử
dụng. Khi sử dụng mô hình này, người ta phải tuân theo các giả định quan
trọng sau đây:
(1) Nhu cầu vật tư trong 1 năm được biết trước và ổn định (không đổi);
(2) Thời gian chờ hàng (kể từ khi đặt hàng cho tới khi nhận hàng) không
thay đổi và phải được biết trước;
(3) Sự thiếu hụt dự trữ hoàn toàn không xảy ra nếu đơn hàng được thực
hiện đúng;
(4) Toàn bộ số lượng đặt mua hàng được nhận cùng một lúc;
(5) Không có chiết khấu theo số lượng.
Với những giả thiết trên đây, sơ đồ biểu diễn mô hình EOQ được thể
hiện trong sơ đồ hình 1.5 sau:


×