Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tuthienbao com nhanh nuoc ngoai cua cong ty xuyen quoc gia 2961

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.16 KB, 13 trang )

Tuthienbao.com

Tiểu luận
ĐẶC TRƯNG CẮM NHÁNH NƯỚC
NGOÀI CỦA CÔNG TY XUYÊN
QUỐC GIA. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU
VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM
HIỆN NAY

1


M

ục lục

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 3
1.1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia

3

1.2. Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia.

4

II. BẢN CHẤT CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA. 6
III. ĐẶC TRƯNG CẮM NHÁNH CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

8

2.1. Đánh giá chung hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam8


2.2. Đặc trưng cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia

9

2.2.1. Hình thức cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia

9

2.2.2. Chiến lược cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia 10
IV. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY 11
KẾT LUẬN 13

2


I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA

1.1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia
Các công ty xuyên quốc gia ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và
quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập trung sản xuất cao độ. Đó là
sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các hình thức tổ chức xã hội từ hình thức phân
xưởng thợ thủ công đến hình thức các công trường thủ công, từ hình thức công xưởng tới
hình thức xí nghiệp lớn, rồi đến các loại hình công ty với nhiều hình thức khác nhau. Sự
xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đã được đánh giá là một tiến bộ của lịch sử, và
ngày nay các công ty này hoạt động khắp mọi nơi trên thế giới. Nó được coi là một thực
thể kinh tế linh hoạt, hoạt động có hiệu quả, có tiềm lực kinh tế và công nghệ to lớn.
Theo khái niệm chung nhất, công ty xuyên quốc gia là công ty có quá trình sản
xuất kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhiều
nước thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài.
Cũng có quan niệm cho rằng công ty xuyên quốc gia là công ty tư bản độc quyền

có tư bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định nào đó. Theo quan niệm này, người
ta đã nhấn mạnh tới tính chất sở hữu và tính quốc tịch của tư bản. Chủ tư bản ở một nước
cụ thể nào đó có công ty mẹ và thực hiện kinh doanh trong và ngoài nước bằng cách lập
các công ty con ở nước ngoài.
Theo các chuyên gia của Liên Hợp Quốc thì công ty xuyên quốc gia là những công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm các công ty mẹ và các công ty chi nhánh
nước ngoài của chúng.
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia là một cơ cấu tổ
chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của
nhiều thực thể kinh doanh quốc tế với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế
nhằm đạt được kết quả tối ưu, trên cơ sở đó thu được lợi nhuận độc quyền cao.
3


1.2. Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Như trên đã nói, các công ty xuyên quốc gia được hình thành dựa trên sự phát
triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Về thực chất chúng là sự phát
triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn
của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi các mối quan hệ kinh tế đó vượt dần ra
khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế thì nó
ngày càng được phát triển.
Chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng được hoàn thiện trên cơ
sở sự ra đời và phát triển của nền sản xuất dựa trên máy móc, và cạnh tranh tự do chính là
nguyên nhân ra đời của nền sản xuất đó. Chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời đã
thúc đấy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế, từ đó làm
cho tích tụ và tập trung tư bản, sản xuất phát triển lên cao độ và nhờ vậy mà các tổ chức
độc quyền có điều kiện thuận lợi để ra đời và phát triển. C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã
khẳng định độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó. Trong quá
trình tích tụ và tập trung tư bản, nhân tố tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng, theo
C.Mác thì nhân tố này đã đẩy nhanh tốc độ phát triển vật chất của các lực lượng sản xuất

và sự hình thành một thị trường thế giới.
Khi xuất hiện quá trình tích tụ và tập trung sản xuất cao độ sẽ dẫn đến hình thành
các công ty cực lớn thống trị các ngành và đồng thời cũng xuất hiện quá trình liên hiệp
hoá. Cùng với nó là quá trình chuyên môn hoá, đó là kết quả của sự phát triển phân công
lao động xã hội đã tạo điều kiện cho sự phát triển của những công ty độc quyền chủ chốt
trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Các công ty độc quyền chủ chốt đã thâu tóm
toàn bộ các xí nghiệp vừa và nhỏ bao quanh chúng mà nhờ nó giới độc quyền Nhà Nước
có thể huy động được toàn bộ lực lượng lao động và mọi tiềm năng của xã hội vào quá
trình sản xuất, tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, kỹ thuật trong nước. Sự
khác biệt về tiền lương và bảo hiểm của chúng tạo điều kiện cho các công ty độc quyền
chủ đạo kiếm thêm được giá trị thặng dư. Khi tích tụ và tập trung sản xuất có bước phát
triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và nó trở thành cơ sở kinh tế quan
4


trọng cho việc mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia được
hình thành nên từ các tổ chức độc quyền sau này.
Từ thập kỷ 60, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, khoa học –
công nghệ, các công ty xuyên quốc gia đã phát triển một cách nhanh chóng. Để tổ chức
một hệ thống công nghệ mới và điều tiết được lợi ích trong trao đổi, phân phối những sản
phẩm mới giữa những nhà sản xuất độc lập đã buộc các xí nghiệp phải chiếm lĩnh các
ngành và khu vực kinh tế mới, điều đó dẫn đến sự trưởng thành nhanh chóng của các
công ty xuyên quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển. Khi sự cạnh tranh trên toàn
cầu ngày càng khốc liệt thì các công ty xuyên quốc gia bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động
kinh doanh phân tán của nó, xây dựng hệ thống phân công lao động quốc tế, kết hợp liên
kết theo chiều ngang và chiều dọc trong nội bộ công ty. Cơ cấu tổ chức toàn cầu của công
ty xuyên quốc gia tương ứng cũng ra đời. Các công ty xuyên quốc gia trở thành hình
thức hoàn thiện điển hình của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thích ứng với sự phân
công và trao đổi quốc tế hiện đại.
Tóm lại, sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản

xuất, rồi hình thành các công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn như sau:
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ
quyền lực kinh tế. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm
trong đó rất nhiều các công ty với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con có quan hệ
phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật,... với công ty mẹ. Sự thâu tóm và kiểm soát về mọi mặt
như tài chính, kỹ thuật... của công ty mẹ đối với công ty con đã tạo điều kiện thuận lợi để
tăng quy mô sản xuất và cho tư bản sinh lời.
Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
quyền. Sự liên kết theo chiều dọc và chiều ngang được đẩy mạnh dẫn đến quá trình liên
kết đa ngành và bành trướng quyền lực. Từ đó dẫn đến hình thành các công ty xuyên
quốc gia với mạng lưới thị trường rộng khắp.

5


Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy
mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông – công nghiệp, nông –
thương nghiệp. Cùng với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã làm cho
cấu tạo hữu cơ tăng lên và mối liên hệ giữa công – nông nghiệp ngày càng phát triển.
Như vậy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành
trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng hiện thực vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước khác dưới nhiều hình thức, thỏa mãn mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận cao. Trên cơ sở đó hình thành các công ty xuyên quốc gia.
Theo số liệu của hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển, hiện nay
trên thế giới có khoảng 60 nghìn công ty xuyên quốc gia mẹ và có khoảng trên 500 nghìn
công ty con đang hoạt động trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.Các
công ty mẹ phần lớn ở các nước phát triển và tập trung chủ yếu ở Đức, Đan Mạch, Hàn
Quốc, Nhật Bản và Mỹ...

II. BẢN CHẤT CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA.

Như chúng ta đã biết quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến
những biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan
trọng nhất là quan hệ sở hữu. Do đó khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên
quốc gia chúng ta nghiên cứu trên hai mặt, đó là về hình thức sở hữu và tổ chức quản lý
tại các công ty xuyên quốc gia.
Về hình thức sở hữu: Kể từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ mạnh
mẽ đã tạo ra những sự thay đổi các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu trong các công ty
xuyên quốc gia. Ngày nay, hình thức sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia tồn tại chủ
yếu dưới hai nhìn thức sở hữu sau:
Thứ nhất là hình thức sở hữu độc quyền siêu quốc gia, đây là hình thức sở hữu hỗn
hợp đã được quốc tế hoá. Hình thức sở hữu này mang tính khách quan tạo nên bởi quá
trình tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư
6


bản, dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và
của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Theo hình thức
sở hữu này các công ty xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức các tổ hợp đa ngành khác
nhau và các xí nghiệp chi nhánh của nó là các xí nghiệp liên doanh với số lượng cá thể
đồng sở hữu từ hai đến bốn nước hoặc nhiều hơn nhưng với tỷ lệ vốn góp khác nhau.
Điều này đã phản ánh tính chất đa dạng, phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở
hữu tại các công ty xuyên quốc gia.
Thứ hai là hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thức sở hữu này được tạo ra do sự thay
đổi về căn bản địa vị và vai trò của những người công nhân, trí thức làm việc trực tiếp
trong các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành nghề có hàm lượng khoa học và
công nghệ cao và nó có tác động lớn tới chất lượng của lao động và sản xuất. Loại hình
sở hữu này diễn ra theo hướng phát triển số người có cổ phần trong các công ty xuyên
quốc gia nhưng với tỷ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh không lớn.
Như vậy, dù theo hình thức sở hữu nào thì các công ty xuyên quốc gia cũng không
còn là sở hữu của một người hay một nước mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế. Nhưng trong

đó sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu của những người lao
động chỉ chiếm mộttỷ lệ nhỏ.
Về tổ chức quản lý: việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch
chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh
hoạt theo đơn đặt hàng. Đồng thời có sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được
liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị
kinh tế trong nước và nước ngoài. Điều đó đã làm xuất hiện sự liên kết mới giữa các công
ty xuyên quốc gia, đó là kiểu liên kết mà trong đó có các vệ tinh xoay quanh một công ty
gốc tạo nên một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Phương thức tổ chức quản lý sản
xuất tại các công ty xuyên quốc gia ngày nay luôn biến đổi theo các xu thế sau:
Thứ nhất là phi hàng loạt hoá và đa dạng hoá sản các phẩm: việc tổ chức quản lý
sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và
thị hiếu đa dạng của khách hàng.
7


Thứ hai là phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo
phương thức cấu tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện.
Thứ ba là phi tập trung hoá: quá trình sản xuất được phân bố và được tổ chức quản
lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất nhỏ và vừa với các nguồn nhân
lực, vật lực và tài lực phân tán trên qui mô quốc gia và quốc tế. Nhờ vậy mà các công ty
xuyên quốc gia giảm được chi phí vận chuyển, tránh được các hàng rào bảo hộ và chuyển
giao năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm.
Thứ tư là tổ chức quản lý từ xa: dưới tác động của sự phát triển ngành khoa học
viễn thông, tổ chức quản lý từ xa ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là tại các
công ty xuyên quốc gia. Áp dụng hình thức quản lý này sẽ tiết kiệm được thời gian, chi
phí cho các nhà quản lý.
Thứ năm là quốc tế hoá và toàn cầu hoá hoạt động tổ chức quản lý.
Như vậy việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại
và dịch vụ trong các công ty xuyên quốc gia đã được quốc tế hoá và đang được toàn cầu

hoá trong quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các
quốc gia trên quy mô thế giới.

III. ĐẶC TRƯNG CẮM NHÁNH CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
2.1. Đánh giá chung hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam
Có thể nói rằng, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam bắt đầu
khởi sắc từ khi chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài ( 12/1987) thời gian chúng ta
chuyển dần nền kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường.
Các công ty xuyên quôc gia hoạt động tại Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc từ các
nước Châu Á ( Nếu không tính Nhật Bản thì các công ty chủ yếu là các nước Đông Nam
Á) như Thái Lan, Xingapo, Malaysia.
Còn theo nhận đinh chung các công ty hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xét trên quy mô vốn, công nghệ thì ở Việt Nam còn
quá ít các công ty xuyên quốc gia hoạt động. Nếu so với Trung Quốc thì chúng ta chưa
thu hút được nhiều các công ty lớn vào đầu tư hoạt động tại Việt Nam.
Trong thời gian vừa qua nhìn chung lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư nhất đó
là: khách sanh, du lịch, công nghệ khai thác… Dầu khí là một trong những lĩnh vực được
cấp nhiều giấy phép nhất. Thông qua các quỹ hỗ trợ văn hoá, khoa học các công ty xuyên
8


quốc gia đã quảng bá hình ảnh của công ty và tăng cường sự hiểu biết sâu sắc thị trường
Việt Nam trước khi thực hiện các chiến lược đầu tư dài hạn.
Theo báo cáo của Bộ kế hoach Đầu tư đến hết năm 2003, cả nước đã cấp giấy phép
đầu tư cho 5.424 dự án với tổng số vốn đăng ký là 54,8 tỷ USD, trong đó có tới 4.376 dự
án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký lên tới 41 tỷ USD. Trong số 64 nước
đầu tư vào Việt Nam, Singgapore là nước đứng đầu, chiếm 6,6 % về số dự án và 19%
tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong.

2.2. Đặc trưng cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia

2.2.1. Hình thức cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia
Một đặc trưng cơ bản mà bất kỳ một công ty xuyên quốc gia nào cũng phải có là
đặc trưng cắm nhánh nước ngoài. Để thực hiện cắm nhánh, các công ty xuyên quốc gia
thường sử dụng nhiều hình thức khác nhau, song chủ yếu là các hình thức sau:
- Hình thức đầu tư 100% vốn : Đây là hình thức đã có ngay từ thời kỳ đầu tiên khi
các công ty xuyên quốc gia thâm nhập vào nền kinh tế các nước. Đây là hình thức cắm
nhánh cổ truyền, trong đó công ty xuyên quốc gia được hoàn toàn tự chủ trong kinh
doanh theo luật đầu tư của nước chủ nhà mà không sợ thất thoát về bí quyết công nghệ và
quản lý hoặc chia sẻ bạn hàng. Tuy nhiên các công ty xuyên quốc gia phải chịu sự kiểm
soát của nước chủ nhà, sự kiểm soát đó cũng theo những phương thức và mức độ khác
nhau, đồng thời cũng đưa lại những hậu quả không giống nhau. Mặt khác với xí nghiệp
100% vốn của mình, các công ty xuyên quốc gia không tránh khỏi những khó khăn trong
việc khai thông các mối quan hệ với các cơ quan quản lý, cũng như việc tìm hiểu thị
trường nước chủ nhà. Ngoài ra một số công ty xuyên quốc gia gặp khó khăn trong việc
tuyển dụng công nhân. Chính vì một số khó khăn này nên một số công ty đã lựa chọn
hình thức liên doanh.
- Hình thức liên doanh: Đây là một trong những hình thức phổ biến trong giai đoạn
hiện nay mà các công ty cũng đã và đang sử dụng. Để thực hiện liên doanh, các công ty
xuyên quốc gia thường sử dụng một số biện pháp như tham gia cổ phần đối với xí nghiệp
mới xây dựng, lập ra xí nghiệp mới có sự tham gia của đối tác nước chủ nhà, mà công ty
mẹ nắm giữ số cổ phần khống chế, hoặc mua cổ phiếu của công ty đang hoạt động. Có
thể lấy một ví dụ: trường hợp liên doanh giữa công ty GMC (Mỹ) với công ty Isuzu (Nhật
Bản) vào thập kỉ 80 : Isuzu bán 34% cổ phần của ḿnh cho GMC, vì đang gặp khó khăn
trong việc chuyển từ sản xuất xe tải, xe buýt sang xe con. CC̣ũng với GMC nếu mua được
cổ phần của Isuzu sẽ giúp cho việc thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, củng cố được mặt
hàng của mình. Hiện nay hình thức liên doanh thường chiếm tỷ trọng lớn (60-70%, thậm
chí có trường hợp 85% tổng số dự án đầu tư nước ngoài), vì hình thức này có nhiều nhân
tố làm tăng hiệu suất của tư bản.
Ngoài hai hình thức chủ yếu trên, các công ty xuyên quốc gia cC̣ũng thực hiện các
hình thức khác, như thông qua các hợp đồng gia công để chuyển giao một số công đoạn

sản xuất ra nước ngoài nhằm thực hiện chuyên môn hóa sản phẩm, tận dụng các lợi thế
như giá lao động, giá nguyên vật liệu rẻ, tiết kiệm chi phí vận chuyển, khắc phục khó
khăn về thuế quan…Hiện nay hầu hết các công ty xuyên quốc gia đều thực hiện cách này.
9


Ví dụ như công ty Ford Motor có tới 25.000 đơn vị sản xuất gia công ở khắp các nước
trên thế giới.

2.2.2. Chiến lược cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia
Để thực hiện cắm nhánh ngoại quốc các công ty xuyên quốc gia thường sử dụng
một số hình thức nêu trên đồng thời với chiến lược hết sức linh hoạt, mà đáng chú ý là
một số chiến lược sau:
- Chiến lược đối với khu vực địa lý: Nhìn chung các công ty xuyên quốc gia tập
trung vào các nước tư bản phát triển nhiều hơn so với các nước đang phát triển. Sở dĩ có
xu hướng như vậy là vì trong điều kiện tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đã xuất hiện nhiều ngành mới, trong khi đó các nước đang phát triển (trừ các nước công
nghiệp mới) do trình độ lạc hậu nên không đủ điều kiện tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các
ngành được chuyển dịch sang các nước đang phát triển là các ngành đã hao mòn vô hình,
giá trị thấp cũng góp phần làm cho tỉ trọng vốn giảm đi. Mặt khác, trong điều kiện hiện
nay lĩnh vực cạnh tranh là những ngành hiện đại, trong khi đó các nước đang phát triển
không phải là đối thủ cạnh tranh, hơn nữa mức thu nhập thấp làm cho mức tiêu thụ sản
phẩm cao cấp cũng hạn chế. Điều đó đã làm thay đổi hướng đầu tư của các công ty xuyên
quốc gia.
- Chiến lược đối với các ngành kinh doanh: Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay việc đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia đã có sự thay đổi. Đó là tỉ
trọng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp khai khoáng có xu hướng giảm. Thay vào đó
là các ngành sản xuất hàng hóa công nghệ cao như sản xuất ôtô, hàng điện tử… và đặc
biệt là các ngành dịch vụ. Chính xu hướng đầu tư cắm nhánh của các công ty xuyên quốc
gia đối với các ngành trên đã góp phần thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế

thế giới trong những thập kỉ gần đây.
- Chiến lược thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia: Cùng với xu
hướng trên, các công ty xuyên quốc gia đã thực hiện chiến lược sáp nhập và thôn tính lẫn
nhau. Hiện nay các vụ sáp nhập có đặc điểm là quy mô rất lớn. Ví dụ một số vụ trị giá
trên 1 tỉ USD tăng từ 35 vụ năm 1995 lên 45 vụ năm 1996 và 58 vụ năm 1997 với giá trị
lần lượt là 59 tỷ, 86 tỷ và 161 tỷ USD và diễn ra ở tất cả các ngành. Trong ngành sản xuất
ôtô năm 1999 đã diễn ra sự sáp nhập của 9 tập đoàn hàng đầu thế giới gồm Ford, GMC,
BMW, Volswagen, Daimler Benz, Chrysler, Volvo, Mazda, Toyota hình thành một liên
minh khổng lồ. Chính sự thôn tính và sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra
những công ty có quy mô khổng lồ. Theo thống kê quốc tế, vào cuối thập kỉ 90, số công
ty có vốn trên 60 tỷ USD là 50 công ty, trong đó có 14 công ty có số vốn trên 100 tỷ
USD. Đồng thời bằng sự sáp nhập, thôn tính như vậy, cạnh tranh sẽ diễn ra một cách gay
gắt hơn, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá sản xuất và chế độ sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa càng gay gắt và mang tính toàn cầu.
Ngoài ra mỗi công ty xuyên quốc gia cũng có chiến lược riêng của mình. Chẳng
hạn một số công ty xuyên quốc gia có xu hướng đầu tư cắm nhánh tại vùng trung tâm của
mỗi quốc gia chủ nhà. Song lại có công ty thực hiện chiến lược cắm nhánh ở những vùng
biên giới giữa các nước và từ đó có thể mở rộng hoạt động đối với các quốc gia lân cận.
Về chiến lược thị trường, sản phẩm cũng vậy, có công ty thực hiện chiếm lĩnh thị trường
10


ngách với sản phẩm độc đáo trong khi hầu hết các công ty có xu hướng đa dạng hóa sản
phẩm, thực hiện chuyên môn hóa.

IV. Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY
Sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia đã cung cấp một nguồn vốn quan
trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước. Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá
trong điều kiện tích luỹ còn thấp, nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả trong và

ngoài nước dưới mọi hình thức. Các công ty xuyên quốc gia đã không chỉ đáp ứng nhu
cầu về vốn mà còn cung cấp cả các thiết bị và công nghệ cho Việt Nam. Nhờ đó nhiều
nguồn lực của nước ta như vốn nhàn rỗi trong dân cư, doanh nghiệp... được khơi dậy,
nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Việt Nam đã coi đây là một bộ
phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội và thông qua các chính sách thì nguồn vốn đầu tư
từ các công ty xuyên quốc gia vào nước ta ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp phần tích cực trong việc thực hiện sự
dịch chuyển có cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu
của công nghiệp hoá là tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là của các
ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân, đồng thời tăng trưởng xuất khẩu để nhanh
chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty
có công nghệ và tài chính hùng hậu hoàn toàn có thể giúp Việt Nam thực hiện được
những yêu cầu này. Các công ty xuyên quốc gia đã chiếm một tỷ trọng cao trong nhiều
ngành sản xuất công nghiệp, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới cho nước ta đã góp
phần tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế quốc
dân. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các ngành sản xuất và cung cấp
dịch vụ cũng được phát triển theo. Hiện nay đã có nhiều nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
ở Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, viễn thông...Bên cạnh đó, sự
hiện diện của các công ty xuyên quốc gia còn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam phải
tự thay đổi để thích ứng và cạnh tranh tốt. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia đã góp
11


phần đưa Việt Nam tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, đồng thời giúp các
doanh nghiệp Việt Nam thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mở
cửa và hội nhập.
Các công ty xuyên quốc gia đã tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng
cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách. Các công
ty xuyên quốc gia đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kỳ nền kinh tế Việt Nam phải
chịu nhiều sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Bên

cạnh đó các công ty xuyên quốc gia cũng góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ và
chất lượng cao, trong đó có nhiều hàng thay thế nhập khẩu nên tiết kiệm ngoại tệ cho đất
nước
Thứ tư, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành giải quyết số lượng lớn lao động,
tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Sự hoạt động của các công ty xuyên
quốc gia đã thu hút hàng ngàn lao động Việt Nam vào làm việc. Những người lao động
làm việc cho các công ty này thường được tuyển chọn kỹ lưỡng, được bồi dưỡng tay
nghề, công việc gắn với công nghệ mới, với tác phong công nghiệp hiện đại và trình độ
quản lý tiên tiến, do đó họ trở thành những người lao động lành nghề, có kỹ năng và tính
kỷ luật cao.
Thứ năm, sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia đã và đang là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế
của Việt Nam. Mỗi công ty quốc gia có nguồn gốc từ một nước, sự hiện diện của chúng
tại Việt Nam đồng nghĩa với việc chúng ta xác lập và tăng cường quan hệ kinh tế với
quốc gia đó. Mặt khác, khi lựa chọn quốc gia để đầu tư, các công ty xuyên quốc gia
thường căn cứ vào mức độ hoà nhập vào thị trường thế giới. Vì vậy muốn thu hút được
họ chúng ta phải hội nhập thực sự và thị trường khu vực và thế giới.

12


KẾT LUẬN

Các công ty xuyên quốc gia đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các công
ty xuyên quốc gia đã tạo đà phát triển cho các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước
đang phát triển. Đồng thời chúng cũng giúp nâng cao mặt bằng công nghệ cho tất cả các
nước trên thế giới. Để thu hút đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, mỗi quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng cần tích cực hội nhập, mở cửa nền kinh tế, đưa ra những
chính sách thông thoáng. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng cần xây dựng một khung pháp luật,

một cơ chế giám sát chặt chẽ nhằm hạn chế các tác động xấu của các công ty xuyên quốc
gia tới sự phát triển của nền kinh tế như cạnh tranh không lành mạnh, xu hướng độc
quyền của các công ty xuyên quốc gia.

13



×