Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu thiết bị bưu chính viễn thông ở công ty vật tư bưu điện I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.73 KB, 94 trang )

Tuthienbao.com

Luận văn
Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động nhập khẩu thiết bị bưu chính viễn
thông ở công ty vật tư bưu điện I

1


LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng VI đã đánh giá đến một bước ngoặt quan trọng của nền
kinh tế Việt Nam. Xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Trong đó đổi mới trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại có một vị
trí hết sức quan trọng.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc mở rộng và phát
triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, trong những năm gần đây quan hệ
buôn bán ngoại thương đã phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu
không ngừng gia tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu giữa các ngành
kinh tế của ta với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta đã
từng bước tham gia vào quá trình phân công lao động quố tế, tiếp cận với nền
kinh tế thế giới và trở thành mắt xích trong guồng máy kinh tế thế giới.
Như chúng ta đã biết, xuất nhập khẩu đang là hoạt động kinh tế đối
ngoại quan trọng đối với nước ta. Xuất khẩu được khuyến khích nhằm đẩy
mạnh nền sản xuất trong nước, tăng cường ngoại tệ và tạo công ăn việc làm
cho người lao động. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, là một trong
những nước đang phát triển, nền công nghiệp còn non kém do đó để có thể
đẩy mạnh sản xuất trong nước, cần thiết phải có nhiều máy móc , thiết bị hiện
đại. Điều này muốn có được không thể bằng con đường nào khác là nhập
khẩu. Nhập khẩu cho phép chúng ta khai thác được tiềm năng, thế mạnh của


các nước trên thế giới, bổ sung các sản phẩm trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, góp phần thực hiện thành công quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Cùng với sự mở cửa nền kinh tế, ngành bưu chính viễn thông đã có
những chuyển biến mạnh mẽ. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của thời
đại trong điều kiện cơ sở vật chất của ngành bưu điện còn nghèo nàn, việc
thực hiện nhập khẩu vật tư thiết bị bưu điện là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy
, theo quyết định của Tổng cục bưu điện công ty vật tư bưu điện I được thành
lập với nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu các thiết bị vật tư bưu điện.

2


Là một đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc tổng công tu bưu chính viễn
thông Việt Nam. Công ty vật tư bưu điện được quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu trực tiếp vật tư thiết bị bưu điện đã đăng ký trong giấy phép kinh doanh.
Mặc dù có chức năng cơ bản là xuất nhập khẩu vật tư bưu điện nhưng hiện
nay công ty mới chỉ có hoạt động nhập khẩu, chưa có xuất khẩu do điều kiện
khoa học kỹ thuật và công nghệ nước ta còn thấp. Do đó hoạt động nhập
khẩu đang là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất trong hoạt động kinh
doanh của công ty.
Cũng như nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác khi mới
bước vào hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Công ty có thể tránh khỏi
những khó khăn, thách thức và yếu kém trong nghiệp vụ nhập khẩu của mình,
tìm ra giải pháp nhằm khắc phục nhược điểm, khó khăn và nângcao hơn nữa
hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung
luôn là quan tâm của ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ công nhân viên của
công ty.
Là một sinh viên thực tập tại công ty, đứng trước mối quan tâm đó,em
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:”Một số biện pháp nhằm hoàn thiện

hoạt động nhập khẩu thiết bị bưu chính viễn thông ở công ty vật tư bưu
điện I”
Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu, phân tích hoạt động nhập khẩu
của Công ty, từ đó tìm ra giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hoạt động nhập
khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung của công ty.
Chuyên đề vận dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng
hợp cùng với khảo sát thực tế hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty để
nghiên cứu và giải quyết vấn đề đặt ra.
Để làm rõ vấn đề trên, nội dung của chuyên đề bao gồm ba phần:
PhầnI: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
thương mại.
Phần II: Hoạt động nhập khẩu thiết bị bưu chính viễn thông ở công ty
vật tư bưu điện.

3


Phần III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu ở
công ty vật tư bưu điện I

4


CHƯƠNG I
LỲ LUẬN CHUNG VẾ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH
NGIỆP KINH DOANH QUỒC TẾ

I. BẢN CHẤT VAI TRÒ KINH DOANH QUỐC TẾ NÓI
CHUNG VÀ HOẠT ĐỌNG NHẬP KHẨU NÓI RIÊNG
1. Sự cần thiết khách quan của kinh doanh quốc tế với nền kinh tế

quốc dân
Kinh doanh quốc tế là tổng thể các hoạt động giao dịch,kinh doanh
được tạo ra và thực hiện giữa các doanh ngiệp,cá nhân và tổ chức giữa các
quốc gia nhằm thoả mãn các mục tiêu của các doanh ngiệp ,cá nhân và tổ
chức đó
Kinh doanh quốc tế đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình giao lưu
trao đổi mua bán hàng hoá giữa hai hay nhiều quốc gia.Cho đến nay mọi quốc
gia trên thế giới đều đồng ý cho rằng nền kinh tế quốc gia không thể phát triển
mạnh nếu bỏ qua các vấn đề về buôn bán quốc tế,đầu tư và tài trợ quốc
tế.Hơn nữa tronh những năm gần đây khối lượng mậu dịch quốpc tế dã gia
tăng đáng kể giữa các khu vực,các quốc gia và các tập đoàn kinh doanh lớn
.Trong đó phải kể đến các liên kết như:Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc
Mĩ(NAFTA);liên minh châu âu(EU);Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN);....các tập đoàn đa quốc gia và xuyên quốc gia.Với các lợi thế vế
vốn ,công nghệ,trình độ quản lý,kinh nghiệm vf khả năng thâm nhập thị
trường nước ngoài,....các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đã và đang
nâng cao vị thế và tăng thị phần của mình trong khu vực và trên thế giới
nóichung
Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động của
nền kinh tế thế giới,đặc biệt là sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật
công nghệ,xu hướng khu vực hoávà toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đối với

5


nền kinh tế mỗi quốc gia.Hoạt động Kinh doanh quốc tế và các hình thức
Kinh doanh quốc tế ngày càng phong phú,đa dạng và trở thành một trong
những nội dung cực kỳ quan trọng trong các quqan hệ kinh tế quốc tế.
Kinh doanh quốc tế là hoạt đoọng rất quan trọng và càng cần thiết trong
điều mới của quan hệ hợp tác quốc tế,bởi vì một nước phát triển không thể tự

cô lập kinh tế của chính quốc gia mình.Nừu một nước nào đó không là thành
viên của thị trường toàn cầu thì chắc chắn nền kinh tế của chinhs quốc gia đó
sẽ suy thoái và đời sống của dân cư khó có thể được nâng cao.Sự tham gia
mạnh mẽ vào hoạt động Kinh doanh quốc tế sẽ tạo gia nhiều cơ hội và thuận
lợi hơn để mở rộng,tăng trưởng và thu nhập cao hơn so với kinh doanh trong
nội địa.Kinh doanh quốc tế sẽ làm cho luồng hàng hoá,dịchvụ và vốn được
phân phối trên toàn thế giới.Như thế các sáng kiến được phát triển và được
đưa vào ứng dụng nhanh hơn.Vốn nhân lực được sử dụng tốt hơn và các hoạt
động tài trợcó thể được tiến hành thuận lợi hơn.Kinh doanh quốc tế quốc tế
cũng đưa lại cho người mua,người tiêu dùng có điều kiện cân nhắc,lựa chọn
những sản phẩm,dịch vụ về chất lượng cũng như sốlượng tốt hơn.Trong điều
kiện đó,giá cả sản phẩm và dịch vụ có thể giảm thông qua cạnh tranh quốc tế.
2.Vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Kinh doanh quốc tế
2.1 Vai trò .
Trong điều kiện nước ta hiện nay,Kinh doanh quốc tế đóng vai trò quan
trọng,nó giúp doang nghiệp có thể mở rộng cung ừng và tiêu thụ hàng hoá,tìm
kiếm các nguồn lực ở nước ngoài,đa dạng hoá hoạt động kinh doanh.Những
hoạt động này là những động cơ chính thúc đẩy doanh nghiệp tham gia mạnh
mẽ vào hoạt động Kinh doanh quốc tế .
2.1.1. Mở rộng cung ứng, tiêu thụ hàng hoá.
Số lượng hàng hoá và giá trị hàng hoá(doanh số) cung ứng,tiêu thụb tuỳ
thuộc vào số lượng khách hàng quan tâm đến sản phẩm hay dịch vụ của

6


doanh ngiệp và khả năng thanh toán của khách hàng cho những sản phẩm vạ
dịch vụ đó. Do số lượng khách hàng, sức mua và khả năng thanh toán trên thị
trường thế giới luân luân lớn hớn thị trường ở từng quỗc gia, cho khi nên
tham gia vào một hoạt động Kinh doanh quốc tế sẽ tạo điều kiện cho doanh

nghiệp tăng nhanh doanh số mua vào ( hoặc bán ra) đối với các sản phẩm và
dịch vụ mà mình cần ( hoặc sản phẩm dịch vụ mình cung cấp) trên thị trường
thế giới. Việc mở rộng khối lượng lọi nhuận cao hơn. Vì vậy, chính việc mở
rộng cung ứng đã trở thành động cơ chủ yếu đối với doanh ngiệp khi tham gia
vào hoạt động Kinh doanh với nước ngoài.
2.1.2.Tìm kiếm các nguồn lực ở nước ngoài .
Đối với mỗi quốc gia, các nguồn lực ( vốn, đất đai, tài nguyên, khoáng
sản , công nghệ ) sẵn có không phải là vô hạn mà chỉ có giới hạn, thậm chí
hiếm và khan hiếm. Do vậy, thông qua việc tìm kiếm, mở rộng thị trường ở
nước ngoài các doanh ngiệp có điều kiện vươn tới và sử dụng các nguồn lực
mới. Các nguồn lực nước ngoài như: nhân công dồi dào và giá rẻ , thị trường
tiêu thụ rộng lớn mà các doanh ngiệp đang hướng tới nhằm giảm chi phí,
nâng cao khả năng tiêu thụ và do đó góp phần gia tăng lợi nhuận. Để giảm bớt
chi phí, gia tăng lợi nhuận, ngày nay các nhà sản xuất, các nhà phân phối đang
áp dụng rộng rãi việc sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm ngay ở nước ngoài và
tiêu thụ tại đó, tức là áp dụng rộng rãi hịnh thức xuất khẩu tại chỗ .
2.1.3. Đa dạng hoá các hoạt động Kinh doanh
Các nhà Kinh doanh thường tìm mọi cách để tránh những biến động bất
lợi về doanh số mua, bán và lợi nhuận. Họ đã nhận thấy rằng thị trường nươc
ngoài và việc mua bán hàng hoá ở đó như là một biện pháp quan trọng giúp
các nhà Kinh doanh tránh được những đột biến xấu trong Kinh doanh . Việc
thực hiện đa dạng hoá hình thưc Kinh doanh và phạm vi kinh doanh sẽ giúp
các nhà kinh doanh khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực ỏ một
quốc gia. Đa dạng hoá hoạt động thương mai và đầu tư nước ngoài cho phép
7


các doanh nghiệp khăc phục và hạn chế những rủi ro trong kinh doanh ( phân
tán rủi ro), tạo điều kiện và cơ hội cho doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các
lợi thế của mỗi quốc gia trong điều kiện kinh doanh quốc tế nhằm tối đa hoá

lợi nhuận.
Chúng ta cần phân biệt kinh doanh quốc tế với kinh doanh nội địa (
kinh doanh trong nươc):
Thứ nhất, kinh doanh quốc tế là hoạt động kinh doanh diễn ra giữa hai
hay nhiều quốc gia, với sự tham gia của doanh ngiệp, cá nhân quốc tịch khác
nhau, còn kinh doanh trong nước là hoạt động kinh doanh chỉ diễn ra tronng
nội bộ quốc gia và giữa các đối tác của quốc gia đó.
Thứ hai, kinh doanh quốc tế luân luân hướng tới các thị trường mới, xa
lạ và rộng lớn. Các doanh ngiệp hoạt động trong môi trường này thường gặp
phải rủi ro lớn hơn. Các rủi ro thường gặp là những rủi ro về chính trị, luật
pháp, kinh tế, văn hoá
Thứ ba, kinh doanh quốc tế buộc các doanh ngiệp phải thích nghi với
cơ chế thị trường, phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng hoạt động và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, Kinh doanh quốc tế tạo điều kiện cho doanh ngiệp gia tăng lợi
nhuận ngày càng lớn. Điều này khó có thể đạt được đối với những doanh
nghiệp chỉ thực hiện kinh doanh trong nước.
Thứ năm, Kinh doanh quốc tế tạo điều kiện cho các doanh ngiệp mạnh,
có uy tín cơ hội để nâng cao vị thế và thị trường của mình trên thị trường quốc
tế.
2.2. Chức năng.
Kinh doanh quốc tế có chức năng cơ bản sau:
- Tạo vốn, kỹ thuật từ bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.

8


- Thay đổi cơ cấu vật chất sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất.
- Tăng hiệu quả nền sản xuất trong nước thông qua lý thuyết “lợi thế
so sánh”. Tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trên Thế giới.

2.3. Nhiệm vụ.
Căn cứ vào đường lối xây dựng kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại
của Đảng trong từng thời kỳ quyết định nhiệm vụ của kinh doanh quốc tế
trong thời kỳ đó. Trong giai đoạn hiện nay, kinh doanh quốc tế có những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tạo vốn nước ngoài để nhập khẩu vật tư, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, phát huy và sử dụng tốt hơn
nguồn lao động, tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động,
tăng thu nhập quốc dân.
- Kinh doanh quốc tế phải phục vụ đắc lực choi công cuộc xây dựng và
đổi mới kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng cao uy tín của nước ta trên
trường quốc tế.
Toàn bộ nhiệm vụ của kinh doanh quốc tế trong giai đoạn hiện nay đều
nhằm góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối và kế hoạch phát triển
kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
3. Vai trò, vị trí của hoạt động nhập khẩu trong kinh doanh quốc
tế.
3.1. Vai trò – vị trí của hoạt động nhập khẩu trong kinh doanh quốc tế.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động quan trọng của kinh doanh
Thương mại quốc tế. Nền kinh tế nước ta đang ở điểm xuất phát thấp, nền kcc
với trang thiết bi sản xuất cũ kỹ và lạc hậu nên không thể tạo ra các sản phẩm
9


có sự cạnh tranh cao trên thị trường, nhièu hàng hoá trong nước chưa sản xuất
được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được tiêu dùng trong nước do vậy nhập
khẩu có vai rò quan trọng đối với việc sản phẩm kinh tế thể hiện ở một số
điểm sau:

- Nhập khẩu cho phép ta khai thác các thế mạnh về kỹ thuật công nghệ
của các nước, đáp ứng nhu cầu về những sản phẩm nước ta chưa sản xuất
được. Do được áp dụng các thiết bị tiên tiến trên thế giới nên nhập khẩu rút
ngắn được khoảng cách về thời gian và tránh không phải lặp lại các bước đi
của các nước đi trước. Nhập khẩu có tác động to lớn vào sự đổi mới trang
thiết bị và công nghệ trong nước.
- Nhập khẩu tạo nên động lực cho sự phát triển sản xuất trong nước ,
thông qua sự cạnh tranh trêdoanh nghiệp thị trường hàng nội và hàng ngoại.
Qua đó các nhà sản xuất trong nước không ngừng đổi mới về sản phẩm giá cả,
phương pháp phục vụ trước và sau bán hàng. Nhờ cạnh tranh nên sản phẩm
nào đứng vững trên thị trường được phát triển một cách vững vàng.
- Nhập khẩu đáp ứng được nhu cầu trong nước, mở rộng nhu cầu của
thị trường trong nước, phá bỏ tình trạng độc quyền, cho phép chúng ta tiếp
cận thế giới văn minh hiện đại, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Thông qua hoạt động nhập khẩu mỗi quốc gia tham gia vào kinh tế
thế giới, nó là cầu nối giữa nền kinh tế trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho
việc phân công lao động và hợp tác quốc tế.
- Nhập khẩu có tác dụng ổn định giá cả thị trường kiềm chế lạm phát.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, muốn đảm bảo thành công quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta phải áp dụng các thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hiện nay đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật
của chúng ta có tay nghề cao ít, trình độ kỹ thuật còn lạc hậu mà việc nghiên
cứu đòi hỏi phải có thời gian và nguồn vốn rất lớn, chúng ta chưa đáp ứng

10


được, để phát triển chúng ta cần tranh thủ công nghệ cao của các nước trên
thế giới, phát huy lợi thế của các nước đi sau, kết hợp với nguồn lực và tài
nguyên thiên nhiên của đất nước đưa nền kinh tế phát triển nhanh chóng vững

chắc. Như vậy nhập khẩu là một sự tất yếu của nền kinh tế.
Nhập khẩu có vai trò to lớn trong sự tang trưởng và phát triển kinh tế
song không phải vì thế mà các doanh nghiệp được xa rời một số nguyên tắc
được trình bày dưới đây được hiểu như cách xử sự đúng hơn là quy tắc thực
hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội cũng
như của bản thân các doanh nghiệp.
- Sử dụng vốn nhập khẩu đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị
trường. Tất cả các hợp đồng nhập khẩu phai dựa trên lợi ích và hiệu qủa để
quyết định.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như các
doanh nghiệp phải:
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
+ Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ cho việc nhập vật tư cho sản
xuất và đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp với giá
cả nhanh chóng phát huy tác dụng đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống
nhân dân.
- Nhập khẩu thiết bị tiên tiến hiện đại: việc nhập khẩu thiết bị máy móc
và nhận chuyển giao công nghệ nắm vững phương châm đón đầu, đi thẳng
vào tiếp thị công nghệ hiện đại. nhập khẩu phải hết sức chọn lọc, nhất thiết
không để “mục tiêu rẻ” mà nhập các thiết bị đã cũ về, chưa dùng được bao
nhiêu, chưa sinh lợi đã phải thay thế.
11


- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tăng nhanh xuất
khẩu. Tuy nhiên, không có nghĩa là bảo hộ sản xuất nội địa với bất cứ giá nào.


3.2. Phương hướng nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
Đảng ta chỉ rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như phát
triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta tiến nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của hoạt
động kinh tế đối ngoại, trong đó có hoạt động nhập khẩu.
Nhận thức tầm quan trọng đó. Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại
mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra cho hoạt động nhập khẩu
những năm tới là: “Hướng nhập khẩu là tập trung vào nguyên liệu, vật liệu,
các loại thiết bị công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từng bước thay thế nhập khẩu những mặt hàng có thể sản xuất trong nước
cso hiệu quả. Tổng kinh ngạch tăng bình quân hàng năm 24%. Cơ cấu nhập
khẩu dự kiến: máy móc thiết bị và phụ tùng chiếm 39%, nguyên liệu, vật liệu
chiếm 52% và hàng tiêu dùng chiếm 9%”. Như vậy, chính sách nhập khẩu của
nước ta trong thời gian tới là:
- nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết
yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu
cầu.
- nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc thiết bị tiên
tiến hiện đại. Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ để sản xuất và chế biến
hàng hoá xuất khẩu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chủ nghĩa xã hội, phục
vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất trong
nước.

12


Để thực hiện thành công phương hướng và nhiệm vụ trê, Đảng và nhà
nước luôn quán triệt các nguyên tắc cơ bản:
- Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
- nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại.

- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước chưa sản xuất được hoặc sản
xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
đặc biệt là hàng xa xỉ phẩm.
- Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định, lâu dài, vững chắc.
- Phải kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu tạo ra sự cân đối kinh ngạch.
Với những nguyên tắc như trên, Nhà nước muốn đẩy manhhj hoạt động
nhập khẩu nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển
kinh tế đất nước theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới.

II. HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HOẠT
ĐỘNG NHẬP KHẨU .
1. Các hình thức nhập khẩu.
Có rất nhiều cách phân loại hình thức nhập khẩu sau đây là sự phân loại
theo một số hình thức.
1.1. Theo hình thức quản lý của Nhà nước.
* Nhập khẩu uỷ thác: Là hoạt động kinh doanh hình thành giữa một
doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một số
loại hàng hoá và dịch vụ nhưng lại không có quyền tham gia voà quan hệ sản
xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp
giao dịch ngoại thương tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài,
làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu bên uỷ thác và được hưởng một
khoản thù lao là phí uỷ thác.

13


* Nhập khẩu hàng tư doanh: Là hoạt động nhập khẩu độc lập của doanh
nghiệp xuất khẩu trực tiếp. Trong đó có 2 loại:
- Nhập khẩu mậu dịch: Hàng hoá nhập khẩu mậu dịch do Nhà nước
trực tiếp quản lý theo kế hoạch, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội.

Đối với hàng nhập khẩu mậu dịch phải đăng ký kế hoạch với bộ chủ quản, bộ
thương mại. Bộ thương mại lập kế hoạch nhập khẩu dự kiến trong năm.
- Nhập khẩu hàng phi mậu dịch: hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch là
hàng hoá nhập khẩu không trực tiếp đưa vào kinh doanh, Nhà nước không
quản lý trực tiếp và không nằm trong kế hoạch của Nhà nước. Thủ tục nhập
khẩu hàng phi mậu dịch do Hải quan cấp giấy phép.
1.2. Theo khối lượng hàng hoá nhập khẩu.
* Nhập khẩu tiểu ngạch: thường áp dụng với hàng hoá không chịu sự
quản lý của Nhà nước về thủ tục hành chính. Hàng hoá nhập khẩu tiểu ngạch
phải làm thủ tục kê khai hải quan và đóng thuế tiểu ngạch do Bộ tài chính quy
định và ban hành thống nhất trong cả nước. nhập khẩu tiểu ngạch là nhập
khẩu hàng hoá qua biên giới và khối lượng từng đợt nhỏ.
* Nhập khẩu chính ngạch: đây là phương thức nhập khẩu chịu sự quản
lý của Nhà nước thông qua Bộ thương mại, nhập khẩu chính ngạch mang tính
chất kinh doanh lớn và có thị trường ổn định.
1.3. Theo nguồn gốc và hình thức giao hàng.
* Nhập khẩu trực tiếp: là hình thức nhập khẩu trong đó bên xuất khẩu
trực tiếp cho bên nhập khẩu thông qua trung gian môi giới. Phần lớn hàng hoá
nhập khẩu hiện nay theo phương thức này.
* Nhập khẩu gián tiếp: là hình thức nhập khẩu thông qua các trung tâm
thương mại, trung tâm môi giới nhập khẩu, đây là hình thức nhập khẩu qua
trung gian thương mại.

14


* Tạm nhập tái xuất: là hình thức nhập khẩu hàng hoá rồi lại xuất sang
nước thứ ba thu lợi nhuận. Hình thức này vẫn làm thủ tục nhập xuất của Hải
quan không qua gia công chế biến.
2. Nội dung cơ bản của hoạt động nhập khẩu.

Hoạt động nhập khẩu hàng hoá là một quá trình bao gồm nhiều khâu
bắt đầu từ nghiên cứu thị trường đến tiếp nhận tiêu thụ hàng hoá. Trong mỗi
khâu, mỗi nghiệp vụ đều phải tiến hành kịp thời cẩn thận, tranh thủ nắm bắt

15


Sơ đồ 1:
QUY TRÌNH TIẾN HÀNH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU

Nghiên cứu thị
trường
Lựa chọn mặt hàng kinh doanh, số lượng, giá
cả, đối tác giao dịch
Đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu

Mở L/C, các thủ tục giấy tờ khác
Đôn đốc bên giao hàng đúng hạn

Thuê tàu lưu cước nếu nhập giá FOB

Mua bảo hiểm

Làm thủ tục hải
quan
Nhận hàng

Kiểm tra
hàng


Vận chuyển

Thanh toán

Khiếu nại và giải quyết khiếu
nại (nếu có )

16


lợi thế bảo đảm cho hoạt động nhập khẩu mang lại hiệu quả cao, phục vụ tốt
cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng.
Các doanh nghiệp thương mại khi kinh doanh nhập khẩu đều phải chú
ý đến các vấn đề cơ bản của quá trình tham gia hoạt động nhập khẩu để tránh
những tổn thất không đáng có, nó bao gồm các bước như sau:
2.1. Nghiên cứu thị trường.
Hiểu rõ được thị trường của doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh là
bước đi cần thiết cho sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường được hiểu là nơi trao đổi mua bán hàng hoá dịch vụ mà
người bán và người mua trực tiếp thoả thuận với nhau. thị trường là một phạm
trù khách quan gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Trong nghiên cứu thị trường, phương pháp nghiên cứu đã được tiêu
chuẩn hoá, có hệ thống, tỷ mỷ để xử lý các vấn đề Marketing với mục đích
tìm ra những điều cần thiết thích hợp để tìm thị trường cho các loại hàng hoá
cần tiêu thụ.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt,
công tác nghiên cứu thị trường càng trở nên quan trọng, nó là công việc cần
thiết hàng đầu đến bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia vào thị trường. Qua
nghiên cứu thị trường các nhà kinh doanh sẽ nắm được quy luật vận động của
thị trường, nhận biết đúng thị trường mà doanh nghiệp tham gia. Mỗi thị

trường hàng hoá có quy luật vận động riêng, quy luật đó thể hiện qua sự biến
đổi cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường. Nắm chắc được các quy luật
vận động của thị trường thì có thể giải quyết các vấn đề trong thực tiễn kinh
doanh phù hợp với quy luật của thị trường, đạt được hiệu quả kinh doanh cao.
Một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá thì phải
nghiên cứu thị trường trong nước, ngoài nước, đồng thời thị trường là một vấn

17


đề rất phức tạp bởi nó chịu ảnh hưởng nhiều của các nhân tố văn hoá, chính
trị, phong tục tập quán, thị hiếu tiêu dùng.
2.1.1. Nghiên cứu thị trường trong nước.
Trong nghiên cứu thị trường mỗi doanh nghiệp cần phân tích các nhân
tố tác động của thị trường, trên cơ sở đó đưa ra các kế hoạch chiến lược kinh
doanh phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường trong
nước chính là nghiên cứu cung – cầu – giá cả - đối thủ cạnh tranh và sự vạn
động của chúng.
+ Nghiên cứu cầu hàng hoá: cầu là lưọng hàng mỗi người mua muốn
mua ở mức giá chấp nhận được. Cỗu không phải là sản lượng cụ thể mà là sự
mô tả toàn diện về khối lượng hàng hoá mà người mua có thể mua ở mỗi mức
giá. Nghiên cứu về cầu hàng hoá phải xác định được xu thế vận động của cầu
trong tương lai. Cầu đối với mỗi loại hàng hoá khác nhau thì cũng khác nhau.
Đối với hàng hoá đã có trong thị trường có thể xác định dung lượng thị
trường hiện đại để đánh giá cầu hàng hoá hiện đại, trên cơ sở đó phân tích các
yếu tố tác động cầu để xác định xu hướng vận động cầu trong tương lai.
Đối với hàng hoá chưa từng có trên thị trường (sản phẩm mới) xác định
cầu dựa trên loại hàng hoá tương tự.
- Các nhân tố tác động đến cầu.
Các hàng hoá liên quan gồm hai loại hàng hoá thay thế và hàng bổ

xung. Giá cả hàng hoá thay thế tăng sẽ làm cho cầu của hàng hoá nghiên cứu
tăng vì hàng hoá thay thế tăng người ta sẽ chuyển sang dùng hàng hoá ta đang
nghiên cứu. Giá cả hàng hoá bổ xung tăng sẽ làm cho cầuhh đang nghiên cứu
giảm.
Thu nhập của người tiêu dùng khi thu nhập tăng lên thì nhu cầu đối với
đa số hàng hoá cũng tăng lên. Sự ảnh hưởng của thu nhập còn phụ thuộc vào
độ co dãn của cầu đối với thu nhập. Độ co dãn của cầu đối với thu nhập của
18


một mặt hàng là mức thay đổi % trong lượng cầu chia cho mức % thay đổi
thu nhập tương ứng. Một mặt hàng bình thường có độ có dãn dương theo thu
nhập tức thu nhập tăng cầu tăng, mặt hàng thứ cấp thu nhập nhu cầu giảm. Tất
cả thứ hàng hoá thứ cấp đều là thiết yếu. Sở dĩ hoặc khẩu vị người tiêu dùng
yếu tố này bị tác động bởi phong tục tập quán, sự thân thiện, quan điểm xã hội
văn hoá xã hội...., sở thích tiêu dùng trở thành trào lưu xã hội mốt tiêu dùng
đối với lượng cầu của mỗi loại hàng hoá nó còn chịu sự tác động bởi giá cả
của chính hàng hoá đó, ở mỗi mức giá cụ thể có một lượng cầu cụ thể.
Giá cả tác động lớn đến lượng cầu, mức độ của nó phụ thuộc độ co dãn
của cầu theo giá, độ co dãn của cầu theo giá là tỷ số giữa mức thay đổi tính
bằng % lượng cầu của một mặt hàng với mức thay đổi tương ứng của giá
hàng hoá đó. Độ co dãn theo giá của cầu tính mức độ nhạy bén của cầu đối
với những thay đổi tương đối của giá, khi giá tăng thì lượng cầu giảm đi, nếu
độ co dãn của cầu theo giá lớn hơn 1, nếu độ co dãn của cầu theo giá lớn hơn
không nhỏ hơn 1 thì giá tăng 1 đơn vị lượng cầu sẽ giảm 1 đơn vị.
Ảnh hưởng của lạm phát: hành vi của cầu sẽ không bị thay đổi nếu
tăng cùng một giá trị danh nghĩa của tất cả các loại giá và hình thức thu nhập.
Nhưng các loại hàng hoá có giá thay đổi không cùng tỷ lệ với mức thay
đổi của thu nhập thì lạm phát sẽ tác động đến cầu hàng hoá. Trong thực tế thì
lạm phát luôn tác động đến cầu hàng hoá.

* Nghiên cứu cung hàng hoá.
Cung là lượng một mặt hàng mà người bán ở một mức giá chấp nhận
được. Cũng như cầu, cung không phải là một lượng cụ thể, nghiên cứu cung
phải xác định được tình hình cung trên thị trường như thế nào, các nguồn
cung cấp hàng hoá chính mức độ đáp ứng nhu cầu trên thị trường. Dựa vào
tình hình trên thị trường và sự phân tích tác động của các yếu tố đến cung để
xác định xu hướng vận động mức độ thay đổi của cung.

19


Các nhân tố tác động đến cung:
Cải tiến công nghệ sẽ làm tăng cung vì các nhà cung ứng luôn muốn
tăng lượng hàng hoá bán ra. Công nghệ bao gồm cả phần cứng lẫn phần
mềm. Công nghệ mới cho tăng sản lượng.
Chi phí đầu vào tiết kiệm được sẽ làm tăng sản lượng giảm giá thành
sản phẩm.
Chính phủ cũng có thể tác động đến cung thông qua các chính sách tác
động đến sản xuất, nhập khẩu. Nó tác động hoặc khuyến khích hoặc hạn chế
sản xuất như các quy định nghiêm ngặt hơn về an toàn lao động, bảo vệ môi
trường thông qua thuế sẽ tác động đến cung của hàng hoá.
* Nghiên cứu giá cả hàng hoá:
Tất cả các doanh nghiệp đều quan tâm đến giá cả hàng hoá, đối với
doanh nghiệp xuất nhập khẩu đòi hỏi phải nghiên cứu giá cả trong nước lẫn
thị trường quốc tế, giá cả thị trường được hình thành dưới sự tác động của
cung cầu và nhiều yếu tố khác. Doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh
doanh thì phải tuân theo giá thị trường quy định. Khi nghiên cứu giá cả hàng
hoá là phải xác định được giá cả thị trường và sự vận động của nó. Xác định
giá có thể thông qua khảo sát giá hay qua các trung tâm giao dịch.
Nghiên cứu xu hướng vận động của giá rất cần thiết đối với hoạt động

kinh doanh. Giá cả trên thị trường không cố định mà nó luôn biến động.
Doanh nghiệp muốn kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi phải nắm xu hướng vận
động của giá.
Để xác định xu hướng vận động của giá chúng ta phải phân tích những
yếu tố tác động lên nó. Các yếu tố tác động đến giá bao gồm:
Nhân tố có tính chu kỳ: có hai nhân tố chính làm thay đổi mang tính
chu kỳ đó là chu kỳ kinh doanh và tính thời vụ của hàng hoá. Nền kinh tế vận
động theo nền kinh tế hưng thịnh thì giá cả ổn định cung cầu đều tăng, thời kỳ
20


suy thoái thì giá ca luôn biến đổi. yếu tố thời vụ cũng làm giảm cả thay đổi
theo chu kỳ vào thời vụ chính cung tăng giá cả giảm.
Nhân tố tác động dài hạn khoa học kỹ thuật là một ví dụ điển hình về
sự tác động đến giá cả trong dài hạn. Khoa học kỹ thuật phát triển cho phép
cải tiến kỹ thuật cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm giảm giá thành.
Nhân tố tác động ngắn hạn bao gồm các nhân tố như thời tiết, thiên tai,
các điều kiện khách quan, các nhân tố mang tính kinh tế như tích luỹ, đầu cơ
các nhân tố này thường làm giá cả thay đổi đột ngột.
Các nhân tố tác động đến cung cầu hàng hoá có nhân tố tác động thông
qua cung có nhân tố tác động thông qua cầu khi cung cầu thay đổi giá cả thay
đổi theo. Cung tăng mà cầu không tăng sẽ làm cho giá giảm và ngược lại cầu
tăng mà cung không tăng sẽ làm cho giá tăng.
Sự tác động của nhà nước chính sách của nhà nước có tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến giá cả như tỷ giá hối đoái, quy định mức thuế mức gái
trần giá sàn....
Nhân tố lạm phát cũng làm giá tăng lên nếu có lạm phát. Đây là yếu tố
tác động mạnh đến giá cả lạm phát cao biến động giá cả rất lớn, hay cạnh
tranh cũng tác động đến giá cả cạnh tranh gay gắt sẽ làm giá giảm.
* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh.

Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu tình hình cạnh tranh trên thị
trường phải trả lời đầy đủ các câu hỏi có bao nhiêu đối thủ, tình hình kinh
doanh của các đối thủ như thế nào, tỷ trọng thị trường, điểm mạnh điểm yếu,
chiến lược kinh doanh của họ như thế nào.
Các đối thủ cạnh tranh co thể thay đổi chiến lược kinh doanh, doanh
nghiệp cũng cần nghiên cứu để có những phương án kinh doanh phù hợp tuỷ
nhiên ta thấy công việc này không đơn giản đòi hỏi phải đầu tư đúng mức vì

21


ngày nay các Công ty các đối thủ luôn che dấu phương án kinh doanh chiến
lược kinh doanh của họ.
* Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh tác động lên mọi hoạt động của doanh nghiệp,
môi trường kinh doanh gồm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài.
Môi trường bên ngoài là yếu tố chính trị pháp luật, môi trường tự nhiên, văn
hoá xã hội.... còn môi trường công nghệ. Doanh nghiệp phải tiến hành nghiên
cứu sự vận động của môi trường các yếu tố tác động đến môi trường qua đó
xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Nghiên cứu nắm bắt môi trường
kinh doanh và sự vận động của nó sẽ giúp doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi,
đạt hiệu quả cao.
2.1.2. Nghiên cứu thị trường quốc tế.
Đối với Doanh nghiệp nhập khẩu hình thức kinh doanh chính là việc
nhập khẩu mua hàng hoá từ nước ngoài về tiêu thụ tại thị trường trong nước
nghiên cứu thị trường quốc tế nhằm đảm bảo cho công tác mua hàng phù hợp
giá cả hợp lý, phải xác định những hãng nào cung cấp loại hàng hoá này tính
hình sản xuất của hãng chất lượng sản phẩm, uy tín khả năng cung ứng. Do đó
nghiên cứu thị trường quốc tế rất có nghĩa nhưng cũng rất khó khăn phức tạp
doanh nghiệp cần có kế hoạch và phương pháp phù hợp trong quá trình doanh

nghiệp đem lại hiệu quả và độ chính xác cao.
2.2. Lựa chọn đối tác giao dịch.
Thị trường kinh doanh quốc tế đa dạng và phong phú, doanh nghiệp có
thể mua hàng từ nhiều hãng cung cấp khác nhau, chỉ nhập khẩu Công ty cần
lựa chọn các hãng, mở rộng quan hệ với nhiều hãng căn cứ để lựa chọn đối
tác chính là giá cả, chất lượng phương thức thanh toán. Trong lựa chọn đối tác
cần chú ý đến tình hình sản xuất, chất lượng hàng nhập, chính sách và tập
quán thương mại của nước đó.

22


2.3.Đàm phán ký kết hợp đồng.
Sau khi nghiên cứu thị trường xác định mặt hàng nhập khẩu đối tác,
doanh nghiệp tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng. Hợp đồng này còn gọi là
hợp đồng mua bán ngoại thương, hay hợp đồng xuất nhập khẩu. Hợp đồng
mua bán ngoại thương là sự thoả thuận bằng văn bản giữa các bên tham gia
ký kết, trong đó bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu cho người mua
(bên nhập khẩu ) vượt qua biên giới quốc gia, còn bên bán có trách nhiệm
nhận thanh toán cho bên bán phương thức thanh toán do hai bên thoả thuận.
2.3.1. Đặc điểm của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là những cá nhân hoặc tổ
chức có tư cách pháp nhân, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương chính là điều ước quốc tê, các
thông lệ quốc tế mà các bên tham gia hợp đồng cam kết thực hiện. Đối tượng
của hợp đồng là hàng hoá được chuyển qua biên giới quốc gia.
2.3.2. Đàm phán ký kết hợp đồng.
Đàm phán là công việc bàn bạc trao đổi giữa người bán và người mua.
* Các hình thức đàm phán.
- Đàm phán qua thư tín.

Ngày nay có nhiều tiến bộ trong phương tiện thông tin nhưng đàm phán
qua thư tín vẫn là hình thức chủ yếu để giao dịch giữa các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu.
- Đàm phán qua điện thoại.
Đàm phán qua điện thoại đảm bảo yêu cầu nhanh chóng, cho phép tận
dụng thời cơ, cơ hội nhưng nhược điểm của đàm phán qua điện thoại không
thể trình bày chi tiết. Thông thường hình thức này kết hợp với hình thức thư
tín.

23


- Đàm phán trực tiếp.
Gặp gỡ trực tiếp đem lại hiệu quả cao trong giao dịch phương pháp này
đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về điều kiện hàng hoá trình độ tác phong, trong
quá trình đàm phám người tham gia đàm phán nắm chắc nội dung, ngôn ngữ
đàm phán.
* Các bước đàm phán.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu đàm phán thường có các bước sau:
Hỏi giá - đặt hàng – hoàn giá - chấp nhận- xác nhận.
2.3.3. Các điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương.
+ Tên hàng: yêu cầu ghi rõ cả tên thương mại, tên khoa học, tên thông
dụng của hàng hoá.
+ Phẩm chất hàng hoá: phẩm chất của hàng hoá là tổng hợp các chỉ tiêu
công suất, hiệu quả, đánh giá phẩm chất hàng hoá dựa vào các cấp bậc tiêu
chuẩn, dựa vào mẫu hàng khi kiểm tra.
+ Số lượng hàng hoá.
+ Tiền tệ thanh toán: quy định phải ghi rõ thanh toán loại tiền nào,
phương thức tính tỷ giá.
+ Phương pháp quy định giá: Nguyên tắc giá cả phải được quy định cụ

thể trong hợp đồng có đảm bảo an toàn thuận tiện cho khâu thanh toán.
+ Phương thức thanh toán: hiện nay có rất nhiều phương thức thanh
toán tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên mà chọn hình thức thanh toán thích
hợp.
+ Các điều khoản về giao hàng: như địa điểm giao hàng, phương thức
giao nhận hàng, địa điểm giao nhận hàng tất cả cần được quy định rõ ràng
hợp đồng.

24


Ngoài các điều khoản chính trên đây trong hợp đồng hai bên có thể
thoả thuận thêm các điều khoản khác phù hợp vời điều kiện hàng hoá quan hệ
của hai bên. Trong các điều khoản của hợp đồng đòi hỏi phải có đầy đủ địa
chỉ giao dịch của các bên người ký có đầy đủ thẩm quyền.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
Sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký kết quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên đã được xác lập, các đơn vị kinh doanh phải có tổ chức thực hiện
hợp đồng đó.
2.4.1. Xin giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý đề
tiến hành các khâu khác trong quá trình nhập khẩu hàng hoá. Tuỳ theo hàng
hoá kinh doanh của doanh nghiệp thuộc nhóm nào mà thủ tục xin giấy phép
nhập khẩu sẽ phải qua các bươc khác nhau.
2.4.2. Mở thư tín dụng (L/C):
Nếu như hợp đồng quy định thanh toán bằng thư tín thì bên mua phải
mở L/C tại ngân hàng theo các điều khoản đã quy định, thời gian mở L/C phụ
thuộc vào thời gian giao hàng, thời gian thường được hai bên thoả thuận trong
hợp đồng, không quy định cụ thể thì thời gian này thường khoảng 15-20 ngày
trươc khi giao hàng. Để cho chặt chẽ thì trong hợp đồng nên quy định cụ thể

ngày giao hàng, ngày mở L/C. Cơ sở mở L/C là các điều khoản hợp đồng,
doanh nghiệp nhập khẩu phải làm đơn xin mở L/C theo mẫu của ngân hàng,
đơn này được giử kèm theo bản sao hợp đồng nhập khẩu đến ngân hàng.
Đồng thời bên mua phải gửi kèm theo hai uỷ nhiệm chi, một uỷ nhiệm chi để
ký quỹ thoe quy định, một để trả thủ tục phí cho Ngân hàng về việc mở L/C.
2.4.4. Vận chuyển hàng hoá:

25


×