BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG THƯƠNG
NGUYỄN HỮU TRƯỜNG HƯNG
KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ TRONG
LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ: KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại
Mã số: 62.34.01.21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Hà Nội - 2017
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC, CHÍNH SÁCH CÔNG
THƯƠNG - BỘ CÔNG THƯƠNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Tất Thắng
2. TS. Nguyễn Thị Nhiễu
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương - Bộ
Công thương
Địa chỉ: 46 Ngô Quyền - Hà nội.
Vào hồi .... giờ .... ngày .... tháng ..... năm 201....
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện quốc gia Hà nội
2. Thư viện Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính
sách Công Thương
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Sau 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh, việc kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế (TTKT) đã đạt được những kết quả quan
trọng, góp phần ngăn ngừa các hành vi phản cạnh tranh trên thị
trường, giúp nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật cạnh
tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc có quá nhiều cơ quan quản
lý nhà nước cùng có chức năng kiểm soát hoạt động TTKT đã dẫn tới
sự chồng chéo và bộc lộ nhiều bất cập trong kiểm soát TTKT.
Với tính chất phức tạp của kiểm soát TTKT cùng rất nhiều
khó khăn và thách thức trong thực tiễn kiểm soát hoạt động TTKT có
xu hướng gia tăng mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu,
tìm hiểu kinh nghiệm kiểm soát tập trung kinh tế của các nước cả các
nước phát triển và đang phát triển là con đường ngắn nhất cũng như
hiệu quả nhất để Việt Nam có những điều chỉnh, bổ sung và xây
dựng mới pháp luật, chính sách đồng thời xây dựng, tăng cường năng
lực cơ quan kiểm soát TTKT đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là làm rõ luận cứ khoa học
về kiểm soát tập trung kinh tế, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài
về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại
dịch vụ, rút ra bài học có thể áp dụng cho Việt Nam, đề xuất, khuyến
nghị các điều kiện và giải pháp để vận dụng bài học kinh nghiệm của
các nước nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát hoạt động TTKT ở
nước ta thời kỳ đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là lý luận và bài học
kinh nghiệm nước ngoài về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có thể áp dụng cho Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: nghiên cứu cơ sở lý luận của kiểm soát tập
trung kinh tế, nội dung chính sách và quy định của nước ngoài về
kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và
dịch vụ. Từ đó đưa ra các đánh giá về chính sách và quy định của các
nước ngoài về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh vực
2
thương mại và dịch vụ. Khuyến nghị điều kiện áp dụng các bài học
kinh nghiệm của nước ngoài và đề xuất giải pháp hoàn thiện kiểm
soát tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ của Việt
Nam.
Về không gian: kinh nghiệm nước ngoài về kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ nghiên
cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới như: Hoa Kỳ, EU,
Trung Quốc và Indonesia.
Về thời gian: nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về kiểm
soát hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
từ năm 2006 – 2015. Đưa ra các giải pháp hoàn thiện kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại dịch vụ từ năm
2016 – 2025, định hướng tới 2030.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, kết hợp phân tích định tính, đề tài luận án áp dụng các
phương pháp cụ thể sau đây:
4.1. Phương pháp phân tích và thống kê
Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp phân tích, thống kê
để làm rõ các thuật ngữ, những lý luận sử dụng trong lĩnh vực cạnh
tranh, các kết quả nghiên cứu, những vấn đề đang tồn tại mà được
các công trình khoa hoc trước đây đã nghiên cứu.
4.2. Phương pháp phỏng vấn sâu với các chuyên gia và nhà
quản lý
Nhằm phân tích đánh giá hiệu quả của Luật và chính sách về
kiểm soát hoạt động TTKT hiện nay, NCS đã tiến hành phỏng vấn
các chuyên gia có uy tín và am hiểu về pháp luật cạnh tranh nói
chung cũng như các quy định và chính sách về kiểm soát hoạt động
TTKT. Trên cơ sở ý kiến của các chuyên gia sẽ là căn cứ quan trọng
để NCS xác định những bất cập hiện nay trong việc kiểm soát hoạt
động TTKT tại Việt Nam cũng như đề xuất hướng sửa đổi trong thời
gian tới.
4.3. Phương pháp so sánh
Nhằm kiểm chứng tính chính xác của thông tin được thu
thập, phương pháp so sánh được sử dụng trong nghiên cứu kinh
nghiệm nước ngoài về kiểm soát hoạt động TTKT trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ và trong phần phân tích đánh giá thực trạng theo
3
khung lý thuyết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG TẬP
TRUNG KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ
DỊCH VỤ
1.1. Khái niệm và đặc điểm tập trung kinh tế trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ
1.1.1. Khái niệm và các hình thức tập trung kinh tế trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ
1.1.1.1. Khái niệm
Dưới góc độ pháp luật, Luật cạnh tranh năm 2004 không quy
định thế nào là tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi
là tập trung kinh tế. Theo đó, điều 3 khoản 3 khẳng định tập trung
kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh; điều 16 quy định tập trung
kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh
nghiệp; (ii) hợp nhất doanh nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv)
liên doanh giữa các doanh nghiệp; (v) các hành vi tập trung khác
theo quy định của pháp luật. Sự liệt kê này đã làm rõ các hình thức
tập trung kinh tế mà quan điểm thứ hai chưa làm rõ.
1.1.1.2. Các hình thức tập trung kinh tế trong lĩnh vực
thương mại và dịch vụ
Căn cứ theo Điều 17 của Luật Cạnh tranh về hình thức biểu
hiện, tập trung kinh tế bao gồm các hành vi: sáp nhập, hợp nhất, mua
lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp.
Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh
nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự
tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn
bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát,
chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
4
1.1.2. Mục đích của hoạt động tập trung kinh tế
Có thể nói trong thực tế hiện nay tập trung kinh tế ngày càng
trở nên thường xuyên và có quy mô ngày càng lớn. Các doanh
nghiệp khi tiến hành hoạt động này vì rất nhiều mục đích khác nhau,
trong đó các mục đích chủ yếu là như sau:
- TTKT tạo ra mô hình kinh doanh lớn nhằm mục đích: tăng
số lượng bán ra để bù đắp cho phần lợi nhuận bị giảm đi vì phải đầu
tư cho nghiên cứu; hoặc giảm chi phí sản xuất và nghiên cứu cho
mỗi đầu sản phẩm và tăng cường sự cạnh tranh; hoặc bảo vệ trước
nguy cơ bị nắm quyền kiểm soát tài chính bời một tập đoàn khác;
- TTKT cho phép tập hợp các DN phân phối hoặc khách
hàng vào một mối để đảm bảo tốt hơn nguồn cung ứng hoặc khả
năng tiêu thụ sản phẩm;
- TTKT giúp triển khai các chiến lược tập trung vào một số
hoạt động hoặc đa dạng hoá hoạt động;
- TTKT giúp đáp ứng nhu cầu của các tập đoàn nước ngoài
chiếm được chỗ đứng trên thị trường;
- TTKT tạo ra cơ hội xâm nhập vào các thị trường mới.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ
Thứ nhất, việc đánh giá tác động của vụ việc TTKT trong
lĩnh vực thương mại dịch vụ phức tạp hơn so với thương mại hàng
hóa thông thường.
Thứ hai, mặc dù quy mô nhiều vụ việc là không lớn nhưng
ảnh hưởng của các vụ việc TTKT trong lĩnh vực này là tương đối
rộng.
Thứ ba, các vụ việc TTKT trong lĩnh vực thương mại và dịch
vụ có tác động tới cả thị trường hạ nguồn và thượng nguồn của một
sản phẩm cũng như một lĩnh vực.
Thứ tư, có rất nhiều vụ việc TTKT tương đối phức tạp và
mang nhiều màu sắc văn hoá – chính trị của một quốc gia.
1.2. Mục tiêu kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong
lĩnh vực thương mại và dịch vụ
Ở mỗi quốc gia, chính sách kiểm soát tập trung kinh tế là
một bộ phận trong tổng thể các chính sách của Chính phủ, bao gồm
chính sách công, chính sách kinh tế và chính sách cạnh tranh.
Xét về cạnh tranh, mục tiêu cốt lõi của chính sách kiểm soát TTKT là
5
nhằm đảm bảo hoạt động TTKT không gây ra hoặc không tiềm ẩn
nguy cơ gây ra tác động tiêu cực tới hoạt động cạnh tranh trên thị
trường.
1.3. Các yếu tố tác động tới kiểm soát hoạt động tập
trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
1.3.1. Các yếu tố bên ngoài tác động tới kiểm soát hoạt động
tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
1.3.1.1. Hiệp định FTA
Trong thời gian vừa qua, các hiệp định FTA có xu hướng nở
rộ trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Hầu hết trong
các hiệp định FTA thế hệ mới hiện nay đều có một chương riêng về
cạnh tranh. Đây là một trong những ưu tiên hàng đầu được các quốc
gia phát triển quan tâm tới trong quá trình đàm phán các hiệp định
FTA. Chính vì vậy, các hiệp định FTA mà Việt Nam đã và đang tham
gia sẽ có ảnh hưởng khá nhiều tới chính sách và các quy định về vấn
đề cạnh tranh trong đó có hoạt động tập trung kinh tế.
1.3.1.2. Chính sách kinh tế vĩ mô
Có thể nói, chính sách cạnh tranh nói chung và chính sách
kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế nói riêng phản ánh khá rõ quan
điểm và đường hướng của mỗi quốc gia về phát triển kinh tế.
Vì vậy, tại bất kỳ các quốc gia trên thế giới chính sách về
kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế chịu ảnh hưởng khá rõ của
chính sách kinh tế vĩ mô và phản ánh rõ định hướng phát triển kinh
tế của quốc gia đó.
1.3.2. Các yếu tố nội tại tác động tới việc kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ
1.3.2.1. Tính độc lập
Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và
hoạt động luôn luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới
xây dựng. Đây là nội dung rất quan trọng đảm bảo cho những cơ
quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách công minh, vì
mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng – cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường.
1.3.2.2. Tính minh bạch
Minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước kể cả
cơ quan cạnh tranh đang là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Tuy
nhiên, đối với các cơ quan cạnh tranh thì đây lại là yêu cầu có ý
6
nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều này xuất phát chính từ vai trò trong
việc duy trì trật tự cạnh tranh rõ ràng, lành mạnh. Thông tin trong thị
trường phải được thông suốt. Tính minh bạch sẽ nâng cao thêm uy
tín của chính các cơ quan này.
Chương 2
KINH NGHIỆM KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG
KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI TRONG
LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ
2.1. Kinh nghiệm về kiểm soát hoạt động tập trung kinh
tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ của các quốc gia phát
triển
2.1.1. Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của
Hoa Kỳ
2.1.1.1. Tổng quan
Trong năm 2015, FTC và Cục chống độc quyền đã tiến hành
rà soát 1801 giao dịch theo quy định của đạo luật HSR, tăng 8,3% so
với năm 2014.
Hình 2.1: Thống kê các vụ sáp nhập rà soát theo đạo luật HSR
trong giai đoạn 2006 - 2015
Nguồn: Báo cáo HSR 2015 của FTC
Trong số 1801 giao dịch tiến hành rà soát trong năm 2015 đã
có 2,7% giao dịch tiến hành rà soát lần thứ hai, giảm đi so với tỷ lệ
3,2% của năm 2014. Trong các vụ việc sáp nhập nêu trên, lĩnh vực
hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng và sản xuất chiếm tỷ trọng nhiều nhất,
7
lần lượt là 28,6% và 14,8%.
2.1.1.2. Quy định pháp lý về kiểm soát hoạt động tập trung
kinh tế
Những điểm đáng chú ý chính trong chính sách sáp nhập
Hoa Kỳ là:
- Xác định thị trường sản phẩm và thị trường địa lý liên
quan;
- Đánh giá mức độ gia nhập thị trường;
- Đánh giá các hiệu ứng cạnh tranh có thể xảy ra từ vụ sáp
nhập;
- Đánh giá các hiệu quả đáng kể có thể có được từ vụ sáp
nhập;
- Xác định mức độ tập trung trước và sau khi sáp nhập.
Ngưỡng áp dụng
Đạo luật HSR áp dụng đối với bất kỳ một vụ mua lại tài sản
và/hoặc cổ phiếu có quyền bỏ phiếu nào:
Nếu một bên trong vụ mua lại có doanh thu thuần hàng năm
hoặc tổng tài sản từ 152,5 triệu USD trở lên và bên kia có doanh thu
thuần hàng năm hoặc tổng tài sản từ 10 triệu USD trở lên gọi là
“ngưỡng về quy mô”; và
Nếu, sau khi giao dịch, bên mua lại nắm giữ cổ phiếu có
quyền bỏ phiếu và /hoặc tài sản của bên sở hữu tài sản hoặc cổ phiếu
có quyền chi phối được mua (bên bị mua) có giá trị hơn 76,3 triệu
USD (“Ngưỡng về quy mô”); hoặc
Nếu, sau khi giao dịch, bên mua lại nắm giữ tài sản và/hoặc
cổ phiếu có quyền bỏ phiếu của bên bị mua lại có giá trị lớn hơn 200
triệu USD, bất kể ngưỡng quy mô các bên có đáp ứng hay không.
2.1.1.3. Cơ quan quản lý các vụ việc tập trung kinh tế
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ, cả Ủy ban Thương mại
liên bang và Cục chống độc quyền thuộc bộ Tư pháp đều có chức
năng quản lý đối với các vụ việc tập trung kinh tế.
Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ
Ủy ban thương mại liên bang là một cơ quan độc lập của
Chính phủ Hoa Kỳ, được thành lập từ năm 1914 theo Đạo luật của
Ủy ban Thương mại liên bang. Nhiệm vụ chủ yếu của Ủy ban là thúc
đẩy vấn đề “bảo vệ người tiêu dùng” và loại bỏ, ngăn chặn những gì
mà luật pháp Hoa Kỳ coi là các hành vi kinh doanh “phản cạnh
8
tranh”.
Cục chống độc quyền thuộc Bộ tư pháp
Cơ quan này thường cùng làm việc với FTC trong việc ban
hành các hướng dẫn cho các doanh nghiệp. Trong hơn 6 thập kỷ,
nhiệm vụ của Cục chống độc quyền là thúc đẩy và bảo về tiến trình
cạnh tranh – và nền kinh tế Hoa Kỳ - bằng việc thực thi các luật
chống độc quyền. Pháp luật chống độc quyền áp dụng với gần như
tất cả các ngành và mọi mức độ kinh doanh, bao gồm cả sản xuất,
vận chuyển, phân phối và tiếp thị.
2.1.1.4. Đánh giá chung về các quy định kiểm soát tập trung
kinh tế của Hoa Kỳ
Thông qua việc nghiên cứu các quy định kiểm soát tập trung
kinh tế của Hoa Kỳ đã cho thấy những vấn đề kinh nghiệm rất cần
lưu ý như sau:
Thứ nhất, cần xây dựng ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế
phù hợp với nền kinh tế của từng quốc gia.
Thứ hai, nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tiến
hành tập trung kinh tế Hoa Kỳ đã xây dựng cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế hình thức kiểm soát lần thứ nhất và lần thứ hai.
Thứ ba, có hai cơ quan là Uỷ ban thương mại liên bang Hoa
Kỳ và Cục chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp cùng có chức năng
kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế. Việc có 2 cơ quan có
quyền hạn ngang nhau trong vấn đề này khiến việc kiểm soát TTKT
tại Hoa Kỳ tương đối chặt chẽ, và loại bỏ được hầu hết các vụ việc
TTKT có nguy cơ dẫn đến các hành vi phản cạnh tranh.
2.1.2. Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của
EU
2.1.2.1. Tổng quan
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, số lượng các vụ việc
sáp nhập thông báo tới EC tương đối lớn nếu so sánh với số lượng
các vụ việc thông báo tập trung kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, số
lượng các vụ việc thông báo chỉ bằng 1/6 số lượng các vụ việc tại
Hoa Kỳ.
9
Hình 2.3: Số lượng các vụ việc thông báo tập trung kinh tế tại
Châu Âu
Nguồn: Uỷ ban Châu Âu
2.1.2.2. Quy định pháp lý
Trong quá trình xem xét một vụ việc TTKT, EC sẽ cần làm
rõ trong lúc tham vấn là:
- Vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của EC hay không;
- Việc xét chuyển hồ sơ điều tra sẽ chuyển cho các nước
thành viên theo Điều 9, ECMR hay sẽ được các nước thành viên
chuyển cho EC theo Điều 22, ECMR;
- Vụ việc có được giải quyết theo Thủ tục rút gọn hay không;
- Các bên liên quan trong vụ việc phải cung cấp thông tin
nào tại mẫu đơn CO;
- Những ảnh hưởng tới cạnh tranh, hiệu quả kinh tế;
- Khả năng hợp tác với các cơ quan quản lý cạnh tranh nước
ngoài;
- Thời gian phải hoàn thành từng nội dung cơ bản trên.
2.1.2.3. Cơ quan quản lý các vụ việc tập trung kinh tế
Có thể thấy rằng, quy định về sáp nhập của EC phản ánh cấu
trúc pháp lý và các quyết định chính sách có nhiều khía cạnh khác
với hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ. Một số sự khác biệt - đặc biệt là:
a) sự phân chia về tính pháp lý giữa Ủy ban châu Âu và các quốc gia
thành viên và b) thời hạn về thủ tục – đã tạo nên một số hệ quả có thể
gây xung đột khi một vụ tập trung kinh tế chịu sự xét duyệt của các
10
cơ quan quản lý cạnh tranh khác ngoài châu Âu.
Tại châu Âu, quyền kiểm soát hoạt động sáp nhập thuộc về
Ủy ban châu Âu (EC) và các quốc gia thành viên. EC có các quy
định về sáp nhập (ECMR) quy định các hoạt động sáp nhập nào
thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định này.
2.1.2.4. Đánh giá chung về các quy định của EU
Do Châu Âu là một cộng đồng chung bao gồm nhiều nước
thành viên, chính vì vậy, việc kiểm soát tập trung kinh tế tại EU có
những đặc điểm khác biệt và có nhiều điểm phù hợp để Việt Nam có
thể tham khảo, cụ thể như sau:
Thứ nhất, để kiểm soát chặt chẽ hoạt động tập trung kinh tế
trên thị trường EC cũng xây dựng cơ chế với 2 lần rà soát, hầu hết
các vụ việc gây quan ngại lớn về cạnh tranh sẽ bị tiến hành rà soát kỹ
lưỡng ở lần rà soát thứ hai.
Thứ hai, các quy định tập trung kinh tế của EU là sự đan xen
giữa quy định của từng quốc gia thành viên và của chung toàn khối.
Thứ ba, một điểm khác biệt tương đối rõ trong quy định về
tập trung kinh tế của EU đó là bất kỳ doanh nghiệp sáp nhập, người
làm công, đối thủ cạnh tranh hoặc chính phủ nước thành viên EU đều
có quyền khiếu nại kết luận của EC về một vụ sáp nhập.
2.2. Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ của các quốc gia đang phát
triển
2.2.1. Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của
Trung Quốc
Kinh nghiệm Chính sách sáp nhập của Trung Quốc bắt đầu
được thực thi kể từ khi Luật Chống độc quyền (AML) có hiệu lực
vào tháng 8 năm 2008. Đây là bộ luật với các quy định khá rộng dựa
trên khuôn khổ nhận thức giống với các nền kinh tế phát triển. Trong
đó, Trung Quốc đã cho thấy khả năng rất nhanh chóng tiếp thu những
điều vô cùng cần thiết như quá trình đánh giá vụ việc cạnh tranh, xa
hơn là xây dựng năng lực của Cơ quan điều tra.
2.2.1.1. Quy định về kiểm soát sáp nhập của Trung Quốc
Trong khi các quy định sáp nhập trong AML, đặc biệt những
vấn đề liên quan đến đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc sáp
nhập là khá rộng theo các quy định tương tự của các quốc gia phát
triển. Bên cạnh đó, chính sách sáp nhập của Trung Quốc có khá
11
nhiều đặc điểm riêng biệt, ví dụ, AML đưa ra quy định các vụ việc
sáp nhập có liên quan đến các doanh nghiệp nước ngoài phải xem xét
yếu tố an ninh quốc gia (điều 31). Cũng như vậy, chính sách công
nghiệp trong mỗi thời kỳ cũng là yếu tố ảnh hưởng tới các quy định
chung của AML liên quan tới sáp nhập.
Các ngưỡng thông báo sáp nhập theo AML
Ngày 3 tháng 8 năm 2008, Hội đồng nhà nước đã công bố
các ngưỡng thông báo sáp nhập được áp dụng thực hiện theo cơ chế
kiểm soát sáp nhập. Đặc biệt các công ty phải báo cáo với
MOFCOM trước khi hoàn thành các giao dịch tập trung nếu các giao
dịch thuộc các ngưỡng sau:
Tổng doanh thu toàn cầu của tất cả các bên trong giao dịch
vượt quá 10 tỷ nhân dân tệ (1,75 tỉ USD) trong năm tài chính trước
đó và mỗi công ty trong ít nhất 02 hoặc nhiều công ty có tổng doanh
thu hơn 400 triệu nhân dân tệ (62,66 triệu USD) tại Trung Quốc
trong năm tài chính trước đó, hoặc;
Tổng doanh thu tại Trung Quốc của tất cả các bên trên 2 tỷ
nhân dân tệ (313 triệu USD) trong năm tài chính trước đó và mỗi
công ty trong ít nhất 02 hoặc nhiều công ty có tổng doanh thu trên
400 triệu nhân dân tệ (62,66 triệu USD) tại Trung Quốc trong năm tài
chính trước đó.
Đánh giá tác động cạnh tranh của các vụ việc sáp nhập
theo AML
Điều 27 của AML liệt kê những nhân tố được xem xét bởi
MOFCOM trong việc đánh giá những ảnh hưởng đến cạnh tranh của
một vụ việc như sau: (1) thị phần và sức mạnh thị trường trên thị
trường liên quan; (2) mức độ tập trung thị trường; (3) những ảnh
hưởng đến gia nhập thị trường và yếu tố công nghệ; (4) những ảnh
hưởng đến người tiêu dùng và các công ty khác có liên quan; (5)
những ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế quốc gia; và (6)
những nhân tố khác ảnh hưởng tới cạnh tranh được xác định bởi Cơ
quan chống độc quyền của Hội đồng Nhà nước.
Đánh giá an ninh quốc gia
AML dẫn chiếu tới việc đánh giá an ninh quốc gia cho
những những giao dịch liên quan tới các bên nước ngoài, không có
những giải thích chi tiết về nội dung hoặc thủ tục. Ngày 3 tháng 2
năm 2011, Hội đồng Nhà nước đã ban hành “Lưu ý khi thành lập hệ
12
thống đánh giá an ninh về mua lại các công ty trong nước bởi các
nhà đầu tư nước ngoài”, và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 5 tháng 3
năm 2011.
2.2.1.2. Cơ quan kiểm soát hoạt động TTKT tại Trung Quốc
AML thành lập Ủy ban chống độc quyền là cơ quan dưới
Hội đồng nhà nước và chịu trách nhiệm ban hành các hướng dẫn, tổ
chức và điều phối thực thi các hoạt động chống độc quyền. 03 cơ
quan chính phủ sẽ chịu trách nhiệm cho việc thực thi AML: Cơ quan
phát triển quốc gia, Ủy ban cải cách (NDRC) thực thi các quy định
về Cartel liên quan đến giá, SAIC thực quy định về lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và các thỏa thuận độc quyền ngoại trừ các vấn
đề giá, MOFCOM thực các quy định kiểm soát sáp nhập.
2.2.1.3. Đánh giá chung về chính sách và các quy định kiểm
soát tập trung kinh tế của Trung Quốc
Đánh giá chung về chính sách và quy định về kiểm soát tập
trung kinh tế của Trung Quốc cho thấy một số điểm đáng lưu ý như
sau:
Thứ nhất, Trung Quốc đặc biệt coi trọng yếu tố chính trị, an
ninh quốc phòng trong việc xem xét đánh giá tất cả các vụ việc tập
trung kinh tế.
Thứ hai, bộ máy và cơ chế kiểm soát hoạt động tập trung
kinh tế tại Trung Quốc tương đối cồng kềnh và phức tạp. Uỷ ban
chống độc quyền quốc gia là cơ quan giữ vị trí cao nhất trong việc
kiểm soát hoạt động TTKT, dưới uỷ ban này là Bộ Thương mại chịu
trách nhiệm trực tiếp trong việc kiểm soát hoạt động TTKT tại Trung
Quốc.
Thứ ba, sau nhiều lần tiến hành sửa đổi các quy định về kiểm
soát TTKT của Trung Quốc hiện nay tương đối giống các quy định
EU.
2.2.2. Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của
Indonexia
2.2.2.1. Quy định về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
của Indonesia
Sáp nhập, hợp nhất và mua lại (các giao dịch có sự thay đổi
về kiểm soát), khi giá của các công ty liên quan trên ngưỡng xác định
về tài sản hoặc doanh thu phải thông báo tới KPPU. GR 57/2010 đưa
ra quy trình thủ tục thông báo bắt buộc sau sáp nhập trong các vụ sáp
13
nhập, hợp nhất hoặc mua lại (các giao dịch có sự thay đổi về kiểm
soát) mà sau khi sáp nhập:
- Giá trị tài sản 2,5 ngàn tỷ IDR (hoặc 205 triệu USD); hoặc
- Giá trị doanh thu 5 ngàn tỷ IDR (hoặc 409 triệu USD).
- Các giao dịch trong lĩnh vực ngân hàng cao hơn ngưỡng
thông báo chỉ cần thông báo tới KPPU nếu giá trị các tài sản liên
quan cao hơn 20 ngàn tỷ IDR (1,6 tỷ USD).
Các ngưỡng thông báo ở trên được tính toán bằng cộng gộp
các tài sản hoặc giá trị doanh thu của các công ty Indonesia có liên
quan như sau:
Công ty sau sáp nhập hoặc hợp nhất hoặc công ty mua lại và
công ty bị mua lại; và
Công ty trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát hoặc bị kiểm soát
bởi công ty sau sáp nhập hoặc hợp nhất hoặc mua lại.
Đánh giá vụ việc sáp nhập tại Indonesia
Để đánh giá một vụ việc sáp nhập, yếu tố đầu tiên được
KPPU sử dụng đó là chỉ số HHI. Việc phân tích chỉ số HHI như sau:
HHI
Đánh giá KPPU
< 1800
Vụ việc được tiếp tục tiến hành
> 1800
KPPU tiến hành phân tích sâu về vụ việc
Sau khi phân tích chỉ số HHI, trong vòng 60 ngày kể từ khi
tiến hành đánh giá sơ bộ như trên, KPPU sẽ tiến hành phân tích các
yếu tố như sau:
- Rào cản gia nhập thị trường;
- Nguy cơ về hành vi phản cạnh tranh;
- Tính hiệu quả; và/hoặc
- Phá sản.
2.2.2.2. Cơ quan quản lý hoạt động tập trung kinh tế tại
Indonesia
Căn cứ theo điều 28 và 29 của Luật Chống độc quyền số
5/1999 đã quy định cơ chế kiểm soát sáp nhập cho các giao dịch
M&A tại Indonesia. Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành là Uỷ ban
giám sát cạnh tranh kinh doanh (KPPU). Các quy định này bắt đầu
có hiệu lực từ năm 1999, tuy nhiên chỉ bắt đầu được thực hiện vào
14
năm 2010 khi Chính phủ Indonesia ban hành quy định cần thiết để
thực thi các quy định sáp nhập như Quy định của Chính phủ số
57/2010 liên quan tới kiểm soát sáp nhập (GR 57/2010). GR 57/2010
quy định chi tiết trình tự thông báo bắt buộc sau sáp nhập do KPPU
yêu cầu và các quy định hiện hành liên quan tới trình tự thủ tục thông
báo tự nguyện để tham vấn.
2.2.2.3. Đánh giá chung về chính sách và các quy định kiểm
soát tập trung kinh tế của Indonesia
Thông qua nghiên cứu bài học kinh nghiệm của Indonesia
cho thấy, các quốc gia đang phát triển rất cần thiết nghiên cứu và học
tập các quy định TTKT của các nước phát triển trong việc kiểm soát
hoạt động này. Có thế nói những quy định của EU và Mỹ là những
kim chỉ nam để các quốc gia đi sau có thể học tập và áp dụng.
2.3. Bài học kinh nghiệm về kiểm soát hoạt động tập
trung kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ của các nước
2.3.1. Xác định quan điểm và mục tiêu kiểm soát hoạt động
tập trung kinh tế
Thông qua việc phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới cho thấy rõ ràng để thực hiện tốt việc kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế, các quốc gia trên thế giới đều thể hiện rõ
quan điểm trong từng nội dung quy định về kiểm soát hoạt động tập
trung kinh tế.
2.3.2. Quy định về ngưỡng và tiêu chí đánh giá một vụ việc
tập trung kinh tế
Ngưỡng kiểm soát vụ việc tập trung kinh tế
Kinh nghiệm của các quốc gia đã tiến hành sửa đổi quy định
kiểm soát TTKT cho thấy, lợi ích từ việc sử dụng tiêu chí thị phần để
xác định ngưỡng thông báo TTKT không thể bù đắp cho những khó
khăn và chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu.
Tiêu chí đánh giá vụ việc tập trung kinh tế
Pháp luật cạnh tranh các nước trao quyền rất lớn cho cơ quan
cạnh tranh trong việc đánh giá tác động cạnh tranh của vụ việc
TTKT, đồng thời cũng cho phép cơ quan cạnh tranh tiến hành các
biện pháp để đảm bảo đạt được lợi ích kinh tế cũng như quyền lợi
người tiêu dùng. Tiêu chí quan trọng nhất là đảm bảo, bảo vệ cạnh
tranh trên thị trường.
2.3.3. Xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh phù hợp
15
Tính độc lập của các cơ quan cạnh tranh trong tổ chức và
hoạt động luôn luôn là mục tiêu hàng đầu mà các nước này hướng tới
xây dựng. Đây là nội dung rất quan trọng đảm bảo cho những cơ
quan này có thể thực hiện chức năng xử lý một cách công minh, vì
mục tiêu bảo vệ trật tự công cộng – cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KIỂM SOÁT
HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC
THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tại Việt Nam hiện nay
3.1.1. Khái quát tình hình kiểm soát hoạt động tập trung kinh
tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tại Việt Nam
Trong 5 năm gần đây, mức độ tăng trưởng hoạt động TTKT
tại Việt Nam đạt mức bình quân trên 30%. Thực trạng này đã phản
ánh một nền kinh tế mở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
và hệ quả là việc gia tăng các hoạt động TTKT như một thực tế
khách quan. Tuy nhiên, hoạt động TTKT cũng tiềm ẩn những yếu tố
hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và có thể gây ảnh
hưởng tới môi trường cạnh tranh. Chính vì vậy, trong thời gian qua,
Cục QLCT đã tích cực thực hiện nhiệm vụ theo dõi, giám sát và
kiểm soát hoạt động TTKT để ngăn chặn kịp thời và giảm thiểu tác
động tiêu cực của một số giao dịch TTKT tới thị trường. Trong giai
đoạn 2012 – 2016, Cục QLCT đã thụ lý 23 vụ việc thông báo TTKT
và rất nhiều vụ việc tham vấn về TTKT trước và trong quá trình các
doanh nghiệp thực hiện TTKT.
16
Hình 3.4: Số vụ việc thông báo tập trung kinh tế giai đoạn
2005 - 2016
Nguồn: Tổng hợp của Cục QLCT
Cho tới nay, Cục QLCT đã phê chuẩn tất cả các vụ việc
TTKT được thông báo và có 01 vụ việc thuộc trường hợp bị cấm
nhưng đáp ứng điều kiện cho hưởng miễn trừ theo quy định của Luật
Cạnh tranh.
Hình 3.5: Phân loại tổng số vụ việc thông báo tập trung kinh tế
theo hành vi giai đoạn 2005 - 2016
Nguồn: Tổng hợp của Cục QLCT
3.1.2. Đánh giá về kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
3.1.2.1. Thành tựu đạt được
Có thể nói, sau 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh, việc kiểm
17
soát hoạt động TTKT đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa
các hành vi phản cạnh tranh trên thị trường. Số lượng các vụ việc
TTKT thông báo và xin tham vấn ngày càng tăng đã cho thấy ý thức
tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp đã được cải thiện một cách rõ
ràng.
3.1.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Qua phân tích về thực trạng thực thi việc kiểm soát hoạt
động TTKT tại Việt Nam, có thể nhận thấy một số điểm cần được bổ
sung, hoàn thiện trong môi trường pháp lý về TTKT như sau:
- Một trong những hạn chế lớn nhất trong việc kiểm soát
hoạt động TTKT tại Việt Nam đó là việc số lượng các vụ việc TTKT
được thông báo tới Cục Quản lý cạnh tranh vẫn còn tương đối ít so
với thực tế trên thị trường (chỉ có 9 vụ việc thực hiện việc tham vấn
trong tổng số khoảng gần 285 vụ việc đã được tiến hành trong năm
2014).
3.2. Quan điểm, mục tiêu và định hướng kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế trong thời gian tới
3.3.1. Mục tiêu kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong
thời gian tới
Đối với việc kiểm soát hoạt động TTKT, trong thời gian tới
đây khi số lượng các vụ việc TTKT trên thị trường ngày một gia
tăng, một loạt các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá kéo theo
đó là sự tham gia thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài, chính
vì vậy mục tiêu lớn nhất phải bảo vệ lợi ích của quốc gia nói chung
và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng.
3.3.2 Quan điểm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong
thời gian tới
Để phục vụ các mục tiêu như trên, trên cơ sở các bài học
18
kinh nghiệm quốc tế của các nước, Việt Nam cần phải kiểm soát hoạt
động TTKT dựa trên các quan điểm như sau:
- Đảm bảo sự hài hoà giữa việc kiểm soát hoạt động TTKT
và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Cho phép sự linh hoạt nhất định trong quá trình thực thi
việc kiểm soát hoạt động TTKT trên thị trường.
3.3.3. Định hướng kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế
trong thời gian tới
Với những xu hướng và nhận định nêu trên, trong thời gian
sắp tới, các nhóm đối tượng sau đây cần phải tập trung giám sát:
Thứ nhất: Các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường
Thứ hai: Các thương vụ lớn được giao dịch ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam nhưng các Bên tham gia có hoạt động tại Việt Nam thông
qua hiện diện thương mại hoặc có sản phẩm, dịch vụ được tiêu
thụ/cung cấp tại thị trường Việt Nam.
Thứ ba: Các thương vụ M&A trong một số lĩnh vực quan
trọng của nền kinh tế.
3.4. Giải pháp hoàn thiện kiểm soát hoạt động tập trung
kinh tế trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tại Việt Nam
3.4.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam
- Bổ sung ngưỡng thông báo tập trung kinh tế
Kinh nghiệm của các quốc gia đã tiến hành sửa đổi quy định
kiểm soát TTKT cho thấy, lợi ích từ việc sử dụng tiêu chí thị phần để
xác định ngưỡng thông báo TTKT không thể bù đắp cho những khó
khăn và chi phí mà doanh nghiệp phải gánh chịu. Trên thực tế, hầu
hết các hệ thống kiểm soát TTKT chỉ sử dụng tiêu chí doanh thu để
19
xác định ngưỡng thông báo TTKT.
- Bổ sung các quy định về đánh giá tác động TTKT
- Sửa đổi về phạm vi và các hình thức TTKT phải kiểm soát
3.4.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế kiểm soát hoạt
động tập trung kinh tế tại Việt Nam
- Hoàn thiện mô hình cơ quan cạnh tranh Việt Nam
Căn cứ theo các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cục
Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh kết hợp tham khảo kinh
nghiệm quốc tế, đề tài đề xuất trong giai đoạn đầu từ 2015 - 2020,
Chính phủ cần thành lập một cơ quan cạnh tranh thống nhất trực
thuộc Chính phủ trên cơ sở nguồn lực Cục Quản lý cạnh tranh và Hội
đồng cạnh tranh
- Cần có sự thống nhất và tương thích của quy định về tập
trung kinh tế giữa Luật Cạnh tranh và các Luật khác
Việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa quản lý Nhà nước trong
các lĩnh vực chuyên ngành và quản lý cạnh tranh là yêu cầu tiên
quyết để đảm bảo hiệu quả quản lý chung của nhà nước đối với sự
vận hành lành mạnh của thị trường, xóa bỏ các lỗ hổng pháp lý giữa
các khu vực pháp luật khác nhau.
- Hoàn thiện quy trình thông báo tập trung kinh tế
Từ những đánh giá về thủ tục thông báo TTKT, tác giả cho
rằng giải pháp tốt nhất là sửa đổi, bổ sung quy định trong Luật Cạnh
tranh hoặc Nghị định hướng dẫn đạo luật này. Trong đó, tập trung
làm rõ yêu cầu cơ bản về nội dung của các tài liệu có trong hồ sơ
thông báo, đặc biệt là các thông tin về sản phẩm mà các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế kinh doanh; các thông tin trong
Báo cáo về thị phần của các doanh nghiệp.
- Khuyến nghị về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
20
chung quốc gia về M&A phục vụ tư vấn và quản lý nhà nước
Có một số công ty cũng có hoạt động thu thập các dữ liệu về
tình hình M&A tại Việt Nam, tuy nhiên các số liệu mà các doanh
nghiệp này đưa ra chỉ mang tính chất tham khảo và không có sự xác
nhận của các cơ quan có thẩm quyền. Việc xây dựng một hệ thống cơ
sở dữ liệu chung quốc gia sẽ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và
thực thi pháp luật của các cơ quan có liên quan.
3.4.3. Giải pháp đối với các doanh nghiệp và nhà đầu tư
- Tăng cường tham vấn trước với Cơ quan cạnh tranh trước
khi tiến hành hoạt động tập trung kinh tế
Hoạt động M&A sẽ càng ngày có nhiều phương thức phức
tạp mà có thể ban lãnh đạo doanh nghiệp chưa nắm vững. Ngoài ra,
hệ quả pháp lý nếu thương vụ có sự vi phạm pháp luật về cạnh tranh
(trong bối cảnh các vụ M&A nằm trong ngưỡng phải thông báo hoặc
bị cấm được dự đoán là sẽ gia tăng trong những năm tới) hoặc tổn
thất về tài chính, kinh tế là rất lớn nếu như các hợp đồng M&A
không được soạn thảo kỹ lưỡng, chặt chẽ. Do đó, việc tham vấn với
các cơ quan quản lý nhà nước cũng như việc cân nhắc sử dụng dịch
vụ của các đơn vị tư vấn, hãng luật có kinh nghiệm là rất quan trọng.
- Tăng cường nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp
Căn cứ trên mức độ nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp
thì hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh còn nhiều
hạn chế. Do đó, trong thời gian tới, Cơ quan cạnh tranh cần đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến. Bên cạnh các hình thức
truyền thống như hội nghị, hội thảo, cần có các hoạt động tuyên
truyền trực tiếp, trực quan, sáng tạo đến doanh nghiệp và các đối
tượng khác của Luật Cạnh tranh.
KẾT LUẬN
21
Trong các lĩnh vực của nền kinh tế hiện nay, thương mại và
dịch vụ là những lĩnh vực được xem là nhạy cảm đối với bất kỳ quốc
gia nào do đây là những lĩnh vực kinh tế phát triển ở mức độ cao
nhất, có tác động tới tất cả các lĩnh vực còn lại của nền kinh tế.
Chính vì vậy, các quốc gia phát triển trên thế giới đều coi trọng việc
kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động tập trung kinh tế trong lĩnh vực này.
Kinh nghiệm kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế của các
quốc gia phát triển đã cho thấy muốn kiểm soát chặt chẽ hoạt động
này đòi hỏi các quy định về kiểm soát hoạt động này cần phải liên
tục được hoàn thiện và theo kịp những biến động của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các Cơ quan cạnh tranh phải xây dựng được cơ chế
kiểm soát hợp lý để không bỏ sót các các vụ việc TTKT có nguy cơ
tiềm ẩn các hành vi phản cạnh tranh.
Trong khi đó, đối với các quốc gia đang phát triển, chính
sách và các quy định về kiểm soát hoạt động TTKT trong lĩnh vực
thương mại và dịch vụ phải đảm bảo sự hài hoà và cân bằng giữa
việc phát triển kinh tế của đất nước cùng với tạo lập môi trường cạnh
tranh bình đẳng và lành mạnh trên thị trường.
Có thể nói, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
kiểm soát tập trung kinh tế là một công việc thường nhật của các cơ
quan quản lý cạnh tranh. Ngược lại đây là một nhiệm vụ mới mà Việt
Nam chưa từng có. Tính từ thời điểm Luật cạnh tranh có hiệu lực đến
nay thì cơ quan thực thi Luật cạnh tranh nhận giải quyết một vụ tập
trung kinh tế còn hạn chế. Vì vậy, việc kiểm soát tập trung kinh tế
trên thị trường sẽ là một công việc vô cùng khó khăn đối với các cơ
quan thực thi Luật cạnh tranh, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế. Do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để
22
trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế, pháp lý để kiểm soát hữu hiệu
hiện tượng tập trung kinh tế là việc bắt buộc phải thực hiện đối với
các nhà lập pháp, các nhà quản lý kinh tế cũng như các cơ quan quản
lý cạnh tranh
Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, Luận án đã đạt được
một số kết quả có tính mới như sau:
1. Về cơ sở lý luận: Luận án đã phân tích khái niệm về
TTKT, mục tiêu, vai trò cũng như các đặc điểm của hoạt động TTKT
trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Bên cạnh đó, luận án cũng chỉ
ra các yếu tố tác động tới việc kiểm soát hoạt động TTKT trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ
2. Về nghiên cứu kinh nghiệm của các nước phát triển và
đang phát triển: Phân tích kinh nghiệm để rút ra bài học là một trong
những nội dung chủ yếu của luận án. Nghiên cứu đã phân tích cụ thể
kinh nghiệm các nước từ chính sách, nội dung pháp luật, cơ quan
thực thi để tìm ra các nội dung và bài học có thể áp dụng ở Việt Nam.
Các bài học kinh nghiệm rút ra cho thấy:
- Cần xây dựng cơ chế kiểm soát hoạt động TTKT trong lĩnh
vực thương mại và dịch vụ thật chặt chẽ, tuy nhiên vẫn tạo điều kiện
thuận lợi và thời gian nhanh nhất đối với các vụ việc không làm ảnh
hưởng tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường.
- Trong các quy định về kiểm soát TTKT trong lĩnh vực
thương mại và dịch vụ cần đặc biệt lưu ý tới các quy định về ngưỡng
thông báo với Cơ quan cạnh tranh cũng như các yếu tố cần phải đánh
giá trong quá trình xem xét một vụ việc TTKT.
- Về hoạt động của cơ quan cạnh tranh: nguyên tắc quan
trọng hàng đầu của cơ quan cạnh tranh là bảo đảm tính độc lập. Độc
lập về vị trí và độc lập khi ra quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
23
Bên cạnh đó, để vận hành tốt, cơ quan cạnh tranh phải có một số
quyền lực cơ bản bao gồm:
+ Phát hiện và loại bỏ các chính sách liên quan làm cản trở
môi trường cạnh tranh.
+ Yêu cầu dừng các vụ việc TTKT khi phát hiện thấy nguy
cơ ảnh hưởng tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường hoặc dẫn đến
các hành vi phản cạnh tranh.
3. Về các bất cập trong quá trình kiểm soát hoạt động TTKT
trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ tại Việt Nam: Luận án đã chỉ ra
một số điểm bất cập sau:
- Về nội dung các văn bản pháp luật: một số quy định liên
quan đến ngưỡng thông báo tập trung kinh tế, đánh giá vụ việc tập
trung kinh tế đã không phát huy tác dụng và hầu như không thể áp
dụng trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
- Về cơ quan cạnh tranh: Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay là
cơ quan thuộc Bộ Công Thương không đảm bảo vị trí độc lập, còn
ôm đồm nhiều chức năng làm phân tán nguồn lực.
4. Về các giải pháp: Thông qua phân tích kinh nghiệm của
các nước và phân tích, đánh giá kiểm soát hoạt động TTKT trong
lĩnh vực thương mại và dịch vụ trong thời gian vừa qua, Luận án đã
đề ra các giải pháp khắc phục hạn chế và hoàn thiện kiểm soát hoạt
động TTKT trong thời gian tới, bao gồm:
- Trong việc hoàn thiện pháp luật, cần xây dựng Luật sửa đổi
bổ sung Luật cạnh tranh, trong đó cần có làm rõ tiêu chí xác định
ngưỡng thông báo, tiêu chí đánh giá vụ việc TTKT, minh bạch quy
trình xử lý vụ việc, áp dụng hình thức xử lý vi phạm hợp lý dựa trên
cơ sở phạm vi và mức độ vi phạm; bổ sung và hoàn thiện các quy
định liên quan đến các hình thức TTKT, và mở rộng phạm vị xem xét