Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp ( giải pháp) giúp trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.7 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LẠNG GIANG
TRƯỜNG MẦM NON XUÂN HƯƠNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: Một số biện pháp ( giải pháp) giúp trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi phát triển
ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe.

Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền
Đơn vị : Trường Mầm non Xuân Hương
Huyện :Lạng Giang
Tỉnh :Bắc Giang.

Xuân Hương, tháng 10 năm 2015

MỤC LỤC
1


I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1. Cơ sở lý luận:
2. Cơ sở thực tiễn:
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng:
2. Phương pháp nghiên cứu
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
A. Thực trạng việc tổ chức HĐ phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường MN
B. Những giải pháp
V. Kết quả nghiên cứu:
1. Thực nghiệm
2. Ứng dụng:


VI. Kết luận và bài học kinh nghiệm
1. Kết luận:
2. Bài học kinh nghiệm

2


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số giải pháp giúp trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt
động kể chuyện cho trẻ nghe”

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Học thuyết Mác – Lênnin đã chỉ ra rằng: Ngôn ngữ bắt đầu từ lao động, bắt
nguồn từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với con người trong lao động và trong cuộc
sống. Ở đứa trẻ, ngôn ngữ phát triển trong nhu cầu giao tiếp giữa trẻ với môi trường
xung quanh. Trẻ bắt chước mọi người nói và được mọi người dạy.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
Giáo dục Mầm non. Ngôn ngữ là phương tiện để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi, nhận
thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa. Ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ
một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy. Ngôn ngữ của trẻ phát
triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức sâu rộng và giao tiếp tốt, góp phần quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Đối với trẻ Mầm non, đặc biệt trẻ 3 – 4 tuổi rất nhạy cảm với nghệ thuật ngôn
từ. Những âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca sớm đi vào
tâm hồn trẻ thơ. Chính vì vậy, cho trẻ tiếp xúc với văn học là con đường phát triển
ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất và hiệu quả nhất.
Thông qua các tác phẩm văn học giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng
tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ được nghe kể chuyện,
trẻ kể lại truyện ngôn ngữ của trẻ được phát triển, vốn từ của trẻ phong phú, trẻ phát

âm được mạch lạc, rõ ràng. Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một vật hay sự
kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở mỗi giai đoạn, độ tuổi đều mang một đặc trưng
khác nhau. Đặc biệt trẻ 3 – 4 tuổi, sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng
đặc biệt của vốn từ. Vốn từ của trẻ phong phú thì ngôn ngữ của trẻ cũng trở nên mở
rộng hơn, có trật tự hơn mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày
ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ, hoàn cảnh của trẻ cũng bắt đầu phát triển.
Thông qua các tác phẩm văn học như truyện kể, thơ ca, hò, vè, câu đố, tục ngữ,
ca dao...trẻ đã thực sự bị lôi cuốn vào các hoạt động khác tích cực, có hiệu quả. Để trẻ
3


được phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua một tiết dạy hay người giáo viên không chỉ
dừng lại ở chỗ trẻ hiểu được điều gì? Trẻ có hứng thú nghe hay không? Mà giáo viên
Mầm non cần phải giúp trẻ thể hiện được suy nghĩ của mình, giúp trẻ nhập vai cùng
nhân vật, sống cùng nhân vật, đặc biệt biết dùng ngôn ngữ của mình để đánh giá nhân
vật, trò chuyện, đàm thoại một cách mạch lạc. Trẻ biết kể lại câu chuyện theo tranh,
đồ chơi, kể chuyện sáng tạo, biết kể diễn cảm, mạch lạc, không nói ngọng, nói lắp.
Yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kĩ năng tổng hợp, kĩ năng
truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và nói biểu cảm.
Những kĩ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ thống bằng con
đường luyện tập thường xuyên hàng ngày.
2. Cơ sở thực tiễn
Giáo viên khi tổ chức các giờ kể chuyện cho trẻ nghe hầu hết còn máy móc, rập
khuôn chưa sáng tạo. Phần lớn không tạo điều kiện để trẻ phát huy được tính tích cực
của trẻ, trẻ không nói được những điều mà trẻ hiểu, trẻ biết. Mặt khác, trẻ 3 – 4 tuổi do
bộ máy phát âm của trẻ chưa hoàn thiện, trẻ học qua bắt chước nên khi phát âm trẻ
còn ngọng, hay nói lắp, diễn đạt câu “ cộc ”, chưa đầy đủ các thành phần. Vốn từ của
trẻ thì chưa phong phú nên đôi lúc trẻ không diễn đạt được ý kiến của mình cho người
khác hiểu. Từ những cơ sở trên đã thúc đẩy nghiên cứu đề tài “ Một số giải pháp giúp

trẻ 3 – 4 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt là
thông qua hoạt động làm quen văn học. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm ra các “
biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài này, tôi tìm tòi nghiên cứu để tìm ra những giải pháp, kinh nghiệm
hay, lựa chọn các hình thức tổ chức, các phương pháp phù hợp góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động kể chuyện cho trẻ Mẫu giáo 3 – 4 tuổi nghe. Kể chuyện trong
trường Mầm non góp phần giúp trẻ biết được cái thiện – cái ác, đặc biệt trẻ có được
vốn từ phong phú. Từ đó mà trẻ có thể diễn đạt được rõ ràng, mạch lạc hơn. Trẻ có thể
tự tin, mạnh dạn, hồn nhiên hơn khi giao tiếp với người khác.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Đối tượng:
-Trẻ 3 – 4 tuổi
4


- Số lượng trẻ: 34cháu
17 cháu nam.
17 cháu nữ.
- Nhận thức của trẻ:
Đầu năm nhận trẻ tôi tiến hành khảo sát nhận thức của trẻ mức độ đạt được như
sau:
STT
1
2
3
4

Mức độ biểu hiện

Tốt
Khá
Trung bình
Yếu

Số lượng
5 trẻ
20 trẻ
7 trẻ
2 trẻ

%
14,7 %
58,8 %
20,6 %
5,9 %

2.Phương pháp nghiên cứu:
Trong để tài này tôi đã lựa chọn và sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu ( Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non;
Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi; Phương pháp giúp trẻ làm
quen với tác phẩm văn học; Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 3 – 4 tuổi; Tài liệu
bồi dưỡng hè; Mạng intrernet)
- Phương pháp điều tra khảo sát thực trạng
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
- Thu thập xử lý số liệu
- Phương pháp thực nghiệm
- Tổng kết kinh nghiệm
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

A.Thực trạng:
Năm học 2017 - 2018, tôi được phân công phụ trách lớp 3 – 4 tuổi. Từ ngữ
của trẻ học qua người thân đôi khi chưa chính xác, lệch lạc. Trẻ 3 – 4 tuổi học qua con
đường bắt chước nên khi người thân phát âm chưa chuẩn dẫn theo trẻ phát âm sẽ
không chuẩn. Mặt khác, một số phụ huynh còn bận công việc nên ít có thời gian quan
tâm đến trẻ. 1 số trẻ còn sống chung với người giúp việc nên ít có cơ hội giao tiếp. Từ
đó, tôi nhận thấy những điều kiện thuận lợi và khó khăn sau:
1.Thuận lợi:
5


- Ban giám hiệu nhà trường về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng sư
phạm. Được cung cấp một số trang thiết bị phục vụ cho việc làm quen văn học như
tranh ảnh, băng đĩa kể chuyện, truyện tranh và nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú, hấp
dẫn khác. Được tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, trường, dự giờ các tiết mẫu
về chuyên đề “ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ
nghe”.
- Trẻ trong lớp đều ở cùng một độ tuổi.
- Hơn nữa, bản thân tôi có thế mạnh của mình là được đào tạo bài bản, ham
học hỏi, thích khám phá cái hay, cái mới. Có ý thức phấn đấu vươn lên, có năng khiếu
kể chuyện, biết tự sử dụng công nghệ thông tin.
2.Khó khăn:
- Hầu hết trẻ trong lớp đều là những trẻ năm đầu tiên đi học nên trẻ chưa có
nề nếp học tập. Hoạt động của trẻ nhìn chung còn rất chậm, trẻ nhút nhát, sử dụng từ
chưa đúng trong các giờ hoạt động “ làm quen văn học” còn chưa hứng thú.
- Nhận thức của trẻ không đồng đều.
- Trẻ 3 tuổi đang bước vào giai đoạn khủng hoảng tâm lý nên trẻ rất ương
bướng.
- Sự hứng thú của trẻ khi tham gia vào hoạt động chưa cao.
- Vốn từ của trẻ còn hạn chế, trẻ hay nói lắp, nói ngọng, nói “ cộc”, chưa diễn

đạt được ý nghĩ của mình cho người khác hiểu.
- Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đa dạng, phong phú, thẩm mĩ chưa đạt, giá trị sử
dụng chưa cao.
- Nhận thức của một số phụ huynh về chương trình giáo dục Mầm non còn hạn chế
nên việc phối hợp với phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn.
Với tình hình thực tế của lớp tôi phụ trách như vậy, nên tôi rất băn khoăn, lo lắng,
suy nghĩ, tìm tòi các giải pháp làm thế nào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe. Và tôi đã sử dụng một số giải pháp sau:
B. Những giải pháp:
1. Tìm hiểu đặc điểm, tình hình nhận thức của trẻ
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thì trước hết giáo viên phải nắm vững đặc điểm
tâm sinh lý và hoàn cảnh của trẻ. Vào đầu năm học tôi đã tổ chức nhiều cuộc trò
chuyện với trẻ, kể cho trẻ nghe vài câu chuyện ngắn tương đối dễ, sau đó đặt ra các
câu hỏi: Cô vừa kể câu chuyện gì? Trong truyện có ai? Hoặc trò chuyện về gia đình
6


bé... Trong quá trình trò chuyện tôi luôn chú ý, quan sát, đàm thoại với trẻ và tiến hành
khảo sát khả năng cảm thụ văn học cũng như khảo sát đặc điểm ngôn ngữ của trẻ. Từ
đó đề ra phương hướng giáo dục cho từng cá nhân và cho cả lớp một cách thích hợp.
Mặt khác, gia đình là yếu tố quan trọng để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Từ
những lời ru của bà, của mẹ, từ những câu chuyện kể của ông, những lời trò chuyện
của cha, của anh, của chị là những bài học hiệu quả nhất để giáo dục trẻ, giúp trẻ phát
triển tốt hơn về ngôn ngữ tiếng việt.
Từ những hoàn cảnh và đặc điểm tình hình nhận thức của trẻ, tôi đã xây
dựng kế hoạch giảng dạy và bồi dưỡng thích hợp cho trẻ.
2. Xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế, mức độ nhận thức
của trẻ
Dựa vào tình hình của lớp, kế hoạch của nhà trường tôi đã tự lên kế
hoạch nhánh, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày cho bản thân. Được sự đồng ý, phê duyệt

của Ban giám hiệu nhà trường tôi đã sưu tầm những câu chuyện mới phù hợp với chủ
điểm, phù hợp với độ tuổi thay thế những câu chuyện đã quá quen thuộc với trẻ để dạy
trẻ. Kết thúc mỗi chủ đề tôi đánh giá lại những việc làm được và chưa làm được. Từ
đó, rút ra kinh nghiệm cho chủ đề sau.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch, tôi chú ý đến việc giáo dục trẻ về ngôn ngữ
tiếng Việt. Tôi kể chuyện cho trẻ nghe ở mọi lúc, mọi nơi vào các buổi đón trẻ, hoạt
động có chủ đích, các buổi chiều, hoạt động chiều. Lên kế hoạch trò chuyện với trẻ
hàng ngày.
Ví dụ: Trong chủ điểm gia đình, căn cứ vào nhận thức của trẻ là trẻ đã quá quen
thuộc với câu chuyện “Tích Chu” rồi nên tôi đã mạnh dạn thay câu chuyện “Tích
Chu” bằng câu chuyện “ Chú Vịt Xám” vẫn phù hợp với chủ điểm và phù hợp với
nhận thức của trẻ. Trong giờ đón trẻ, tôi trò chuyện với trẻ về gia đình trẻ, hỏi trẻ ở
nhà có ngoan ngoãn, vâng lời ông bà bố mẹ không? Vào giờ kể chuyện thì tôi kể cho
trẻ nghe câu chuyện đó. Đến chiều tôi lại kể lại câu chuyện cho trẻ nghe, trẻ có thể
cùng với cô để trẻ khắc sâu hơn kiến thức. Cuối ngày tôi nhận xét vào sổ nhật kí hàng
ngày xem mức độ tiếp thu của trẻ đến đâu rồi đưa ra các biện pháp ôn luyện cho
những trẻ yếu kém.
3.Tạo môi trường tích cực cho trẻ tham gia vào hoạt động
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình đổi
mới. Hiện nay, nếu cô tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ
7


phát triển ngôn ngữ, kết quả tham gia vào các hoạt động đạt kết quả rất cao. Vì thế
ngay từ đầu năm học mặc dù diện tích lớp chật nhưng tôi đã tận dụng tối đa những
mảng tường trống để đưa hình ảnh nhân vật của các câu chuyện nổi bật lên các mảng
tường đó. Những câu chuyện được thể hiện trên các mảng tường trong không gian to
sẽ giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận về các nhân vật, tạo cho trẻ có cảm giác đang
sống trong một thế giới truyện cổ tích. Bên cạnh đó, ở góc sách truyện tôi trang trí
theo từng chủ đề, sắp xếp các cuốn truyện tranh phù hợp với chủ đề để trẻ thích khám

phá, trải nghiệm. Từ đó trẻ sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn, thông minh hơn và vận dụng
được ngay ngôn ngữ của mình trong khi giao tiếp. Nhờ dó mà trẻ hứng thú hơn và
phát triển ngôn ngữ ở trẻ một cách tự nhiên hơn.
Sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy.
Tạo môi trường để trẻ hoạt động là một việc làm vô cùng quan trọng bởi
nó là chỗ dựa vững chắc để thu hút trẻ, gợi cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia
vào hoạt động nghe cô kể chuyện.
Ví dụ: Đối với chủ điểm “ Gia đình” tôi trang trí góc sách truyện bằng hình ảnh
các nhân vật, phong cảnh của câu chuyện “ Tích Chu”. Sưu tầm các tập san có các câu
chuyện có nội dung vể gia đình. Sắp xếp các cuốn truyện tranh có nội dung về gia
đình gọn gàng trẻ dễ lấy, dễ cất.
4. Chuẩn bị các đồ dùng trực quan đầy đủ, đẹp, sáng tạo phù hợp với
câu chuyện.
Như chúng ta đã biết, tư duy của trẻ 3 – 4 tuổi là tư duy trực quan hình tượng, trẻ
thích được nhìn, hoạt động với đồ vật. Chính vì vậy trong quá trình kể chuyện cho trẻ
nghe giáo viên nào cũng phải nghĩ đến đồ dùng trực quan là gì? Đồ dùng trực quan
hấp dãn bao nhiêu sẽ kích thích gây hứng thú cho trẻ bấy nhiêu. Đặc biệt trẻ rất thích
đồ dùng đẹp mới lạ, hấp dẫn, biết chuyển động. Vì thế, tôi đã tận dụng các phế liệu
như xốp, chổi rơm, đĩa nhựa đồ chơi, cúc áo ... để làm mặt và đầu cho các con rối. Sau
đó dùng vải hoặc len móc làm váy, thân, tay để khi sử dụng không bị thô, cứng.
Tận dụng ưu điểm của mình là biết tự sử dụng công nghệ thông tin. Tôi đã thiết
kế các slide theo nội dung câu chuyện để trình chiếu. Khi quan sát vào đó trẻ
đượcnhìn nhân vật trong câu chuyện bằng không gian 3 chiều rõ hơn, hoạt động của
nhân vật mượt mà hơn. Trẻ sẽ thích thú và tiếp thu bài nhanh hơn.
Ví dụ: Truyện “ Chú vịt Xám” tôi chụp tranh phong cảnh đưa vào máy tính chỉnh sửa,
cắt các nhân vật tương ứng, sau đó ghép lại thành một câu chuyện theo ý muốn.
8


Sau mỗi câu trả lời đúng tôi khái quát lại trên máy tính.

Ví dụ: Trong câu chuyện có những ai? Tôi lần lượt cho xuất hiện hình ảnh các nhân
vật xuất hiện. Trẻ nhìn trên đó khi thấy nhân vật nào xuất hiện thì trẻ sẽ gọi tên nhân
vật đó.
Như vậy, đồ dùng trực quan trong tiết dạy truyện có tác dụng rất lớn, trẻ
nghe cô kể một cách say sưa với những hình ảnh sống động, ngộ nghĩnh. Qua đó giúp
trẻ nhớ tên truyện, tên nhân vật, nội dung truyện một cách nhanh nhất, dễ dàng nhất
đồng thời đồng thời trẻ được phát triển ngôn ngữ.
5. Lồng ghép các môn học khác và nghệ thuật kể chuyện của cô, sử dụng
câu hỏi gợi mở chú ý cá nhân lấy trẻ làm trung tâm.
Như chúng ta đã biết trẻ Mầm non chưa tự đọc được tác phẩm văn học, trẻ
muốn cảm nhận được tác phẩm văn học phải nhờ vào người lớn ở nhà và cô giáo ở
trường. Vì vậy, cô giáo là chiếc cầu nối giữa tác phẩm văn học với trẻ. Do đó, lời đọc,
lời kể có thể coi là phương pháp quan trọng nhất khi kể chuyện cho trẻ nghe. Lời kể
càng hay, càng hấp dẫn bao nhiêu là tiền đề để trẻ bắt chước ngữ điệu, giọng điệu, lột
tả tính cách nhân vật, là cơ sở phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giúp trẻ tri giác toàn bộ nội
dung câu chuyện, tình tiết các câu hội thoại, đối thoại, độc thoại và trẻ dễ dàng hiểu
đầy đủ hơn nghĩa của các từ. Lời kể của cô chính là thước đo chuẩn mực cho trẻ học
tập.
Biết được điều đó, tôi tìm hiểu các tác phẩm sau đó xác định giọng kể
cho phù hợp. Tôi thường căn cứ diễn biến tâm trạng, hành động của nhân vật,
bối cảnh xảy ra, tình tiết để thể hiện ngữ điệu.
Cùng là một nhân vật, bối cảnh khác nhau thì sắc thái, ngữ điệu cũng
khác nhau.
Ví dụ: Truyện “ chú Vịt Xám”, cũng là chú Vịt Xám đoạn đầu khi nghe lời mẹ
dặn với giọng to, trong sáng, hồn nhiên. Nhưng khi không thấy mẹ thì giọng Vịt Xám
hoảng hốt, run sợ. Khi xin lỗi vịt mẹ thì giọng Vịt Xám nhỏ, ngập ngừng.
Trong truyện nhân vật phản diện cũng có những giọng điệu khác nhau.
Ví dụ: Truyện “ Cáo, Thỏ và Gà trống”. Cáo là nhân vật phản diện. Đoạn đầu
khi xin sang nhà Thỏ ở nhờ thì giọng Cáo nhẹ nhàng, từ tốn tỏ thái độ được thân ái.
Còn khi gặp bầy Chó, Gấu thì giọng sói hung hăng quát nạt nhưng khi gặp Gà trống

thì giọng Cáo sợ hãi hoảng hốt.
9


Hoặc hay trong cùng câu chuyện có những lời dẫn truyện cô cũng phải
kể thật diễn cảm để trẻ tượng ra khung cảnh trong truyện.
Ví dụ; Khi kể chuyện “ Thỏ con không vâng lời ”. “Thỏ con đi mãi ... chơi xa ...
thật là xa ... thế rồi Thỏ con quên mất đường về nhà”, người dẫn chuyện phải kéo dài
âm “ mãi” để diễn tả đường đi chơi của Thỏ rất dài và rất xa ngôi nhà của mình.
Không chỉ chú ý đến ngữ điệu giọng kể, tôi còn chú ý đến nhịp điệu, cường
độ, lúc dồn dập hồi hộp, lúc từ tốn, lúc to, lúc nhỏ khác nhau. Tôi đã làm trẻ thu hút
tới lời kể của tôi, nhờ đó mà trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, nhớ lâu hơn.
Như vậy để có giong kể hay, hấp dẫn tôi phải tự mình rèn luyện, tập kể
nhiều lần kết hợp giữa giọng điệu và nét mặt cho đồng nghiệp nghe để tham gia góp ý
kiến cùng chỉnh sửa.
Nếu đơn thuần chỉ có lời kể trong giờ học sẽ làm cho trẻ cảm thấy nhàm chán
và mệt mỏi. Vì vậy, để tạo bầu không khí thoải mái, không gò bó, ép buộc trẻ, trẻ học
mà chơi, chơi mà học tôi đã tích hợp một số bộ môn khác vào trong giờ học. Nhưng
tích hợp ở đây không có nghĩa là xáo trộn kèm dạy quá nhiều môn học khác nhau mà
ta phải tích hợp sao cho thật nhẹ nhàng hòa quện với nhau và xen kẽ các hoạt động,
tĩnh khác nhau.
Ví dụ: Kể câu chuyện “ Chú Vịt Xám”. Tôi tích hợp hoạt động giáo dục âm nhạc, hoạt
động phát triển thể chất. Tôi cho trẻ hát bài “ Mẹ yêu không nào”, trò chuyện về nội
dung bài hát, dẫn dắt trẻ vào câu chuyện. Kết thúc cho trẻ hát bài “ Đàn vịt con”.
Đồng thời, khi kể chuyện cho trẻ nghe tôi lồng ghép một bản nhạc nền nhẹ nhàng, du
dương để thu hút trẻ vào bài. Khi cô trích dẫn đến đoạn “ Vịt mẹ dẫn Vịt con nhảy
tùm xuống ao”, cô và trẻ cùng làm động tác nhảy tùm ( là bật nhảy về phía trước).
Tùy từng câu chuyện mà tôi sử dụng các hình thức gây hứng thú vào bài dạy
khác nhau, có những câu chuyện cô cho trẻ hát một bài trong chủ điểm, hoặc cô sử
dụng tình huống.

Ví dụ: Truyện “ Thỏ con ăn gì?” tôi cho một trẻ đóng làm một chú Thỏ bị đói
bụng nên khóc thút thít. Tôi hỏi các trẻ khác “ Làm thế nào để giúp bạn Thỏ đây?
( Lấy thức ăn cho thỏ...). Nhưng mà Thỏ ăn được gì nhỉ? ( Ăn cơm, ăn cà rốt ... ). Để
biết được Thỏ ăn gì các con hãy lắng nghe cô kể câu chuyện “ Thỏ con ăn gì?”. Có thể
cho trẻ chơi một trò chơi. Ví dụ: Truyện “ Cáo, Thỏ và Gà trống” tôi cho trẻ chơi trò
chơi bắt chước tiếng kêu các con vật như con mèo, con chó, con gà trống... Sau đó,
dẫn dắt trẻ vào câu chuyện.
10


Như vậy, qua việc tích hợp lồng ghép các nội dung giáo dục tôi thấy trẻ
hứng thú, tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng không bị gò bó, trẻ được chơi, vận động tạo
cảm giác sảng khoái, thoải mái.
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe thì hệ
thống câu hỏi đàm thoại là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Tùy vào từng
độ tuổi, từng mức độ nhận thức của từng trẻ trong lớp mà tôi đưa ra các câu hỏi sao
cho phù hợp để trẻ có thể trả lời được, đó là động lực khuyến khích trẻ phát triển ngôn
ngữ. Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu, từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến khái quát và mang tính gợi mở tác động đến toàn bộ trẻ trong lớp. Câu
hỏi đặt ra theo trình tự nội dung, sát nội dung, sát cốt truyện.
Ví dụ: Câu chuyện “ Cáo, thỏ và Gà trống”: Cô vừa kể cho các con nghe câu
chuyện gì? Trong truyện có những nhân vật nào? Con có nhận xét gì về ngôi nhà của
Cáo và ngôi nhà của Thỏ? Khi mùa xuân đến, chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà của
Cáo? Ai đã đến giúp Thỏ đuổi Cáo đi? Vì sao Gấu, Chó không đuổi được Cáo? Gà
trống làm thế nào để đuổi Cáo?
Trong khi đàm thoại tôi luôn chú ý tới những trẻ yếu, trẻ nhút nhát. Khi hỏi
trẻ cô cũng hỏi trẻ bằng các giọng điệu, cử chỉ, điệu bộ khác nhau nhằm kích thích,
gây hứng thú cho trẻ trả lời.
Như vậy,bằng việc sử dụng các câu hỏi đàm thoại phù hợp với trẻ, tôi thấy
không chỉ giúp trẻ phát triển nhận thức, thể hiện tình cảm với nhân vật. Qua đó còn

giúp trẻ phát triển nhân cách đặc biệt là phát triển ngôn ngữ về vốn từ, khả năng diễn
đạt. Vì vậy mà chất lượng tiết dạy của tôi đạt kết quả cao.
6. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và
nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp
không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu
của góc văn học để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng của lĩnh vực phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe. Hàng tháng
tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung về chủ điểm, về các
câu chuyện cô đã kể cho trẻ nghe. Qua đó, phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát
triển như thế nào và có biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia
đình.
11


Ví dụ: Cô ghi tên câu chuyện mà tuần này được học, phụ huynh sẽ nhìn vào
đó để về nhà có thể kể cho trẻ nghe. Khi ở lớp cô kể cho trẻ nghe chuyện gì tôi trao
đổi với phụ huynh trong giờ trả trẻ để khi về nhà gia đình có thể hỏi lại, trẻ sẽ nhớ lại
và có thể kể lại câu chuyện đó. Như vậy, ngôn ngữ của trẻ được phát triển phong phú
và đa dạng.
Huy động phụ huynh đóng góp, thu thập những nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm
như báo hoạ mi, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, miếng xốp…kết hợp trong và ngoài giờ
đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan
trọng để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
V. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
1. Thực nghiệm:
Bài tập thực nghiệm chứng minh cho các giải pháp trên.


GIÁO ÁN
HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC
Chủ điểm :
Gia đình thân yêu của bé
Đề tài :
Truyện “ Chú vịt Xám”
Loại tiết :
Cung cấp kiến thức
Số lượng trẻ :
Thời gian :
Người thực hiện :
Ngày thực hiện :
I ) Mục đích – yêu cầu
1 ) Kiến thức
- Trẻ biết tên truyện, “Chú vịt Xám ”, các nhân vật trong truyện: Vịt mẹ, vịt Xám, đàn
vịt con, con Cáo.
- Trẻ hiểu từ khó: “ Tách đàn”, nghĩa là vịt Xám đang đi cùng đàn đã bỏ đi chơi một
mình, không đi cùng đàn nữa. “ Nhảy tùm” là nhảy rất mạnh và nhanh.
12


- Trẻ hiểu nội dung câu truyện: Câu chuyện kể về một chú vịt Xám khi đi chơi, không
nghe lời mẹ dặn đã tách ra khỏi đàn nên suýt nữa bị con Cáo ăn thịt, may mà có Vịt
mẹ đến cứu. Từ đó, không bao giờ vịt Xám dám làm sai lời mẹ dặn nữa.
2 ) Kĩ năng
- Trẻ biết lắng nghe và ghi nhớ nội dung câu truyện.
- Trẻ biết trả lời câu hỏi của cô rõ ràng, nói đầy đủ câu, đúng nội dung câu truyện.
- Rèn kĩ năng quan sát, chú ý, ghi nhớ cho trẻ.
- Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ rèn cách nói câu hoàn chỉnh.
3 ) Thái độ

- Trẻ hứng thú khi tham gia các hoạt động trong giờ học.
- Giáo dục trẻ biết vâng lời người lớn.
*) Tích hợp: Giáo dục âm nhạc bài “Mẹ yêu không nào; Đoàn tàu nhỏ xíu; Đàn vịt
con”.
II ) Chuẩn bị
1 ) Đồ dùng
a ) Đồ dùng của cô:
- Cô thuộc câu truyện, kể diễn cảm, đúng giọng điệu các nhân vật.
- Tranh minh họa nội dung câu chuyện:
+) Tranh 1: Vịt mẹ dẫn đàn vịt con đi chơi.
+) Tranh 2: Vịt Xám tách ra khỏi đàn đi chơi một mình.
+) Tranh 3: Con Cáo định ăn thịt Vịt Xám.
+) Tranh 4:Vịt mẹ dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao.
- Phim cho trẻ xem.
- Nhạc đệm bài hát “ Mẹ yêu không nào; Đàn vịt con; Đoàn tàu nhỏ xíu”, nhạc nền để
kể chuyện.
b ) Chuẩn bị cho trẻ
- Trang phục trẻ gọn gàng.
- Mỗi trẻ một mũ vịt.
- Trẻ ngồi dưới chiếu, ghế xếp hình chữ U.
3) Phương tiện:
- Máy tính, loa, máy chiếu.
III ) Tiến hành
13


HOẠT ĐỘNG CỦA CÔ
*) Hoạt động 1: Gây hứng thú ( 2 phút )
- Cô và trẻ cùng biểu diễn bài “ Mẹ yêu không
nào”.

- Trò chuyện:
+) Cô và các con vừa biểu diễn bài gì?
+) Bạn nhỏ trong bài hát khi đi đã biết làm gì?
+) Khi về bạn biết làm gì?
+) Bạn ấy có đáng yêu không?
- Dẫn dắt: Có một câu chuyện kể về một bạn vịt
Xám đã không nghe lời mẹ khi đi chơi cùng đàn
nên suýt chút nữa bị Cáo ăn thịt. Để biết ai đã cứu
chú vịt Xám chúng mình hãy lắng nghe cô kể câu
chuyện “ Chú vịt Xám ”.
*) Hoạt động 2 : Kể chuyện cho trẻ nghe ( 5 phút)
- Lần 1: Kể diễn cảm kết hợp với cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt.
- Lần 2 :Kể diễn cảm kết hợp với sử dụng tranh
minh họa.
*) Hoạt động 3 : Đàm thoại, trích dẫn nội dung
làm rõ ý ( 12 phút ).
- Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì?
- Trong truyện có những ai?
- Một hôm vịt mẹ dẫn đàn vịt con đi chơi, trước
khi đi vịt mẹ dăn điều gì?

HOẠT ĐỘNG CỦA TRẺ
- Trẻ biểu diễn cùng cô.

- Mẹ yêu không nào.
- Bạn nhỏ hỏi mẹ.
- Bạn ấy đã biết chào mẹ.
- Có ạ.


- Trẻ lắng nghe.
- Trẻ lắng nghe và quan sát.

- Truyện “ Chú vịt Xám”.
- Vịt mẹ, Vịt Xám, đàn vịt
con, con Cáo.
- Vịt mẹ dặn “ các con phải
đi theo đàn, theo mẹ, không
được tách ra đi một mình mà
Cáo ăn thịt”.

=> Một hôm vịt mẹ dẫn đàn vịt con đi chơi, vịt mẹ
dặn “các con nhớ phải đi theo đàn, theo mẹ, không
14


được tách ra đi một mình mà Cáo ăn thịt”.
- Chú vịt Xám có nghe lời mẹ dặn không?
=> Vừa ra đến cổng làng chú vịt Xám đã không
nghe lời mẹ mà đã tách ra đi chơi một mình và đi
đến một cái ao có rất nhiều tôm cá.
- Cô giải thích từ “ tách đàn”: Vịt Xám đang đi
chơi cùng mẹ và đàn vịt con nhưng lại bỏ đi chơi
một mình, không đi chơi cùng đàn vịt nữa thì gọi
là tách đàn.
- Chuyện gì đã xảy ra với vịt Xám khi chú đi chơi
một mình?
- Ai đã đến cứu vịt Xám?
- Từ đó vịt Xám trở nên như thế nào?
=>Vịt Xám ăn gần no, chú nhìn lên không thấy

mẹ. Hoảng sợ, chú nhảy lên bờ kêu gào ầm ĩ. Con
Cáo đang ngủ, nghe thấy vịt Xám kêu, nó chồm
dậy đến gần chỗ vịt Xám. Đúng lúc ấy vịt mẹ đi
tới dẫn vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Từ ấy, vịt
Xám không dám làm sai lời mẹ dặn nữa.
- Cô giải thích từ “ nhảy tùm” là nhảy rất nhanh và
mạnh.
- Con thấy chú vịt Xám có đáng yêu không? Tại
sao?
=> Cô khái quát nội dung câu chuyện: Câu chuyện
kể về một chú vịt Xám khi đi chơi cùng đàn. Vì
không nghe lời mẹ dặn đã tách ra đi một mình nên
suýt bị con Cáo ăn thịt. Đúng lúc ấy vịt mẹ đã đến
cứu. Từ đó, vịt Xám không bao giờ làm sai lời mẹ
dặn nữa.
=> Giáo dục trẻ luôn biết vâng lời người lớn,
không ra đường chơi một mình.
- Cho trẻ đi xem phim ( có thể cho trẻ kể cùng, bắt

- Không ạ.
- Trẻ lắng nghe.

- Vịt Xám bị Cáo đuổi.
-Vịt Mẹ đã đến cứu vịt Xám.
- Từ đó, vịt Xám không bao
giờ làm sai lời mẹ dặn.
- Trẻ lắng nghe.

- Trẻ làm động tác nhảy tùm.
- Không ạ. Vì chú không

nghe lời mẹ dặn.

- Trẻ làm đoàn tàu đi xem
15


chước giọng các nhân vật).

phim.
-Trẻ có thể kể cùng, bắt
chước giọng các nhân vật.

*) Hoạt động 4: Kết thúc ( 1 phút )
- Cô và trẻ cùng hát bài “ Đàn vịt con”.

-Trẻ làm các chú vịt và hát
cùng cô ra ngoài.

Kết quả ứng dụng này được thể hiện như sau:
S
T
T

Mức độ
biểu hiện

1
2
3


Tốt
Khá
Trung
bình
Yếu

4

Nhóm đối chứng ( khảo sát
đầu năm )
Số
%
lượng
7 trẻ
17,5 %
22 trẻ
55 %
9 trẻ
22,5%

Kết quả thực nghiệm
( khảo sát cuối năm)
Số
%
lượng
12 trẻ
30 %
25 trẻ
62,5 %
3 trẻ

7,5 %

2 trẻ

0 trẻ

5%

0%

2.Ứng dụng của đề tài:
Qua nghiên cứu và vận dụng các giải pháp trên vào trong hoạt động “ Kể chuyện
cho trẻ nghe”, tôi thấy hiệu quả rõ rệt. Tỉ lệ trẻ nhận thức tốt sau khi thực nghiệm đã
tăng lên 12,5 % so với đầu năm. Tỉ lệ trẻ nhận thức khá tăng lên 62,5 % so với đầu
năm. Tỉ lệ trẻ nhận thức trung bình giảm xuống còn 7,5 % so với đầu năm.
Bên cạnh những kết quả trên, bản thân tôi đã có nhiều sáng tạo, linh hoạt, mềm
dẻo hơn khi tổ chức các hoạt động khác.
VI.KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Kết luận:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện cho
trẻ nghe là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với trẻ Mẫu giáo 3 – 4 tuổi.Qua hoạt
động này trẻ được phát triển về vốn từ, cách phát âm, cách diễn đạt mạch lạc. Để đạt
được kết quả cao trong hoạt động “ kể chuyện cho trẻ nghe” thì giáo viên cần phải
16


nắm vững nội dung, phương pháp tổ chức hoạt động, đồng thời người giáo viên phải
biết thiết kế và tổ chức các hoạt động theo hướng tích hợp, đổi mới, phải linh hoạt,
mềm dẻo.
Bằng sự nỗ lực của bản thân, khi áp dụng các giải pháp trên tôi thấy hiệu

quả rõ rệt. Hoạt động “ kể chuyện cho trẻ nghe” trở nên sinh động, thoải mái, trẻ hứng
thú và tham gia tích cực hơn. Vốn từ, khả năng phát âm, khả năng diễn đạt được phát
triển. Trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
2. Bài học kinh nghiệm:
Qua việc thực hiện đề tài “ Một số giải pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông
qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe”, tôi đã rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Nắm vững đặc điểm, tâm sinh lý của trẻ để đưa ra nội dung, phương pháp đúng
cho từng trẻ.
Xây dựng kế hoạch phải hợp lý, đầy đủ, chi tiết.
Tạo môi trương tích cực để trẻ được tham gia hoạt động.
Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan để lôi cuốn trẻ vào hoạt động, giúp trẻ nắm
được vấn đề một cách dễ dàng hơn.
Lồng ghép các môn học khác vào hoạt động để tạo cảm giác thoải mái cho trẻ.
Nắm chắc phương pháp, nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng các phương pháp hữu
hiệu vào hoạt động phát triển ngôn ngữ để đạt kết quả cao trong dạy trẻ.
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh để phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng
của môn học.
Phải yêu thương trẻ, tận tâm với nghề, lấy tình cảm làm yếu tố quan trọng nhất
để giáo dục trẻ.
Trên đây là thành công của tôi trong việc áp dụng những giải pháp giúp trẻ
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe.
Tôi mong muốn được được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí để đề tài này được
hoàn thiện hơn. Tôi sẽ không ngừng học hỏi, tiếp thu các ý kiến để vận dụng vào thực
tế giảng dạy trong những năm học sau đạt kết quả cao hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÉT DUYỆT CỦA HĐTĐ CẤP TRƯỜNG

Xuân Hương, ngày 06 tháng 11 năm 2015
Người viết sáng kiến
17



Nguyễn Thị Huyền

XÉT DUYỆT CỦA HĐTĐC CẤP HUYỆN

18



×