Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Nhu cầu hỗ trợ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.54 KB, 29 trang )

Đề cương:
Chủ đề 7: Nhu cầu hỗ trợ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
A .Cơ sở lí luận:
I. Khái niệm:
1.Khái niệm người cao tuổi:
Có rất nhiều quan niệm về người cao tuổi
- Theo quan niện của Hội người cao tuổi thì người cao tuổi là người đủ 50 tuổi trở lên
- Theo luật Lao động: “Người cao tuổi là người đủ 60 tuổi trở lên (đối với nam) và 55
tuổi trở lên(đối với nữ)
- Theo pháp lệnh người cao tuổi Việt Nam: Những người từ 60 tuổi trở lên là người
cao tuổi (Pháp lệnh ban hành năm 2000)
- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là >75 tuổi( năm 2015) đứng thứ hai trong
khu vực
- Để đánh giá đúng thực trạng người cao tuổi và có cách nhìn đúng đắn nhất trong
nghiên cứu về người cao tuổi thì chúng ta cần phải thống nhất: “người cao tuổi là
người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên và không phân biệt nam, nữ ( xét ở góc độ tâm lí,
luật pháp, tuổi thọ trung bình…)
* Một số khái niệm liên quan:
- Tuổi già sinh học: Là độ tuổi mà đến khi đó con người đã xuất hiện những biểu hiện
suy giảm các chức năng tâm sinh lý và các chức năng lao động, sinh hoạt trong cuộc
sống.
- Tuổi già pháp định: Theo những quy định này những người đạt đến một độ tuổi nào
đó phải chấm dứt các hợp đồng lao động, được quyền nghỉ ngơi
- Tuổi già lao động: là độ tuổi mà người lao động đã co những suy giảm về thể chất và
các chức năng lao động.Các phản xạ về nghề nghiệp đã kém đi
1.2- Khái niệm về sức khỏe:
Theo định nghĩa về sức khỏe của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Sức khỏe là một
trạng thái hoàn toàn thoải mái về cả thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải là
chỉ không có bệnh tật hay tàn phế”
Dựa vào định nghĩa trên thì sức khỏe được cho là bao gồm tình trạng của cả tinh thần
lẫn thể chất. Theo mối tương quan giữa tinh thần và thể chất chúng ta có thể bổ sung



1


thêm cho định nghĩa về sức khỏe: “Sức khỏe của một người là kết quả tổng hòa của tất
cả các yếu tố tạo nên tinh thần và thể chất của con người ấy” .
1.3-Khái niệm về chăm sóc sức khỏe:
Chăm sóc sức khỏe là một nghành dịch vụ trong đó người cung ứng và người sử dụng
quan hệ với nhau thong qua giá dịch vụ. Tuy nhiên, không giống các loại dịch vụ
khác, chăm sóc sức khỏe có một số đặc điểm riêng đó là :
0.

Mỗi người đều có nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở mức độ khác
nhau. Chính vì vậy không thể dự đoán được thời điểm mắc bệnh nên thường gặp khó
khan trong chi trả các chi phí y tê không lường trước được

I.

Dịch vụ y tế là loại hang hóa mà người sử dụng(người bệnh) thường không thể hoàn
toàn tự mình chủ động lựa chọn theo ý muốn mà phụ thuộc rất nhiều vào bên cung
ứng( cơ sở y tế). Cụ thể khi người bện có nhu cầu khám chữa bệnh, việc điều trị bằng
phương pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do bác sĩ quyết định. Như vậy, người
bệnh chỉ có thể chọn nơi để điều trị, người chữa bệnh, chăm sóc mình ở một chừng
mực nào đó chứ không được lựa chọn phương pháp điều trị. Mặt khác do dịch vụ y tế
là loại hàng hóa gắn liền với tính mạng con người nên mặc dù không có tiền nhưng
vẫn phải khám chữa bệnh. Đặc điểm này không giống các loại hàng hóa khác, đó là
đối với các loại hàng hóa không phải là sức khỏe người mua có thể có nhiều giải pháp
để lựa chọn, thậm chí có thể tạm thời không mua nếu không có đủ khả năng về tài
chính.


1. Nguyên nhân cần phải chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi:

Văn hóa gia đình của phương Đông và phương Tây có sự khác biệt rõ rệt. Ở phương
Tây thanh niên từ 18 tuổi trở lên bắt đầu được sống tự lập bên ngoài. Thế hệ gia đình
2-3 thế hệ dường như rất ít ở Châu Âu. Vì thế thói quen phải phụng dưỡng chăm sóc
cho người già không cao. Đa số người lớn tuổi phương Tây được hưởng chế độ phúc
lợi cao của quốc gia đó. Họ thường được con cái gửi vào nhà dưỡng lão khi về nhà
hoặc phải sống một mình trong ngôi nhà. Nhưng đó không phải là niềm hạnh phúc và
mong muốn đích thực của người già mặc dù về vật chất họ không thiếu thốn. Với văn
hóa gia đình phương Đông thì khác. Một già đình thường tồn tại 3 thế hệ gồm ông bà,
cha mẹ và con cháu nên người cao tuổi thường được con, cháu trong nhà phụng dưỡng
chăm sóc.Như chúng ta đã biết già là quy luật tự nhiên không thể tránh khỏi ở tất cả
mọi người, nhưng quá trình già rất khác nhau, có người già sớm có người già muộn,
có người ốm yếu bệnh tật, có người lại khỏe mạnh. Chăm sóc sức khỏe cho người cao
2


tuổi không chỉ kéo dài tuổi thọ mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp người cao
tuổi tiếp tục sống khỏe, sống vui, sống có ích cho xã hội. Chăm sóc sức khỏe cho
người cao tuổi vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ, vừa thể hiện sự văn minh tiến bộ
của chế độ xã hội. Vì vậy người cao tuổi là đối tượng cần được chăm sóc đặc biệt về
dinh dưỡng vì cơ thể người cao tuổi thường đã bị lão hóa.

B. Nội dung
I.Tình trạng người cao tuổi hiện nay:
1.Độ tuổi và giới tính:
1.1Độ tuổi của người cao tuổi :
Do tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm, tuổi thọ tăng, người già ở Việt Nam đang tăng
nhanh cả về số lượng và tỷ lệ so với tổng dân số chung. Theo dự báo của Tổng cục
Thống kê, tỷ lệ người cao tuổi so với tổng dân số nước ta sẽ đạt 10% vào năm 2017,

tức là cơ cấu dân số chính thức bước vào giai đoạn “già hóa”. . Theo dự báo, chỉ số
này sẽ tăng nhanh hơn trong vài thập kỷ tới và sẽ lên đến khoảng 100 khi mà cứ một
trẻ em thì có một người già vào khoảng năm 2035, và vào năm 2049 chỉ số này sẽ là
141 tức là cứ 100 trẻ em thì có 141 người già. Như vậy, cùng với cơ hội cơ cấu dân số
vàng, Trung bình mỗi người phải chịu 14 năm bệnh tật trong tổng số hơn 70 năm
sống trong cuộc sống. Ngoài ra, cơ cấu và mô hình bệnh tật người cao tuổi nước ta
hiện nay đang thay đổi theo xu hướng bệnh không lây nhiễm, các bệnh mãn tính tăng
nhanh
Một ví dụ ở Việt Nam, dân số nước ta đã có những biến động mạnh mẽ về quy mô
và cơ cấu tuổi. Tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam tăng lên nhanh chóng trong thời
gian này là do ba yếu tố quan trọng: tỷ suất sinh giảm, tỷ suất chết giảm và tuổi thọ
tăng lên. Tổng tỷ suất sinh (TFR) giảm từ 5,25 vào năm 1975 xuống 3,8 vào năm
1989 và 2,03 vào năm 2009. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi năm 2009 chỉ là 16‰,
giảm 20 điểm phần nghìn so với năm 1999. Tuổi thọ trung bình của dân số là 72,8
tuổi vào năm 2009, tăng 4,6 tuổi và 8 tuổi so với năm 1999 và 1989. Tốc độ tăng
dân số giảm từ mức trung bình 2,4%/năm giai đoạn 1975-1989 xuống mức 1,7%
giai đoạn 1989-1999 và 1,2% giai đoạn 1999-2009. Do đó, trong những thập kỷ qua,
cơ cấu tuổi dân số Việt Nam biến động mạnh theo hướng: tỷ lệ trẻ em (0-14 tuổi)
ngày càng giảm; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-59) tăng lên; và tỷ lệ người
cao tuổi (từ 60 trở lên) cũng tăng nhanh. Bảng 1 cho thấy, nếu lấy năm 1979 là năm
cơ sở thì trong giai đoạn 1979-2009, tổng dân số tăng 1,6 lần; dân số trẻ em giảm
gần một nửa; dân số trong độ tuổi lao động tăng 2,08 lần, còn dân số cao tuổi tăng
2,12 lần. Như vậy, dân số cao tuổi tăng nhanh nhất so với tất cả các nhóm dân số
3


khác trong giai đoạn này. Đây chính là đặc điểm đầu tiên, nổi bật nhất của quá trình
già hóa dân số ở Việt Nam có thể thấy rõ điều này qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Cơ cấu tuổi dân số Việt Nam 1979-2009


Số người(triệu người)
Năm
197
9
198
9
199
9
200
9

Tổng

0-14

53,74

23,4

64,38

Tỷ lệ % tổng dân số

15-

15-

60+

0-14


2663

3,71

41,80

51,30

6,90

24,98

34,76

4,64

39,20

53,60

7,20

76,33

25,56

44,58

6,19


33,00

58,90

8,10

85,79

21,45

56,62

7,72

25,00

66,00

9,00

59

59

60+

Nguồn: Tổng Điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009.
1.2 Tỉ lệ giới tính của người cao tuổi:
Bên cạnh tình trạng già hóa dân số là thực trạng nữ hóa dân số cao tuổi. Nếu tỷ lệ bé trai

khi sinh ra luôn nhiều hơn bé gái thì đến giai đoạn cao tuổi tình trạng trên lại đảo
ngược.Theo thống kê cơ cấu dân số ở nhóm tuổi ngoài 60 thì cứ 1 cụ ông sẽ có tỷ lệ là
1,5 cụ bà; nhóm tuổi ngoài 80 cứ 1 cụ ông sẽ có tỷ lệ 2 cụ bà; nhóm tuổi ngoài 85 thì 1
cụ ông sẽ tương ứng với tỷ lệ 2,5 cụ bà.
Điều đó cho thấy, tuổi thọ của nam giới tại Việt Nam thấp hơn so với nữ giới. Nguyên
nhân được nhận định là do những tác động từ cuộc sống còn nhiều khó khăn, khi còn trẻ
nam giới thường phải làm những công việc nặng nhọc song cũng phải kể đến tình trạng
nam giới lạm dụng rượu bia, thuốc lá và các chất kích thích cũng như lối sống thiếu lành
mạnh đang ảnh hưởng đến tuổi thọ của giới này.
Bảng 2. Tuổi thọ dân số ở tuổi 60 của Việt Nam và một số nước khu vực
Nước
Trung Quốc
Indonexia
Thái Lan
Malaysia
Philippin
Singapo

Tuổi thọ ở tuổi 60(%)
Nữ
20
18
20
19
19
23

Nam
17
16

17
17
17
20
4


Việt Nam
20
2. Khu vực sinh sống của người cao tuổi:

18

Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia về Người cao tuổi, cả nước có hơn 10 triệu người
cao tuổi, chiếm 10,94% dân số, trong đó có có 1.892.900 người từ 80 tuổi trở lên
(chiếm 18,6% tổng số người cao tuổi). Số người cao tuổi sống ở khu vực nông thôn là
6.636.000 người (chiếm 65,7%); tỷ lệ người cao tuổi thuộc hộ nghèo khoảng 22%.
Hiện nay, người cao tuổi (NCT) nước ta chủ yếu sống ở nông thôn (chiếm 70%), cao
gấp 2,6 lần so với NCT sống ở thành thị. Theo số liệu điều tra của cơ quan chức năng,
vùng đồng bằng sông Hồng là nơi có tỷ lệ NCT cao nhất trong cả nước. Số liệu của
cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy: tỷ lệ NCT của tỉnh Thái Bình
chiếm gần 14,4% với 90% NCT sống tại nông thôn; tại Hải Phòng, NCT chiếm gần
12% dân số, trong đó NCT sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ gần 70%
Có sự chênh lệch như vậy là do .
-

Thứ nhất ở nông thôn có nghĩa là sẽ được tiếp cận với nhiều không gian ngoài
trời hơn
Thứ hai, chi phí cho cuộc sống ở làng quê thường rẻ hơn, người già có thể có cuộc
sống thoải mái hơn thành phố với cùng một lượng tài chính.

Thứ ba, môi trường ở nông thôn thường sạch hơn ở thành phố rất nhiều. Ở nông
thôn thường có ít phương tiện giao thông cũng như ô nhiễm môi trường hơn, do
đó người cao tuổi có thể hít thở không khí trong lành sẽ tốt hơn cho sức khỏe

-

Thứ tư, hầu hết những người sống ở thành phố chỉ biết nhau ở mức gặp nhau có
thể cất lời chào. Tuy nhiên ở nông thôn, bạn có thể trò chuyện và hiểu biết về
những người hàng xóm nhiều hơn, họ có thể kể chuyện, tâm sự với nhau, cùng
nhau tham gia các hoạt động của người cao tuổi ở địa phương .

-

Thứ năm, người cao tuổi thường nhàn rỗi, có xu hướng thích nuôi các loại động
vật như chó, mèo , gà … nhất là những người già sống một mình và chúng mang
lại cho người già nhiều niềm vui

Bên cạnh đó, ở nông thôn cũng còn có rất nhiều hạn chế:
-

-

Đời sống người cao tuổi ở khu vực này khép kín trong các cộng đồng, làng, xã và
có những đặc thù riêng trong điều kiện kinh tế nhất định và với những mức độ
khác nhau nhưng tựu chung vẫn trong tình trạng lạc hậu. Có nhiều gia đình sống
chung hai, ba thế hệ khá phổ biến và người già ở nông thôn vẫn giữ vai trò rất
quan trọng.
Trong nhiều thập kỷ qua, với những khó khăn lớn do hậu quả của chiến tranh kéo
dài và một nền kinh tế lạc hậu, tự cung, tự cấp, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chính sách xã hội để bảo đảm đời sống vật chất của người cao tuổi và đối tượng

người nghỉ hưu. Ở nông thôn, chế độ trợ cấp bằng lương thực đã đáp ứng cơ bản
điều kiện sống cho người già, cùng với nó là những bảo đảm về y tế và xã hội
khác cho dù còn hạn hẹp nhưng đã làm cho người cao tuổi cảm thấy mình đang
sống một cách hữu ích cho cháu con và cộng đồng. Họ tỏ ra yên tâm khi đời sống
được dần dần cải thiện, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi sự ràng buộc về kinh tế đối
với con cháu khi tuổi thọ của họ ngày một cao và sức lực ngày một giảm sút.
5


-

-

Đối với những người cao tuổi được hưởng chính sách xã hội (gia đình thương
binh, liệt sỹ, có công với cách mạng) thì sự bất hợp lý trong việc điều chỉnh chế
độ xã hội với việc giá cả tăng cao như hiện nay thì những khoản trợ cấp của họ
thật bé nhỏ.
Người cao tuổi ở khu vực nông thôn rất cần gìn giữ gia phong trong quan hệ gia
đình, làng, xã và coi đó là chuẩn mực của lối sống có văn hoá nhưng trên thực tế,
nhiều gia đình, làng, xã, người cao tuổi vẫn chưa được đối xử công bằng, họ bị
thúc ép làm những việc ngoài ý muốn do con cháu có tranh chấp về ruộng vườn,
nhà cửa như vấn đề tranh chấp đất đai, chia thừa kế, vấn đề bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng dân sự, kinh tế - lao động…

- Dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở nông thôn cũng còn nhiều hạn chế về trình độ cũng
như trang thiết bị, các dịch vụ giải trí ,tín ngưỡng cho người cao tuổi cũng chưa được coi
trọng
3.Tình trạng hôn nhân và tình trạng cuộc sống của người cao tuổi:
4. Trình độ, thu nhập của người cao tuổi
5.Tình trạng sức khỏe của người cao tuổi:

Một nghiên cứu gần đây cho thấy, có đến hơn 67% người cao tuổi sống trong tình trạng
sức khỏe kém. Đa số người cao tuổi gặp khó khăn về vật chất.
Người cao tuổi Việt Nam cũng đối diện với gánh nặng bệnh tật kép, bị nhiều bệnh một
lúc, đặc biệt là các bệnh mãn tính (tiểu đường, huyết áp…).
Nhìn chung, NCT Việt Nam vẫn chưa thực sự khỏe mạnh như mong muốn. Báo cáo năm
2006 cho thấy số NCT tự đánh giá về sức khỏe bản thân là khá tốt mới có 5,7% và 22,9%
đánh giá sức khỏe kém(16). Điều tra về NCT năm 2011 cũng chỉ ra rằng hơn 55% và trên
10% số người đánh giá sức khỏe bản thân là yếu và rất yếu. Nghiên cứu này cũng cho
thấy tỷ lệ NCT gặp ít nhất một loại khó khăn về vận động là gần 72 % và gặp ít nhất một
trở ngại trong sinh hoạt hàng ngày là 37,6%(17) . Tỷ lệ mắc các bệnh mạn tính khá cao
và thường mắc nhiều bệnh đồng thời với tỷ lệ trung bình một người mắc gần 2,7
bệnh(18) . Theo nghiên cứu của Bệnh viện Lão khoa trung ương, tăng huyết áp là bệnh
phổ biến với tỷ lệ mắc lên tới 45,6%, (trong đó những người từ 60 tuổi đến 74 tuổi là
42,0% và những người từ 75 tuổi trở lên là 54,6%), tỷ lệ mắc bệnh mạch vành là gần
10%(19). Những bệnh lý tim mạch này thực sự là những bệnh đe dọa nghiêm trọng đến
sức khỏe, tính mạng của người bệnh. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (vốn có nguyên nhân
từ các bệnh về đường hô hấp kéo dài), cũng xuất hiện ở 12,6% NCT và tuổi càng cao thì
tỷ lệ này càng lớn, từ 10,8% ở nhóm tuổi từ 60 đến 74, lên tới 17,2% ở nhóm tuổi trên
75. Một số loại bệnh khác thể hiện sự thoái hóa chức năng ở cơ thể người già gây ảnh
hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống như bệnh về xương khớp, thị giác, thính giác.
Bệnh về xương khớp phổ biến là thoái hóa khớp (33,9%), thấp khớp (9%) và loãng
xương (10,4%). Có tới 76,7% NCT có dấu hiệu giảm thị lực, 70,3% ở nhóm tuổi 60 - 74
tăng lên tới 93% ở nhóm tuổi trên 75; gần 58 % số người mắc bệnh đục thuỷ tinh thể và
đặc biệt cao ở người trên 75 tuổi (79,6%). Tương tự, tỷ lệ người bị giảm thính lực là trên
40%(20). Các tình trạng sa sút về sức khỏe đáng kể khác ở cả nam giới và nữ giới cao
tuổi là các bệnh tiểu đường và bệnh của đường tiêu hóa như loét dạ dày, viêm đại tràng,
nuốt nghẹn có tỷ lệ mắc tương ứng là 15,4%, 9,7% và 10,2%(21) . Về tinh thần, những
thay đổi về xã hội, tâm lý, sức khỏe suy giảm, bệnh tật và những lo toan trong cuộc sống,
6



sự cô đơn khi mất đi người bạn đời, người thân thiết làm cho NCT bị sự suy sụp về tinh
thần và mắc các bệnh lý tâm thần trầm trọng. Theo nghiên cứu tại một số địa phương, tỷ
lệ NCT gặp phải tình trạng khó ngủ là 67%, lo lắng về cuộc sống là 51%, buồn rầu là
40%, chán nản là 42% và mệt mỏi thường xuyên là 34%(22). Tỷ lệ NCT sa sút trí tuệ là
4,9% (trong đó, người trên 75 tuổi có tỷ lệ là 9,8%, cao hơn hẳn so với tỷ lệ 3,9 % ở
nhóm người từ 60 đến 74 tuổi)(23) . Những chỉ số sức khỏe, những thông tin về tỷ lệ
bệnh tật và tình trạng sức khỏe chung nói trên cho thấy nhu cầu cao về chăm sóc sức
khỏe của NCT Việt Nam.

II Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở người cao tuổi
Qua tình trạng của người cao tuổi ở trên ta thấy mỗi người cao tuổi xét về nhiều
phương diện sẽ có nhu cầu chăm sóc sức khỏe khác nhau:
1.Nhu cầu nhà ở, ăn uống:
Đối với người cao tuổi thì vấn đề nhà ở không quá quan trọng đối với cả khu vực
thành thị hay nông thôn.Những người khoảng 60 tuổi trở lên không thích di cư đến
môi trường sống khác. Việc bố trí nhà ở đối người cao tuổi càng lớn tuổi thì được
đánh giá là càng quan trọng cho việc họ sử dụng các đồ dùng trong nhà. Mong
muốn của họ là có những thiết nhà ở với những trang thiết bị dành riêng cho người
nhà để họ cảm thấy thuận tiện hơn. Vấn đề nhà ở ở những khu vực nông thôn và
đối với những người già vô gia cư là rất quan trọng, cần phải được sửa sang lại và
tích cực xây nhà ở tình thương tạo cho NCT cảm thấy thoải mái nhất và có thể tiếp
tục đóng góp cho cộng đồng
2. Nhu cầu đi lại:
Theo phân tích sô liệu, vấn đề đi lại là 1 trong những vấn đề mà người cao tuổi rất
quan tâm đặc biệt là những người sống ở khu vực thành phố. Vấn đề tắc đường,
trật tự vỉa hè gây khó khăn cho sự di chuyển như ở thủ đô Hà Nội hay TP HCM là
những nơi mà không chỉ người cao tuổi mà những người dân ở đây đều cho rằng
vấn đề giao thông càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Hầu hết những người cao
tuổi từ 60-65 đều chọn phương tiện di chuyển là xe đạp và đi bộ, có khoảng 2025% NCT trong độ tuổi này thường đi các hệ thống giao thông công cộng, còn

những người khoảng 75 tuổi trở lên họ sẽ chọn phương án nhờ người chở. Nhu cầu
đi lại của họ dường như vẫn chưa đáp ứng đủ, phần lớn là do trật tự an toàn giao
thông hiện nay. Khác với khu vực thành thị, những người cao tuổi ở nông thôn có
mức độ hài lòng lớn hơn, một phần cũng là do an toàn giao thông ở nông thôn
được đánh giá là khá ổn định hơn. NCT ở nông thôn hầu như di chuyển bằng xe
7


đạp, những người từ 75 tuổi trở lên phần lớn di chuyển nhờ người thân chở. Tham
khảo về những mong muốn cho CNT khi tham gia giao thông hầu hết họ mng
muốn có một hệ thống giao thông an toàn và thông thoáng hơn,có làn đường riêng
dành cho người cao tuổi đảm bảo an toàn, vỉa hè dành cho người đi bộ sẽ không bị
lấn chiếm bởi các hoạt động khác.

3.

Nhu cầu khám chữa bệnh:
Có trên 3/4 người cao tuổi có thẻ BHYT, trong đó đa phần là thẻ BHYT được cấp
(bắt buộc và miễn phí). Điều này nói lên vai trò quan trọng của khu vực nhà nước
trong việc bảo đảm những điều kiện tối thiểu trong lĩnh vực chăm sóc sưc khỏe cho
người cao tuổi hiện nay.
Đặc biệt với nhóm người cao tuổi hiện không có BHYT thì tỷ lệ các cụ bà cao hơn
gấp 2 lần so với các cụ ông. Ưu đãi người cao tuổi nhận được khi khám bằng thẻ
BHYT là miễn giảm chi phí khám bệnh và miễn phí thuốc.

Việc tiếp cận tới điều kiện quan trong nhất của việc chăm sóc sức khỏe cho người cao
tuổi – sở hữu thẻ BHYT – thì người cao tuổi ở nông thôn còn nhiều thiệt thòi hơn so
với người cao tuổi ở đô thị về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính...
Bảng: Số lần khám chữa bệnh trong 12 tháng qua của người cao tuổi
Số

lần
điều
trị

Khu vực
Thành thị
Tần
%
số

Nông thôn
Tần
%

Chung
Tần
%
số

số

trong
12
tháng
1 lần
2 lần
3 lần
4 lần
>=5


71
51
30
11
27

37,4%
26,8%
15,8%
5,8%
14,2%

62
78
41
31
48

23,8%
30,0%
15,8%
11,9%
18,5%

133
129
71
42
75


29,6%
28,7%
15,8%
9,3%
16,7%

lần
Tổng

190

100%

260

100%

450

100%

số
8


4. Nhu cầu liên lạc:
Đa số người cao tuổi đều đang bị hạn chế về việc sử dụng các công cụ phương tiện
liên lạc như điện thoại, email,…phương tiện truyền thông phổ biến nhất của các
ông/bà là ti vi, đài phát thanh. Vì thế trong thời đại công nghệ ngày nay, ông/bà sẽ khó
có thể tiếp cận thông tin 1 cách nhanh chóng.

-Nhu cầu sử dụng dịch vụ thông tin liên lạc của người cao tuổi theo nhóm tuổi:
Nhóm các ông/bà từ 45-60 tuổi:Trong 62 người khảo sát cho thấy,trong nhóm tuổi từ
45-60,có đến 20,41% trong số 49 người liên lạc với gia đình, bạn bèlớn hơn một lần
một ngày.Do đó ở độ tuổi này các ông/bà có nhu cầu sử dụng điện thoại ,email,
facebook rất lớn để liên lạc với con cháu, họ hàng, hoặc để phục vụ cho công việc của
bản thân.
Nhóm các ông/bà trên 60 tuổi:cũng theo như khảo sát,có 38,46% trong 13 người liên
lạc với con cháu nhiều hơn 1 lần 1 ngày.Các ông bà khi đã trên 60 tuổi có nhu cầu về
việc sử dụng các dịch vụ thông tin liên lạc nhiều hơn rất nhiều so với nhóm 45-60.Vì
trong độ tuổi này, các ông/bà đã nghỉ hưu, họ sử dụng thông tin liên lạc để có thể liên
lạc với con cháu, đa phần các con của ông/bà đều đi làm ăn xa, nếu ở gần cũng đã kết
hôn, vì thế việc liên lạc với con cháu là việc rất quan trọng. Các ông/bà thường cảm
thấy buồn vì sống xa con cháu mình.Nếu là các cụ già neo đợn không con cháu thì ,
họ càng có nhu cầu sử dụng phương tiện liên lạc để cho đỡ cô đơn.
Nhu cầu hỗ trợ dịch vụ thông tin liên lạc theo giới tính
Các ông thường nhu cầu sử dụng dịch vụ thông tin liên lạc lớn hơn các bà .Các ông
thường thích nghe các thông tin về kinh tế ,chính trị , thích ngồi bàn luận về các vấn đề
đó với bạn bè của mình và các ông thường nghe những thông tin đó qua đài , ti vi, qua
mạng xã hội, còn các bà đa phần sử dụng phương tiện liên lạc chỉ để liê lạc với con
cháu, thay vì nói về các vấn đề như các ông, các bà thương nói những câu chuyện của
con cháu họ, bới với các bà thì gia đình là nhất.
Nhu cầu hỗ trợ thông tin theo tình trạng thu nhập
Các ông bà có mức lương cao hơn 5 triệu thường có nhu cầu sử dụng phương tiện liên
lạc cao hơn các ông bà có mức lương dưới 5 triệu hoặc không có lương,Vì khi sử dụng,
các ông bà sẽ phải chi trả 1 khoản tiền nhất định cho việc mua thẻ điện thoại, phí wifi,…
Và các ông bà thường rất tiếc khi bỏ ra nững khoản phí đó, nên việc hỗ trợ thông tin liên
lạc cho các ông bà rất cần
9



5. nhu cầu tham gia các hoạt động xã hội :

1.3. CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI

1.3.1. Sức khỏe và ăn uống
Số người cao tuổi ngày càng tăng, tuổi thọ ngày càng cao, điều ấy nói lên
những thành công to lớn đã đạt được trong lĩnh vực sinh, y học và các khoa học
khác.
1.3.2. Nhà ở và môi trường
Nhà ở và môi trường ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi thọ, sức khỏe chất lượng
sống của mỗi người, đặc biệt là người cao tuổi. Người cao tuổi có những khó
khăn rất lớn trong việc đi lại và nhìn chung, họ thiếu phương tiện. Thực tế đó lại
càng ảnh hưởng đến tâm trạng cho mình bị tách rời khỏi xã hội và vì vậy dễ mặc
cảm về sự cô đơn lúc cuối đời. Nên tạo điều kiện cho người cao tuổi có thể sống
ở nhà của mình càng lâu càng tốt.
Trong chính sách nhà cửa nên lưu ý đặc biệt đến những người nghèo khổ,
thiếu thốn, có khó khăn lớn về chỗ ở, gia đình đông.
- Trong việc bố trí nhà ở, mỗi khi có điều kiện nên tạo mọi thuận lợi để
người cao tuổi có thể tiếp xúc được với xã hội, tạo cho họ điều kiện đi lại dễ
dàng, dùng những phương tiện, biện pháp an toàn nhất trong giao thông [1].
1.3.3. Gia đình
Do gia đình được coi là tế bào cơ sở của xã hội nên cần bảo vệ và củng cố
nó tùy theo hoàn cảnh từng bước, nhằm làm cho việc chăm sóc người cao tuổi ở
đó được đảm bảo hơn. Cần thắt chặt mối quan hệ giữa các thế hệ với nhau, giữa
các thành viên trong gia đình.
- Cần có sự ủng hộ mạnh mẽ của toàn thể xã hội, để cho gia đình có thể tiếp
10


tục việc chăm sóc người cao tuổi và phải có kế hoạch cụ thể giúp đỡ các gia

đình đó.
- Cần đặc biệt quan tâm đến số phận phụ nữ nhất là với những người góa
phụ. Bằng mọi cách khuyến khích con cháu chăm sóc bố mẹ, ông bà già; Vai trò
của giáo dục rất quan trọng bên cạnh những quy định của luật pháp.
1.3.4. Bảo trợ xã hội
Các tổ chức bảo trợ xã hội là những cơ quan thực hiện chính sách của nhà
nước, nhằm làm cho người cao tuổi có vị trí xứng đáng trong xã hội. Cần bảo
đảm cho người cao tuổi được độc lập trong gia đình đồng thời vẫn là những
công dân hoạt động, hữu ích trong cộng đồng.
1.3.5. Bảo hiểm, trợ cấp nhằm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
Hết tuổi lao động là bước vào tuổi thứ ba. Những người cao tuổi thuộc lứa
tuổi thứ ba đa số còn sức khỏe nhưng cũng không ai đảm bảo là trong quãng đời
còn lại họ không có những tai nạn rủi ro, bệnh tật cần chữa chạy. Vì thế đóng
góp một số tiền trong lúc mình còn sung sức, ở tuổi lao động, hay trong lúc
mình còn khỏe mạnh, để đến khi cần có thể dùng vào những yêu cầu đột xuất về
sức khỏe là việc hợp lý. Trên nét đại cương bảo hiểm xã hội và đặc biệt bảo
hiểm ở lứa tuổi già, với trọng tâm là bảo hiểm y tế lúc tuổi già, có ý nghĩa như
vậy. Nó là một nhân tố không thể thiếu được trong hệ thống an ninh. Có nó mọi
người đều sống an tâm hơn vì cuộc sống được đảm bảo hơn, nhất là trong giai
đoạn cuối của cuộc đời đầy bất trắc. Như trên đã nêu, lương hưu không thể đủ,
trợ cấp tuổi già còn ít hơn nữa, hệ thống dịch vụ tuy cần nhưng chỉ đáp ứng
được phần nào trong cuộc sống bình thường. Nếu có sự cố bất thường nhất là về
phương diện sức khỏe, thì rõ ràng bảo hiểm xã hội nhất là bảo hiểm y tế có vị trí
không thể thiếu được. Chăm lo đầu tư cho tổ chức này là một trong những việc
11


cần làm sớm. Lúc đầu có thể còn chưa quan tâm nhưng qua thực tế, sẽ điều
chỉnh dần. Chế độ bảo hiểm sẽ góp phần đáng kể trong hệ thống an sinh rất cần
ở lứa tuổi già [4], [5], [6], [7], [14].

1.3.6. Lợi tức và công ăn việc làm
Đa số các nước phát triển có hệ thống bảo trợ toàn xã hội dưới dạng bảo
hiểm xã hội. Ở các nước đang phát triển, người dân phần lớn chỉ có mức sống
tối thiểu nên việc bảo hiểm xã hội khó thực hiện và đó là mối lo của mọi độ tuổi.
Về phương diện lợi tức và công ăn việc làm đối với người cao tuổi phụ nữ lại
càng đáng lo ngại hơn.


14
- Thành lập và củng cố hệ thống bảo hiểm xã hội cho người cao tuổi. Nếu
không thực hiện được như vậy thì cũng nên giúp đỡ vật chất trực tiếp cho các
gia đình phải nuôi người cao tuổi, các trại dưỡng lão. Đảm bảo lợi tức do gửi tiết
kiệm cho người cao tuổi, bù lỗ những khi có lạm phát. Khi quyết định cho nghỉ
hưu phải nghiên cứu đảm bảo cuộc sống cho những năm tháng còn lại. Đảm bảo
cho người cao tuổi có ý muốn làm việc để cống hiến cho xã hội, phải được làm
việc, tránh thành kiến về tuổi tác. Vấn đề chính là bố trí những công tác thích
hợp với sức khoẻ và kinh nghiệm sẵn có.
- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để người cao tuổi có thể tham gia và
hoạt động kinh tế, phát triển sản xuất.
- Những người cao tuổi khi còn lao động, cần phải được đảm bảo điều kiện
làm việc tốt hơn, lưu ý phòng tránh mọi tai nạn lao động dễ xảy ra ở người cao
tuổi. Các điều kiện làm việc môi trường, giờ giấc tổ chức lao động, cần chú ý
thích đáng đến đặc điểm của tuổi tác.
- Tìm mọi cách để chuyển từ thời kỳ hoạt động sang thời kỳ nghỉ hưu. Quy
12


định tuổi nghỉ hưu cũng phải mềm dẻo tùy từng trường hợp, từng hoàn cảnh.
Khuyến khích chuẩn bị mở các lớp dạy cho tuổi hưu, giảm nhẹ công việc trong
những năm trước khi về hưu, cải thiện các điều kiện, môi trường, tổ chức lao

động ở thời kỳ cuối này; có thể giảm dần giờ làm việc, tăng giờ nghỉ ngơi, giải
trí
1.3.7. Công tác giáo dục
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay tạo nên một sự bùng nổ về
kiến thức và thông tin. Quy mô rộng lớn và tính chất liên tục của cuộc cách
mạng đó dẫn đến những thay đổi ngày càng to lớn và sâu sắc trong xã hội. Điều
đó nói lên sự cần thiết phải không ngừng nâng cấp trình độ của mọi người kể cả
người cao tuổi. Mặt khác, người cao tuổi cũng có những kinh nghiệm nhất định
qua cuộc sống lâu năm của họ. Vì vậy việc phổ biến các kinh nghiệm cho thế hệ
sau là rất cần thiết. Công tác giáo dục đảm bảo cho tính liên tục giữa các thế hệ.
- Mục tiêu của giáo dục là phải làm cho mọi người đánh giá đúng vai trò


C.Liên hệ thực tế và giải pháp:
I .Thực tế về nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi
Bảng: Đặc điểm dân số Việt Nam năm 2004
Đặc điểm

Không phải người
cao tuổi
13

Người cao tuổi


Dân số
Số lượng
71,67
Phần trăm
90,1

Vùng
ĐB sông Hồng
21,67%
Đông Bắc
11,69%
Tây Bắc
3,12%
Bắc Trung Bộ
13,17%
Nam Trung Bộ
8,56%
Tây Nguyên
5,18%
Đông Nam Bộ
16,26%
ĐB sông Mêkông
20,35%
Khu vực
Nông thôn
74,23%
Thành thị
25,77%
Tình trạng hôn nhân
Đã kết hôn
56,12%
Góa vợ hoặc chồng
2,08%
Loại khác, chưa kết hôn
41,8%
Giới tính

Nam
50,3%
Nữ
49,7%
Độ tuổi
<60
90,76%
60-64
2,46%
65-69
2,29%
70-74
1,97%
75-79
1,26%
80-89
1,08%
>90
0,18%
Tính toán dựa trên tổng điều tra dân số 2004

7,87
9,9
25,78%
10,46%
1,93%
12,59%
9,93%
3,4%
15,37%

20,55%
73,33%
26,67%
60,51%
36,99%
2,5%
41,58%
58,42%
90,1%
2,65%
2,27%
2,07%
1,41%
1,27%
0,23%

Phần lớn người cao tuổi sống ở các vùng nông thôn (trên 70%), nhưng tỷ lệ này này giảm
xuống do tác động của quá trình đô thị hóa. Bên cạnh đó, số liệu cũng cho thấy hơn 1/2 người
cao tuổi đang sống ở vùng ðồng bằng sông Hồng và ðồng bằng sông Mê-kông, những nơi mà
hoạt động nông nghiệp vẫn còn phổ biến. Về tình trạng hôn nhân, hầu hết người cao tuổi đều
kết hôn hoặc góa vợ/chồng (trên 97%). Hình 1 cho thấy phụ nữ cao tuổi có tỷ lệ kết hôn thấp
hơn nam giới. Hiện tượng này có thể do nhiều nhân tố, trong đó có sự khác biệt về tuổi thọ
giữa nam giới và nữ giới. Thực tế cho thấy, tỷ lệ góa vợ/chồng của người cao tuổi khá phổ
biến đối với những là phụ nữ hoặc những người sống ở khu vực nông thôn
1.

Thực trạng sử dụng dịch vụ xã hội của người cao tuổi hiện nay.

Vẫn có 1/3 người cao tuổi tham gia vào thị trường lao động. người cao tuổi khu vực nông
thôn có nhu cầu lao động cao hơn người cao tuổi khu vực thành thị. Có bốn nguồn thu nhập

chính của người cao tuổi: lương hưu, trợ cấp người thân, trợ cấp xã hội và tự sản xuất kinh
doanh. Đa phần người cao tuổi tự đánh giá mức sống hiện tại ở mức trung bình.

14


Đa số người cao tuổi có thẻ BHYT. người cao tuổi nông thôn có thẻ BHYT đượccấp ít hơn so
với người cao tuổi thành thị. Trong số người cao tuổi không có thẻ BHYT, số người cao tuổi
nữ nhiều hơn so với người cao tuổi nam. Đặc biệt chính sách trợ giúp thông qua việc cấp
BHYT miễn phí cho số đông người cao tuổi là một hỗ trợ rất có giá trị, không gì thay thế
được đối với người cao tuổi nghèo, khó khăn,…
Trung bình người cao tuổi mắc 1,79 bệnh, thấp hơn tỷ lệ bệnh tật trung bình hiện nay.
người cao tuổi đánh giá cao về cơ sở vật chất tại các cơ sở y tế và trình độ chuyên môn của
đội ngũ y bác sỹ nhưng không đánh giá cao về thái độ phục vụ và chi phí khám chữa bệnh.
Các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng như khám sức khỏe định kỳ tư vấn dinh
dưỡng, chăm sóc sức khỏe còn hạn chế.
Đời sống tinh thần của người cao tuổi còn hạn chế, thiếu địa điểm, cơ sở vật chất cho người
cao tuổi sinh hoạt. Hoạt động mừng thọ, chúc tết cho người cao tuổi được đánh giá cao tuy
nhiên dịch vụ hỗ trợ đi lại tham gia giao thông công cộng chưa đáp ứng nhu cầu của người
cao tuổi
2.

Nhu cầu chăm sóc của người cao tuổi và vai trò của các chủ thể trong việc cung cấp

thông tin và dịch vụ xã hội trợ giúp cho người cao tuổi
người cao tuổi có nhu cầu được làm việc theo khả năng để có thêm nhu nhập. Do điều kiện
phát triển KT-XH và khả năng ngân sách quốc gia, mức độ trợ giúp còn thấp, chưa đóng vai
trò quan trọng trong nguồn sống chính của người cao tuổi. Song với nhóm người cao tuổi
yếu thế, đó vẫn là những khoản trợ giúp kịp thời và quan trọng cho cuộc sống của họ.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã đáp ứng được nhu cầu của người cao tuổi. Họ có nhu cầu được

cấp BHYT hoặc hỗ trợ mua BHYT theo điều kiện của người cao tuổi.
Hoạt động chăm sóc đời sống tinh thần cho người cao tuổi chưa được quan tâm đúng mức.
Chính quyền địa phương phần nào đã làm tốt trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ đời
sống cho người cao tuổi.
Cơ quan y tế chưa làm tốt các hoạt động chăm sóc tuyến cơ sở và chăm sóc sức khỏe tại cộng
đồng cho người cao tuổi.
Hội người cao tuổi là tổ chức để người cao tuổi thể hiện khả năng và nhu cầu của mình trên
các khía cạnh của đời sống, đã phát huy được vai trò của mình, tuy nhiên thiếu kinh phí hoạt
động nên còn nhiều hạn chế trong tổ chức các hoạt động cho người cao tuổi.
Phát triển các dịch vụ xã hội khu vực nhà nước kết hợp với sự đa dạng các dịch vụ thị trường
là xu hướng tất yếu trong thời gian tới tại Hà Nội.

C.

Một số giải pháp:

Theo Luật người cao tuổi :
-Cơ quan tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chăm sóc, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cao tuổi.
15


- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức khác có trách nhiệm
tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao trách nhiệm chăm sóc và phát huy vai trò người
cao tuổi; tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về người cao tuổi.
- Gia đình người cao tuổi có trách nhiệm chủ yếu trong việc phụng dưỡng người cao tuổi
- Cá nhân có trách nhiệm kính trọng và giúp đỡ người cao tuổi
Theo báo Nhân dân: “Việt Nam hiện gặp nhiều khó khăn trong công tác chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi. Người cao tuổi Việt Nam chủ yếu sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông
nghiệp; đời sống vật chất còn nhiều khó khăn.

Hiện nay, 72,3% số người cao tuổi sống cùng với con cháu, trong khi xu hướng quy mô gia
đình Việt Nam đang chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Tình trạng
người cao tuổi sống không có vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, sức khỏe của người cao tuổi còn nhiều hạn chế.
Tuy tuổi thọ trung bình của Việt Nam cao (73 tuổi) nhưng gánh nặng bệnh tật của người Việt
cũng cao. Gánh nặng bệnh tật kép (khoảng 95% người cao tuổi có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn
tính không lây truyền). Trung bình một người cao tuổi Việt Nam mắc ba bệnh. Trong khi đó,
hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi chưa đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của
đối tượng này.
“Bệnh tật ở người cao tuổi chủ yếu là không lây nhiễm và mạn tính, khiến cho chi phí chăm
sóc sức khỏe ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, người cao tuổi còn có những yêu cầu về chăm
sóc sức khỏe khác biệt và đặc thù hơn nhiều so với nhóm dân cư khác” - Thứ trưởng Phạm
Lê Tuấn nhận định.
17 tỉnh, thành phố xây dựng và trình phê duyệt Đề án/kế hoạch hoạt động
Đề án Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2025 đã được Bộ Y tế ban hành từ
ngày 30-12-2016 trên toàn quốc, gồm 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, ưu
tiên các tỉnh, thành phố có tỷ lệ cao về người cao tuổi, các tỉnh vùng khó khăn, vùng sâu,
vùng xa, có tỷ lệ cao người cao tuổi gặp khó khăn, dân tộc thiểu số.
Thứ trưởng bày tỏ, để giải quyết những thách thức hiện nay và trong tương lai, các ngành,
các cấp và các địa phương cần nâng cao nhận thức về vấn đề già hóa dân số và lồng ghép,
triển khai các hoạt động chăm sóc người cao tuổi vào các chương trình, chính sách phát triển,
đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi
Ngày 22-3, trong hướng dẫn kế hoạch về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS KHHGĐ) năm 2017, Bộ Y tế giao chỉ tiêu cơ bản 15% người cao tuổi được chăm sóc toàn
diện, khám sức khỏe định kỳ và được điều trị khi ốm đau tại cơ sở y tế. Đồng thời, tăng thêm
10% người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một lần/năm.
Ngày 24-3-2017, Bộ Y tế đã ban hành công văn số 1439/BYT-TCDS về hướng dẫn kế hoạch
về xây dựng và triển khai Đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, trong đó đề nghị UBND
16



tỉnh, thành phố chỉ đạo Sở Y tế (đầu mối là Chi cục DS - KHHGĐ) phối hợp với các sở,
ngành liên quan xây dựng Đề án/kế hoạch chăm sóc sức khỏe người cao tuổi của tỉnh nhằm
cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp và nhiệm vụ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của
tỉnh, trình UBND tỉnh phê duyệt và triển khai thực hiện. Hiện nay, đã có 17 tỉnh, thành phố
xây dựng và trình phê duyệt Đề án/kế hoạch hoạt động.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Phạm Lê Tuấn đề nghị, Tổng cục DS-KHHGĐ cần tiếp tục
phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Y tế và các Bộ, ngành liên quan triển khai Đề án,
đôn đốc, kiểm tra, giám sát triển khai các hoạt động cả Trung ương và địa phương.
“Bệnh viện Lão khoa cần tiếp tục phát huy vai trò là bệnh viện chuyên khoa hàng đầu về Lão
khoa, là tuyến cao nhất trong hệ thống thăm khám, điều trị và chăm sóc sức khỏe cho người
cao tuổi tại Việt Nam để cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương trong cả nước” Thứ trưởng nhấn mạnh.
Ông Lê Văn Tân, Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS - KHHGĐ đề nghị các tỉnh,
thành phố đã xây dựng Đề án/kế hoạch hoạt động chăm sóc sức khỏe người cao tuổi khẩn
trương tổ chức triển khai thực hiện, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện Đề
án trên địa bàn tỉnh. Những tỉnh, thành phố còn lại khẩn trương tham mưu xây dựng và trình
các cấp có thẩm quyền phê duyệt Đề án/kế hoạch hoạt động để triển khai thực hiện.
Tại sự kiện này, Tổng cục DS - KHHGĐ và Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam đã ký
kết Kế hoạch phối hợp thực hiện chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017 - 2020.”
Trong gia đình, phần lớn người cao tuổi có cuộc sống hòa hợp với các thế hệ con cháu. Tại
Việt Nam, có đến 80% số người cao tuổi sống với con cái trong gia đình. Ðây không chỉ là
đáp ứng về nơi ở, đáp ứng về đời sống vật chất mà ý nghĩa lớn lao là đáp ứng về đời sống
tình cảm, tinh thần của người cao tuổi. Gia đình và xã hội tích cực hưởng ứng các cuộc vận
động của Hội Người cao tuổi các cấp về xây dựng 'Gia đình văn hóa' và 'Ông bà, cha mẹ mẫu
mực, con cháu hiếu thảo'... Trong xã hội, phong trào thi đua chăm sóc người cao tuổi được
triển khai rộng khắp bằng nhiều hoạt động cụ thể, như: Cuộc vận động xóa nhà tạm cho hộ
người cao tuổi nghèo, tham gia thực hiện chính sách cho người cao tuổi...
Bên cạnh sự quan tâm của Nhà nước, bản thân người cao tuổi đã nỗ lực tham gia đóng góp
cho xã hội, tham gia các hoạt động của Hội Người cao tuổi, Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến
binh, Hội Khuyến học và các tổ chức xã hội.
Tuy nhiên, người cao tuổi ở Việt Nam cũng còn gặp nhiều khó khăn. Tuy tuổi thọ trung bình

của người dân nước ta là 73 tuổi, nhưng khoảng 95% số người cao tuổi có bệnh. Do đó, có tới
23% số người cao tuổi gặp khó khăn trong sinh hoạt cá nhân hằng ngày.
Mặt khác, có khoảng 8% số người cao tuổi sống độc thân tại cộng đồng và 13% có cả hai vợ
chồng đang sống là người cao tuổi và không có con cháu chăm sóc. Do đó, thách thức lớn

17


nhất hiện nay của nước ta là thiếu các dịch vụ công tác xã hội và dịch vụ trị liệu, tâm lý đối
với người cao tuổi.
Thời gian tới, chúng ta sẽ tiếp tục quan tâm hơn nữa tới người cao tuổi, cụ thể là triển khai
thực hiện đầy đủ Luật Người cao tuổi để tiếp tục phát huy vai trò và kinh nghiệm của người
cao tuổi trong các lĩnh vực đời sống xã hội; tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia có hiệu
quả các hoạt động phù hợp với nhu cầu, khả năng; thực hiện bình đẳng trong thụ hưởng
những thành quả của quá trình phát triển. Giữ gìn phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp
của gia đình Việt Nam, củng cố các thiết chế gia đình để chăm sóc tốt hơn người cao tuổi.
Phát triển các dịch vụ công tác xã hội, trợ giúp tâm lý cho người cao tuổi tại cộng đồng và gia
đình. Trong đó, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa là một trong những đối tượng ưu
tiên hàng đầu trong hệ thống chính sách trợ giúp xã hội nói riêng và hệ thống chính sách an
sinh xã hội nói chung. Ưu tiên trợ giúp người cao tuổi nghèo về nhà ở giai đoạn 2011 - 2015,
trong đó giải quyết cơ bản nhu cầu nhà ở của người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa;
chăm sóc sức khỏe, đáp ứng nhu cầu cơ bản về đời sống văn hóa tinh thần của người cao tuổi.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Phúc lợi xã hội và phát triển ASEAN lần thứ 7 vừa diễn ra tại Brunây Ða-ru-sa-lam từ ngày 23 đến ngày 28-11-2010, Việt Nam đã chia sẻ kinh nghiệm với các
nước trong khu vực về công tác chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt là trong việc củng cố thiết
chế gia đình để chăm sóc người cao tuổi.
Cũng tại Hội nghị này, các nước ASEAN đã chia sẻ thông tin và kinh nghiệm về công tác
người cao tuổi. Hiện nay, tại các nước như Mi-an-ma, Thái-lan, Xin-ga-po... tỷ lệ người cao
tuổi đều chiếm khoảng 10% dân số, trong khi tại một số nước khác nhu Bru-nây, Lào, Ma-laixi-a, In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin... tỷ lệ người cao tuổi vẫn còn thấp hơn, nhưng nhìn chung tỷ lệ
dân số cao tuổi đang ngày càng gia tăng tại các nước ASEAN trong những năm tới.
Sau khi trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm, 10 nước ASEAN đã thống nhất cao trong việc ta

Tuyên bố chung về việc Củng cố thiết chế gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi với
những nội dung sau đây:
Xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng vào con người, bảo đảm phúc lợi và phát triển của
người dân, trong đó ưu tiên nhóm yếu thế và người cao tuổi. Tăng cường phúc lợi xã hội, tạo
cơ hội để người dân được tiếp cận bình đẳng, công bằng với các dịch vụ xã hội cơ bản, để có
cuộc sống ngày càng tốt hơn, góp phần xây dựng Cộng đồng ASEAN đùm bọc và chia sẻ vào
năm 2015. Mỗi nước sẽ có chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện những
nhiệm vụ về phúc lợi xã hội, gia đình, người cao tuổi. Ðánh giá những tác động về mặt xã hội
của xu hướng dân số già ngày càng tăng khi tuổi thọ người dân ngày càng cao và nhu cầu giải
quyết những thách thức trong việc chăm sóc người cao tuổi nói chung và hỗ trợ đầy đủ cho
người cao tuổi cần sự hỗ trợ của xã hội. Nhận thức tầm quan trọng của gia đình là đơn vị cơ
bản của xã hội, vai trò của Chính phủ và sự tham gia của cộng đồng xã hội, sự phụ thuộc lẫn
18


nhau và sự gắn kết giữa nhiều thế hệ cũng như việc xã hội hóa trong chăm sóc người cao tuổi,
để họ có tuổi già vui khỏe, hạnh phúc.
Sự hợp tác giữa các nước thành viên ASEAN để thực hiện khung chiến lược chung, làm cơ sở
cho kế hoạch hành động của mỗi nước, nhằm hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh
phúc của người già.
Ðể thực hiện các nội dung nói trên, các nước cùng thống nhất những nỗ lực cụ thể như: Xây
dựng hệ thống hỗ trợ xã hội và chương trình giáo dục nhằm thúc đẩy khả năng chăm sóc
người cao tuổi của các gia đình; cung cấp sự chăm sóc đầy đủ, bao gồm phương pháp tiếp
cận sử dụng các tình nguyện viên tại cộng đồng và tất cả những hình thức chăm sóc thay thế
ở gia đình và cộng đồng, cho những người cao tuổi đơn thân (không có gia đình); thúc đẩy
việc người cao tuổi tự chăm sóc cho bản thân và tạo điều kiện tăng cường chất lượng của
cuộc sống và để họ có thể làm việc và sống độc lập trong cộng đồng của chính mình; tạo cơ
hội phát triển cá nhân, tự lập và hạnh phúc trong cả cuộc đời cũng như trong thời gian cuối
của cuộc đời, thí dụ như thông qua tiếp cận các dịch vụ, nguồn lực, đào tạo kỹ năng, học tập
suốt đời và tham gia vào cộng đồng... (Bà Nguyễn Thị Kim Ngân-chủ tịch quốc hội)

1. Đối với tìm kiếm việc làm, ổn định thu nhập cho người cao tuổi
Người cao tuổi nông thôn vẫn tham gia lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là chủ yếu
vì vậy việc ổn định việc làm, thu nhập cho người cao tuổi là việc cần thiết để tránh tình trạng
tuổi già không có tích lũy. Vì vậy:
Có chính sách lao động việc làm bền vững cho lao động trẻ và tạo việc làm phù hợp với
khả năng của người cao tuổi.
Khuyến khích lao động nông thôn tự tạo việc làm khi nông nhàn và hỗ trợ tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp do họ làm ra.
Cần tạo điều kiện cho lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện dựa trên đóng góp và hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt chú ý nhóm nghèo, khuyết tật, đơn
thân.
người cao tuổi hưu trí có trình độ chuyên môn vẫn có thể tiếp tục tham giia thị trường lao
động với tư cách là các chuyên gia, giáo dục để phát huy kinh nghiệm của mình truyền nghề
cho thế hệ trẻ.
người cao tuổi không có nghề, không tham gia hoạt động kinh tế nhưng có thể tham gia
các công việc gia đình hỗ trợ cho con cháu.
Cải cách hệ thống hưu trí, tăng dần từng bước tuổi nghỉ hưu và cách tính lương hưu.
Tiếp tục duy trì chính sách trợ giúp thường xuyên cho người cao tuổi trên cơ sở nguồn
ngân sách và nhu cầu của người cao tuổi. Từng bước giảm độ tuổi người cao tuổi được hưởng
trợ cấp để gia tăng độ bao phủ của chính sách.
19


2.Chăm sóc sức khỏe
Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh không phân biệt khám bảo hiểm y tế hay khám
dịch vụ.
Mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Khuyến
khích khu vực tư nhân, kết hợp chăm sóc tại nhà, tại cộng đồng theo nhu cầu của người cao
tuổi.
Tăng cường quản lý giám sát bệnh mãn tính, và hoạt động y tế dự phòng cũng như trang

bị kiến thức tự chăm sóc cho người cao tuổi để tăng số năm khỏe mạnh.
Phát triển nhân lực lão khoa, đào tạo nhân viên tế nhà cung cấp dịch vụ dựa vào điều
kiện của thành phố
3.Chăm sóc đời sống tinh thần
Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 12 đã thông qua Luật Người cao tuổi. Điều đó thể hiện sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước đối với người cao tuổi, những người đã có công sinh thành nuôi
dưỡng, giáo dục con cháu và giữ những vị trí, vai trò quan trọng trong gia đình và ngoài xã
hội.
Trong những năm qua, đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước ta đã có những
chính sách ưu đãi đối với những người cao tuổi, đặc biệt là những chính sách về vật chất,
tinh thần như: chính sách bảo trợ xã hội, giảm giá vé, giá dịch vụ khi sử dụng một số dịch
vụ và chính sách chúc thọ mừng thọ.
Về chính sách bảo trợ xã hội, đối với người cao tuổi từ đủ 60 đến 80 tuổi thuộc hộ gia
đình nghèo không có người phụng dưỡng, hoặc có người phụng dưỡng nhưng người này
đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, thì được hưởng mức trợ cấp 180 nghìn
đồng/người/tháng. Đối với người cao tuổi từ 80 trở lên thuộc hộ gia đình nghèo không có
người phụng dưỡng, hoặc có phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã
hội hàng tháng, thì được hưởng mức trợ cấp 270 nghìn đồng/người/tháng. Đối với người
cao tuổi được nhận nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội quy định tại khoản 2 điều 18
Luật người cao tuổi, thì được hưởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/người/tháng.
Đối với người cao tuổi đủ điều kiện tiếp nhận vào sống trong các cơ sở bảo trợ xã
hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng đồng theo quy định tại mục 4 điều 19 Luật
người cao tuổi, thì được hưởng mức trợ cấp 360 nghìn đồng/người/tháng. Ngoài mức trợ
cấp trên, khi người cao tuổi qua đời, còn được Nhà Nước hỗ trợ chi phí mai táng 3 triệu
đồng theo quy định tại mục 4 điều 18, 19 của Luật Người cao tuổi.
Đối với chính sách giảm giá vé, giá dịch vụ, theo Nghị định 06/2011 ban hành ngày
14/1/2011 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người cao tuổi, thì người cao tuổi
còn được giảm giá vé dịch vụ, tham quan di tích văn hóa lịch sử, bảo tàng, danh lam thắng
cảnh, tập luyện thể dục thể thao tại các cơ sở có bán vé, được giảm ít nhất từ 15 đến 20%.
20



Đối với chính sách chúc thọ, mừng thọ, người thọ 100 tuổi được Chủ tịch nước chúc
thọ và tặng quà, người thọ 90 tuổi được Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chúc thọ và tặng quà. UBND xã, phường, thị trấn phối hợp với Hội người cao tuổi tại
địa phương tổ chức mừng thọ người cao tuổi ở tuổi từ 70 đến 100 tuổi trở lên vào các ngày
như: Ngày người cao tuổi Việt Nam 6/6; Ngày quốc tế người cao tuổi 1/10; tết Nguyên đán
hoặc ngày sinh nhật người cao tuổi.
Cùng với chính sách bảo trợ xã hội, thực hiện NĐ 06/2011, Bộ tài chính cũng đã ban
hành Thông tư số 21 ngày 18/2/2011 quy định rất cụ thể về quản lý và sử dụng kinh phí
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi tại nơi cư trú, chúc thọ, mừng thọ, biểu
dương, khen thưởng đối với người cao tuổi.
Trong thời gian qua, các chính sách trên đã được các cấp các ngành, Hội người cao
tuổi các cấp trên địa bàn cả nước triển khai thực hiện, bước đầu đem lại nhiều kết quả thiết
thực, góp phần giúp người cao tuổi sống vui sống khỏe. Tuy nhiên, đối với những người cao
tuổi chưa vào tổ chức Hội thì vẫn còn mơ hồ và thậm chí còn chưa được giải quyết một
trong những chính sách trên, đặc biệt là những người cao tuổi khu vực nông thôn, miền núi,
do họ chưa nắm được các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với Người cao
tuổi, hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến Luật người cao tuổi chưa được quan tâm đúng
mức, việc tuyên truyền còn bó hẹp trong phạm vi tổ chức Hội ở cơ sở. Do vậy, để những
chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà Nước đối với người cao tuổi thực sự đi vào cuộc sống,
và mọi đối tượng đều được giải quyết các chế độ, thì cần có sự quan tâm hơn nữa của các
cấp, các ngành và của toàn xã hội trong công tác tuyên truyền, phối hợp giải quyết các chế
độ cho người cao tuổi. Các tổ chức hội Người cao tuổi ở cở sở cần tập trung tuyên truyền
phổ biến Luật người cao tuổi tại cộng đồng, vận động người cao tuổi tham gia vào tổ chức
hội để được hưởng những quyền lợi của Đảng và Nhà nước dành cho người cao tuổi.
Cung cấp dịch vụ theo tuổi, khu vực, giới tính, học vấn, nghề nghiệp của người cao tuổi để
cung cấp phù hợp.
Đa dạng hình thức tổ chức cuộc sống của người cao tuổi. Hiện nay tỷ lệ người cao tuổi nữ
cô đơn khá lớn vì vậy gia đình và xã hội cần có cái nhìn rộng mở hơn đối với việc tái giá của

người cao tuổi.
Hội người cao tuổi cần nhân rộng mô hình tổ chức các hoạt động tinh thần, số lượng
người cao tuổi tham gia hội còn hạn chế.
Xây dựng quỹ người cao tuổi tại cộng đồng dân cư và gia đình.
Nhân rộng các mô hình chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng và trung tâm chăm sóc tập
trung bên cạnh duy trì mô hình của nhà nước. Để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia
vào cần có chính sách như các trung tâm của nhà nước.
Giáo dục nâng cao nhận thức cho mọi người
21


Một ví dụ ở nước ta:
Trong khuôn khổ dự án “Phòng, chống bạo lực gia đình, kiểm soát mất cân bằng giới tính khi
sinh và chăm sóc người cao tuổi” do Qũy dân số Liên hợp quốc (UNFPA) hỗ trợ tại tỉnh Hải
Dương và tỉnh Bến Tre của Việt Nam, mô hình Câu lạc bộ Liên thế hệ Tự giúp nhau (CLB
LTH TGN) đã được đưa vào áp dụng thí điểm từ năm 2013 đến 2015. Thông qua cách tiếp
cận liên thế hệ và dựa vào cộng đồng để tự giúp nhau, mô hình CLB LTH TGN hướng đến
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, gia đình cũng như cộng đồng của
họ, tập trung ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương như người nghèo, cận nghèo, và phụ nữ. Các
CLB LTH TGN cũng nhận được sự giúp đỡ về mặt tài chính của Tổ chức Hỗ trợ Người cao
tuổi Quốc tế. Sau hai năm thực hiện, dự án đã tiến hành đánh giá hoạt động của mô hình
nhằm cung cấp bằng chứng về các kết quả và đưa ra các khuyến nghị để tiếp tục cải thiện mô
hình này.

22


Dự án của Quỹ dân số Liên hợp quốc đã triển khai 8 nhóm hoạt động trong mô hình CLB
LTH TGN.
Những phát hiện từ đánh giá cho thấy mô hình CLB LTH TGN đã đạt được những kết quả

đáng khích
lệ trên tất cả các nhóm hoạt động.
1. Hoạt động chăm sóc sức khỏe: Khi trở thành thành viên câu lạc bộ, người cao tuổi được
kiểm tra, tư vấn sức khỏe và có hồ sơ theo dõi sức khỏe. Phần lớn các thành viên câu lạc bộ
tham gia tập thể dục ít nhất 3 lần một tuần. Mỗi quý một lần, các câu lạc bộ tổ chức một buổi
tập huấn về cách thức tự chăm sóc sức khoẻ. Các câu lạc bộ tổ chức kiểm tra sức khỏe cho
thành viên câu lạc bộ hai lần một năm. Kết quả khảo sát cho thấy 95,4% thành viên các câu
lạc bộ được khám sức khỏe một lần và 84,2% được khám sức khỏe từ hai lần trở lên trong
năm 2015. Tất cả các thành viên câu lạc bộ tham gia khảo sát đều có hồ sơ theo dõi sức khỏe
và tỷ lệ thành viên có bảo hiểm y tế tăng lên đáng kể.
2. Hoạt động tạo thu nhập: Các câu lạc bộ đều thành lập ít nhất 2 nhóm sinh kế và đã đạt
được mục tiêu do dự án đề ra. Bảy (7) trong số 12 câu lạc bộ đã đạt được mục tiêu thực hiện
ít nhất 4 đợt tập huấn trong một năm về công nghệ mới và những ý tưởng đổi mới, sáng tạo
và chia sẻ kinh nghiệm tại các buổi họp của câu lạc bộ. Câu lạc bộ tổ chức thăm quan học tập
để các thành viên học hỏi về các mô hình tạo thu nhập. Câu lạc bộ cũng cung cấp quỹ vốn
vay quay vòng tài chính vi mô cho các thành viên để phát triển sản xuất và góp phần tăng thu
nhập cho cá nhân và hộ gia đình. Tại thời điểm khảo sát, quỹ vốn vay tại Hải Dương có số
vốn là 78,38 triệu đồng (3.577 đô la Mỹ) và quỹ ở Bến Tre có 110,42 triệu đồng (5.065 đô la
Mỹ). Đây là mức gia tăng đáng kể từ số vốn trợ giúp ban đầu 50 triệu đồng (2.294 đô la Mỹ)
cho mỗi câu lạc bộ của Tổ chức Hỗ trợ Người cao tuổi Quốc tế.
3. Hoạt động văn hóa: Mỗi câu lạc bộ đều có đội văn nghệ biểu diễn thường xuyên tại các
buổi họp của câu lạc bộ, các lễ kỷ niệm và các buổi họp khác. Tất cả các thành viên tham gia
khảo sát nói rằng các hoạt động này được tổ chức thường xuyên tại các buổi họp của câu lạc
bộ và phần lớn họ thấy rất bổ ích. Kết quả đánh giá cho thấy các hoạt động văn hóa đã cải
thiện đáng kể đời sống tinh thần của các thành viên và giúp họ củng cố tinh thần đoàn kết,
đồng thời tạo gắn kết các thành viên với nhau. 99,6% các thành viên CLB tham gia khảo sát
cho rằng họ thấy
mình tự tin hơn kể từ khi tham gia CLB.
4. Hoạt động chăm sóc tại nhà: Sau 2 năm thực hiện, các câu lạc bộ đã vượt mục tiêu có ít
nhất 5 tình nguyện viên chăm sóc tại nhà. Tổng số tình nguyện viên chăm sóc tại nhà hiện

nay là 79 người (46 tình nguyện viên tại Hải Dương và 33 tình nguyện viên tại Bến Tre) và
đang cung cấp dịch vụ chăm sóc tại nhà ít nhất 2 lần một tuần cho 148 người cần trợ giúp.

23


Dịch vụ trợ giúp các hoạt động trong đời sống hàng ngày như làm việc nhà hay vệ sinh cá
nhân chủ yếu dành cho cụ ông, cụ bà có hoàn cảnh khó khăn hoặc người già sống neo đơn.
5. Hoạt động tự giúp nhau và hỗ trợ cộng đồng: Hàng tháng, các câu lạc bộ giúp ít nhất một
người và/hoặc hỗ trợ cho cộng đồng. Sau hơn hai năm hoạt động, 12 CLB LTH TGN đã giúp
đỡ bằng tiền hoặc hiện vật cho 6.406 trường hợp. Các điển hình về hỗ trợ cộng đồng hiệu quả
có thể thấy ở các như câu lạc bộ của xã Sơn Định, xã Vĩnh Hòa và xã Phước Thanh (tỉnh Bến
Tre).
6. Hoạt động gây quỹ câu lạc bộ: Các chiến lược gây quỹ đa dạng đã được triển khai tại các
câu lạc bộ, ví dụ như thu phí câu lạc bộ và lãi từ các quỹ vốn vay quay vòng, v.v. Các câu lạc
bộ cũng nhận được trợ giúp từ chính quyền địa phương. Tại thời điểm khảo sát, 12 CLB LTH
TGN đã gây quỹ được 858,37 triệu đồng (tương đương 39.375 đô la Mỹ) để giúp đỡ những
đối tượng có hoàn cảnh khó khăn và/hoặc để hỗ trợ cho các CLB LTH TGN giúp chính thành
viên của họ.
7. Các hoạt động liên quan đến quyền và quyền lợi: Việc chia sẻ thông tin trong các buổi họp
của CLB LTH TGN đã giúp nâng cao nhận thức về chính sách và luật pháp. Kết quả khảo sát
cho thấy phần lớn các thành viên câu lạc bộ có hiểu biết về quyền của người cao tuổi tốt hơn
nhiều so với trước đây.
8. Nâng cao năng lực và chia sẻ kiến thức: Trong các buổi họp hàng tháng, các câu lạc bộ
cũng tổ chức các buổi đào tạo và chia sẻ thông tin về các chủ đề như trồng trọt, chăn nuôi,
kinh doanh nhỏ, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, chăm sóc sức khỏe, chế độ ăn
uống lành mạnh và phòng chống các bệnh thông thường cho người cao tuổi.
Tác động tích cực của mô hình thể hiện ở tất cả các cấp độ, từ chính các thành viên câu lạc bộ
đến cộng đồng nói chung. Thay đổi tích cực ở mức độ cá nhân có thể kể đến là việc gia tăng
thu nhập hộ gia đình, cải thiện sức khỏe nhờ rèn luyện thân thể thường xuyên và có kiến thức

tốt về các vấn đề sức khỏe. Cùng với việc trao đổi kiến thức về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi,
vai trò của người cao tuổi, luật và chính sách; mô hình cũng tạo ra hiệu ứng lan toả tới cộng
đồng và gia đình của các thành viên câu lạc bộ. 93,7% các thành viên nói rằng họ thường
xuyên hoặc thỉnh thoảng phổ biến kiến thức cho người khác. Thu nhập bình quân hàng năm
của thành viên câu lạc bộ tăng từ 19,76 triệu đồng (906 đô la Mỹ) lên 26,74 triệu đồng (1.226
đô la Mỹ) (tăng 30,3%). Đa số các thành viên CLB LTH TGN phát biểu rằng họ trở nên tự tin
hơn sau khi gia nhập câu lạc bộ.
+Điều kiện để mô hình thành công
- Ban chủ nhiệm CLB có năng lực và kỹ năng quản lý tốt
- Các tình nguyện viên tích cực
- Trợ giúp tài chính ban đầu khoảng 50 triệu đồng (2.293 đô la Mỹ) cho mỗi câu lạc bộ

24


- Trợ giúp kỹ thuật trong việc sử dụng quỹ LTH TGN nhằm tăng thu nhập cho các thành viên
và bản thân các CLB LTH TGN.
+Bền vững và nhân rộng
Mô hình CLB LTH TGN được đánh giá là bền vững trên phương diện tổ chức, nguồn nhân
lực, nguồn tài chính và các hoạt động. Việc nhân rộng mô hình này cũng phù hợp với chính
sách của Đảng và Nhà nước, đã được cụ thể hoá thành các chỉ tiêu trong chương trình hành
động quốc gia về người cao tuổi tại từng tỉnh. Phần lớn các ý kiến tại các buổi phỏng vấn sâu
và các buổi thảo luận nhóm đã chỉ ra rằng mô hình này cần được nhân rộng tại các khu vực
khác, và mở rộng hơn ở những nơi đã có câu lạc bộ. Việc nhân rộng mô hình thành công này
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như nhu cầu thực tế của người cao tuổi, việc xem xét
và trợ giúp của các chính quyền địa phương, khả năng về con người, kỹ thuật và tài chính.
Tại thời điểm khảo sát, bên cạnh 6 câu lạc bộ do dự án thành lập tại mỗi tỉnh, từng tỉnh cũng
thành lập thêm 11 câu lạc bộ khác, đưa tổng số CLB LTH TGN lên đến 34 câu lạc bộ tại hai
tỉnh.
+


Thách thức

Mặc dù có những thành tựu nổi bật, hiện nay, các câu lạc bộ vẫn đang gặp nhiều khó khăn, ví
dụ như việc tìm kiếm và lựa chọn thành viên tình nguyện làm Ban chủ nhiệm CLB. Câu lạc
bộ có rất nhiều hoạt động và các yêu cầu quản lý hiệu quả đòi hỏi thành viên tình nguyện
viên trong vai trò ban chủ nhiệm phải đảm đương rất nhiều việc. Ngoài ra, các thành viên
trong ban chủ nhiệm cần phải được đào tạo định kỳ và tuyển thêm các thành viên mới vào
ban khi các thành viên cũ ngày càng lớn tuổi.

D. Kết luận:
Kính trên, nhường dưới”, “kính lão, đắc thọ” là truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Trong xã hội Việt Nam, người cao tuổi luôn được coi trọng, tôn kính; họ có vai trò to lớn
trong việc gìn giữ, truyền thụ các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, là lớp người có công
lớn trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Kế thừa truyền thống của dân tộc, sinh thời, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt và sự quan tâm sâu sắc đối với Người cao tuổi.
Người đã có những quan điểm sâu sắc, nhất quán và mang tính hệ thống về vị trí, vai trò,
trách nhiệm của người cao tuổi đối với sự nghiệp cách mạng nước nhà. Quan điểm của Bác
về người cao tuổi được thể hiện ở một số điểm nổi bật sau:
1. Vị trí, vai trò của người cao tuổi
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của người cao tuổi đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, với gia đình, quê hương nói
25


×