Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp luật hiện hành thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.09 KB, 41 trang )

hoá luận tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
Anh hùng, bất khuất không chỉ trong đấu tranh vũ trang; trung hậu, đảm đang không
chỉ trong cuộc sống gia đình, người phụ nữ Việt Nam đã khẳng định mình trong rất nhiều lĩnh
vực, nhất là trong lĩnh vực lao động. Chiếm 51,48% dân số và 52% lực lượng lao động xã hội,
lao động nữ đã làm ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội, có nhiều đóng góp vào thành tựu
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.Vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội đang
dần dần được nâng lên rõ rệt. Vậy có những biện pháp nào để bảo vệ họ? Bảo hiểm xã hội là
một trong những biện pháp, chính sách quan trọng được tất cả các Quốc gia trên thế giới sử
dụng. Nó liên quan trực tiếp đến an toàn xã hội của các nước và quan trọng hơn nó duy trì ổn
định xã hội và trong đó có ổn định đời sống của người lao động nói chung và lao động nữ nói
riêng.
Thời gian qua, Pháp luật về Bảo hiểm xã hội đã có những quy định riêng tương đối
phù hợp với những nét đặc thù của lao động nữ và có hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích của
họ, nhưng vẫn còn khá nhiều điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
hơn. Đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài: “ Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp
luật hiện hành - Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện”. Với mong muốn đóng góp ý kiến để nhằm hoàn thiện hơn nữa
chế độ BHXH đối với lao động nữ ở nước ta.
Trong phạm vi khoá luận này, tôi không có tham vọng trình bày được hết các chế độ
Bảo hiểm xã hội dành cho lao động nữ mà chỉ tập trung trình bày những hiểu biết của mình về
pháp luật BHXH dành cho lao động nữ, trong đó ba chế độ BHXH thể hiện yếu tố đặc thù:
ốm đau, thai sản, hưu trí được quan tâm hàng đầu.
Khoá luận cố gắng làm sáng tỏ một cách có hệ thống những quy định của pháp luật
BHXH hiện hành đối với lao động nữ, so sánh với các quy định trước đây để chỉ ra những ưu
điểm cũng như hạn chế của các quy định này. Đồng thời, khoá luận cũng đề cập một cách
tương đối khái quát tình hình thực hiện các quy định này trên thực tế. Trên cơ sở đó, mạnh
dạn đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật BHXH đối với lao động nữ
ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu khoá luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của


Triết học Mác- Lênin như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp so sánh, liệt kê… cũng như chủ trương đường lối của Đảng và Nhà
nước ta về quyền và lợi ích của lao động nữ.
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận có kết cấu
gồm ba chương:
Chương I : Khái quát chung về BHXH và sự cần thiết phải thực hiện BHXH
đối với lao động nữ
Chương II : Thực trạng pháp luật về BHXH đối với lao động nữ
Chương III : Một số phương hướng cơ bản góp phần hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện pháp luật về BHXH đối với lao động nữ.


hoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC
HIỆN BHXH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH
1.1.1. Khái niệm BHXH
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội mà nền kinh tế thị trường tạo ra cho người lao động
thì khó khăn mà họ gặp phải là không ít. Người lao động luôn phải đối mặt với ốm đau, bệnh
tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp…ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của
bản thân và gia đình họ. Để đảm bảo cho cuộc sống được ổn định trong các trường hợp rủi ro
trên, người lao động tìm đến các biện pháp phòng ngừa và khắc phục hậu quả khác nhau. Một
trong các biện pháp đó là tham gia BHXH.
Hệ thống BHXH đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỷ XIX là công trình của
Chính phủ Đức dưới thời thủ tướng Bismark với cơ chế ba bên (Nhà nước- giới chủ- giới thợ)
cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Do
những tích cực của BHXH đem lại nên nó đã nhanh chóng được các nước trên thế giới tiếp
nhận. Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX, liên tiếp các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canađa đều áp

dụng. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai và sau khi giành được độc lập, nhiều nước ở Châu
Phi, Châu Á và vùng Caribê cũng lần lượt áp dụng các cơ chế BHXH tương tự. Cho đến nay,
BHXH đã trở thành chính sách quan trọng của hơn 160 quốc gia trên thế giới.
Pháp luật BHXH ở nước ta được manh nha hình thành ngay từ sau khi thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, với các quy định về BHXH trong các văn bản như: Sắc
lệnh số 29/SL(1946), Sắc lệnh số 76/SL(1947), Sắc lệnh số 77/SL(1947)…Tiếp đó là Nghị
định số 218/CP ngày 27/12/1961 do Chính phủ ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về BHXH
đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Để cụ thể hoá và thực hiện quy định về BHXH tại
Điều 56 của Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm thời chế độ BHXH. Sau một thời gian thực hiện,
trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm và từ yêu cầu của thực tế đời sống, chế độ BHXH đã được thể
hiện thành một chương riêng trong Bộ luật lao động năm 1994, đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong hệ thống chính sách về BHXH. Theo đó, một loạt các Nghị định của Chính
phủ đã ra đời như: Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ
BHXH; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH đối với
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân
dân…Với sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động(tháng 4/2002) trong đó có các nội dung về
BHXH, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 được ban
hành. Tiếp đó, trên cơ sở các cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc gia nhập WTO về
chính sách an sinh xã hội cùng với sự chín muồi về nhận thức, về điều kiện kinh tế xã hội đất
nước, nhu cầu của đời sống xã hội…ngày 29/06/2006 tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khoá XI
nước ta đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực từ 01/01/2007 (riêng đối với BHXH tự
nguyện có hiệu lực từ ngày 01/01/2008, Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày
01/01/2009). Vậy BHXH là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, BHXH là sự “ bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công


hoá luận tốt nghiệp
nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động…”

Theo từ điển Luật học “ BHXH là bảo hiểm thu nhập cho người lao động trong một số
trường hợp do Nhà nước tổ chức quản lý”
Xét dưới góc độ kinh tế, thì BHXH là một phạm trù kinh tế. BHXH nằm trong kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội nói chung của đất nước và quỹ BHXH được quản lý thống
nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Đó là một quỹ tài chính, tiền tệ được h ình thành trên
cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước.
BHXH có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế của người lao động cũng như của gia đ ình
họ. Nó bù đắp hoặc thay thế toàn bộ hoặc một phần thu nhập của người lao động bị mất hoặc
bị giảm khả năng lao động, giúp họ ổn định đời sống.
Xét dưới góc độ xã hội, BHXH lại thuộc phạm trù xã hội. Nó là một trong những
chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước. BHXH nhằm mục đích bảo đảm đời sống xã hội
là chính chứ không nhằm mục đích kinh doanh. Tính xã hội còn biểu thị ở tính tương trợ cộng
đồng và sự ưu đãi của xã hội dành cho người lao động và các thành viên khác trong xã hội.
Khi người lao động tham gia đóng BHXH, họ không chỉ đóng góp cho mình mà còn hỗ trợ,
giúp đỡ những người lao động khác đang gặp khó khăn, rủi ro trong cuộc sống.
Xét dưới góc độ chính trị, BHXH thể hiện sự liên kết sức mạnh giữa Nhà nước, người
lao động và người sử dụng lao động nhằm góp phần ổn định chính trị. Ngoài ra, BHXH còn
thể hiện sự quan tâm của mỗi quốc gia đối với quyền con người- quyền lao động và quyền
được chăm sóc sức khoẻ.
Dưới góc độ pháp lý: Chế độ BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà nước, quy
định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động và trong một
số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Hiện nay, theo quy định tại Khoản1- Điều 3, Luật BHXH (2006) thì BHXH “ là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”.

1.1.2. Bản chất của BHXH
BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển kinh tế
của một quốc gia đạt đến mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời, phát triển.

Vì vậy các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của
nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, lạc hậu, đời sống của nhân dân thấp kém thì
không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh. Trái lại, kinh tế càng phát triển, tiến bộ thì hệ
thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH càng phong phú và mở rộng hơn, do đó đời
sống xã hội nói chung và đời sống người lao động nói riêng ngày càng được cải thiện và nâng
lên một tầng cao mới.
Thực chất, BHXH là sự hỗ trợ nhằm khắc phục hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự
hỗ trợ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được


hoá luận tốt nghiệp
xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như: ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết…Vì vậy, mục đích của BHXH là thực
hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ.
BHXH mang bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã
hội của BHXH không tách rời mà đan xen vào nhau. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức, phân
phối lại thu nhập nên đời sống của người lao động và gia đình họ được đảm bảo trước những
khó khăn, bất trắc, rủi ro. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động
chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ
có một khoản tiền đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên
tắc “ lấy số đông bù số ít”. BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, trong đó mỗi cá nhân
được coi là một mắt xích của hệ thống giá trị xã hội. BHXH tạo cho những người bất hạnh
những điều kiện cần thiết để khắc phục rủi ro, có cơ hội để phát triển và hoà nhập vào cộng
đồng. BHXH kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, hướng con người tới những
điều tốt đẹp trong cuộc sống, vì một xã hội nhân ái, công bằng, an toàn.

1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của BHXH
a. Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng BHXH và có chia sẻ giữa những

người tham gia BHXH:
BHXH là một trong những hình thức phân phối Tổng sản phẩm quốc dân nên thực
hiện BHXH phải dựa trên cơ sở sự kết hợp hài hoà giữa cống hiến và hưởng thụ. Nghĩa là
phải đảm bảo hợp lý giữa đóng góp và hưởng thụ, tức là phải căn cứ vào mức đóng góp của
người lao động cho xã hội để quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù hợp
với sự đóng góp cho xã hội của người lao động. Tuy nhiên bên cạnh nội dung kinh tế, BHXH
còn chứa đựng nội dung xã hội và một trong những biểu hiện của nó là nguyên tắc “chia sẻ rủi
ro”, “lấy số đông bù số ít”. Do vậy, khi đóng góp vào quỹ BHXH, không có nghĩa chắc chắn
người lao động sẽ hưởng mọi chế độ BHXH. Nhưng sự đóng góp của họ có ý nghĩa to lớn đối
với những đối tượng gặp phải rủi ro, mang tính chất chia sẻ rủi ro, tương trợ cộng đồng.
b. Mức đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương,
tiền công của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập
do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu
chung:
Thu nhập được BHXH là phần thu nhập của người lao động tham gia bảo hiểm mà
nếu nó biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm thì tổ
chức BHXH phải chi trả trợ cấp để thay thế hoặc bù đắp một phần cho họ.


hoá luận tốt nghiệp
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng tiền nào
đó do Nhà nước quy định. Trong thực tế, có hai cách để lựa chọn mức thu nhập được bảo
hiểm tuỳ theo đối tượng tham gia BHXH. Cách thứ nhất, là lấy tiền lương làm cơ sở để quy
định mức thu nhập được bảo hiểm. Cách thứ hai, là quy định một mức thu nhập nhất định đối
với người được bảo hiểm. Mỗi cách đều có những tác dụng khác nhau, nhưng thông thường
người ta lấy tiền lương làm căn cứ để xác định mức thu nhập được bảo hiểm.
Và theo quy định hiện hành của Luật BHXH nước ta, mức đóng BHXH bắt buộc, Bảo
hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động; mức đóng
BHXH tự nguyện do người lao động lựa chọn tính trên cơ sở mức thu nhập của họ nhưng
không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.

c. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng
BHXH.
Trong thực tế, việc tham gia BHXH bắt buộc hay tự nguyện đều tạo ra các quyền lợi
về BHXH có giá trị như nhau và tuỳ theo tính chất, đặc điểm của quan hệ lao động có thể có
những thời gian tham gia BHXH theo các loại hình khác nhau. Vì thế để đảm bảo quyền lợi
cho người lao động và tính liên thông trong quan hệ BHXH thì người lao động vừa có thời
gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện thì được hưởng BHXH
theo quy định của pháp luật trên cơ sở thời gian đã đóng BHXH.
d. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng
đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của BHXH bắt buộc, BHXH
tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp:
Quỹ BHXH có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH và nó ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động. Nếu quỹ BHXH không an toàn, thâm hụt
thì đời sống của hàng triệu người lao động sẽ không được bảo đảm. Do đó, Nhà nước phải
quản lý và có những hỗ trợ khi cần thiết, chỉ có Nhà nước mới có đủ tiềm lực tài chính để hỗ
trợ và quản lý BHXH. Để đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch và trên cơ sở của cơ
chế ba bên trong việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH thì hoạt động của tổ chức BHXH (trong
đó có quỹ BHXH) do Hội đồng quản lý BHXH chỉ đạo và giám sát.
e. Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy
đủ quyền lợi của người tham gia BHXH:
Như chúng ta đã biết, một trong những chức năng cơ bản của BHXH đó là chức năng
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp sự thiếu hụt thu nhập của người lao động và gia đình họ. Đây là
chức năng thể hiện rõ bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH. Khi người lao động đã


hoá luận tốt nghiệp
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ thì họ có quyền được nhận trợ cấp BHXH khi phát sinh
những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…đã làm thu nhập của họ bị giảm sút
hoặc mất hẳn. Chính những lúc này các khoản tiền BHXH giữ vai trò cần thiết và quan trọng,

nhằm ổn định cuộc sống, khắc phục khó khăn, hỗ trợ giúp đỡ họ vượt qua những rủi ro tạm
thời cũng như lâu dài. Do vậy, việc thực hiện BHXH phải đảm bảo đơn giản, dễ dàng, thuận
tiện, kịp thời đặc biệt là về thủ tục hành chính và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.

1.1.4. Phân loại BHXH
Có nhiều tiêu chí để ta phân loại BHXH và tuỳ từng loại tiêu chí mà có các loại
BHXH khác nhau:
a. Căn cứ vào hình thức của BHXH:
Bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
BHXH bắt buộc là loại hình BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động
phải tham gia.
BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa
chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH.
Về phương diện pháp lý, loại hình BHXH bắt buộc hay tự nguyện thể hiện ở việc quy
định về đối tượng, mức đóng và hưởng BHXH…với các chủ thể trong quan hệ BHXH. Về đối
tượng, nói chung BHXH bắt buộc được áp dụng với người lao động có thời hạn làm việc ở
mức nhất định, thu nhập có tính cố định (tiền lương hàng tháng), doanh nghiệp sử dụng số
lượng lao động ổn định…Những đối tượng khác áp dụng BHXH tự nguyện. Về mức phí đóng
BHXH, các chủ thể tham gia BHXH bắt buộc có nghĩa vụ hàng tháng phải đóng một khoản
tiền nhất định do pháp luật quy định tương ứng với tỷ lệ tiền lương của người lao động cho
quỹ BHXH. Đối với BHXH tự nguyện, người tham gia có thể lựa chọn mức phí bảo hiểm và
thể thức đóng khác nhau sao cho phù hợp.
b. Căn cứ vào thời gian hưởng trợ cấp:
Bao gồm hai loại hình BHXH là BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn
BHXH ngắn hạn: thường áp dụng cho người lao động đang làm việc, phát huy tác
dụng trong thời gian ngắn với các nhu cầu BHXH mới phát sinh. Ở nước ta, BHXH ngắn hạn
bao gồm 3 chế độ: ốm đau, thai sản và chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
BHXH dài hạn: thường áp dụng với người lao động đã nghỉ việc, phát huy tác dụng
trong một thời gian dài. Ở nước ta, BHXH dài hạn bao gồm: chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
c. Căn cứ vào các trường hợp rủi ro được BHXH (chế độ BHXH) gồm:

BHXH trong trường hợp bị ốm đau, nghỉ dưỡng sức; trường hợp thai sản; trường hợp


hoá luận tốt nghiệp
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trường hợp tuổi già; trường hợp chết; trường hợp bị mất
việc làm (thất nghiệp) và Bảo hiểm y tế.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN BHXH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ

1.2.1 Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ
Chiếm trên 50% dân số, phụ nữ Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào các lĩnh
vực của đời sống xã hội và có nhiều đóng góp vào thành tựu phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước. Mặc dù trong Bộ luật lao động dành hẳn Chương X để quy định về lao động nữ, Luật
BHXH năm 2006 cũng có nhiều quy định về lao động nữ nhưng lại không có một khái niệm
chính thức về lao động nữ. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu: lao động nữ là người lao động mà
xét về mặt giới tính được xác định là phụ nữ.
Từ khái niệm chung nêu trên có thể rút ra hai yếu tố cơ bản về lao động nữ:
Một là, lao động nữ nhìn chung là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và
có giao kết hợp đồng lao động. Lao động nữ phải có đủ năng lực pháp luật lao động và năng
lực hành vi lao động. Ngoài ra, lao động nữ còn có thể là người lao động dưới 15 tuổi, có khả
năng lao động và tham gia quan hệ lao động trong một số ngành nghề, công việc mà Nhà
nước cho phép (như diễn viên múa, hát, xiếc…) với những điều kiện nhất định theo quy định
của pháp luật.
Hai là, lao động nữ là lao động có giới tính nữ. “Giới tính” là khái niệm chỉ những
biểu hiện của sự khác nhau về những thành tố sinh học của phụ nữ và nam giới. “Giới” thể
hiện mối quan hệ phức tạp về tâm sinh lý, những chuẩn mực trong thái độ và hành vi ứng xử
của mỗi người đối với gia đình và xã hội, và nguợc lại của xã hội đối với mỗi giới.
Mặc dù, tỷ lệ lao động nữ trong toàn bộ lực lượng lao động là khá lớn (hơn 50%),
song lao động nữ vẫn được coi là lao động đặc thù. Và việc nghiên cứu tính đặc thù này có ý
nghĩa rất quan trọng, nhằm phát hiện những đặc điểm riêng của người lao động là nữ so với
người lao động là nam, từ đó có chính sách và hướng điều chỉnh bằng pháp luật cho phù hợp.

Trước hết ta thấy, xét về mặt thể lực thì nữ giới thường yếu hơn nam giới, nhưng bù
lại họ có đức tính kiên trì, khéo léo, cần cù, chịu khó…nên rất thích hợp đối với ngành nghề,
công việc đòi hỏi độ phức tạp, khéo léo, kiên trì như: dệt may, thêu, đan lát…
Ngoài ra, nói như Chủ tịch Hồ chí Minh thì nói đến lao động nữ là nói đến một nửa
nhân loại; và nửa nhân loại này đã sinh ra nửa nhân loại còn lại. Đó chính là thiên chức làm
mẹ của lao động nữ, một đặc thù rất quan trọng của lao động nữ. Tuy nhiên, trên thực tế và
theo truyền thống ở nước ta ngoài chức năng sinh con, trách nhiệm thực hiện các công việc
gia đình, chăm sóc con cái…thường là do người phụ nữ đảm nhiệm phần lớn và ít nhận được
sự giúp đỡ từ phía người chồng. Do đó, thời gian làm việc thực tế của lao động nữ thường cao
hơn nhiều thời gian làm việc của nam giới. Chính những công việc gia đình mất nhiều thời
gian đã làm giảm đi cơ hội học tập, thăng tiến của lao động nữ, dẫn đến sự bất bình đẳng giữa
lao động nữ và lao động nam ngày càng lớn. Trước đây, do tập tục, quan niệm, thói quen cùng
tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trong xã hội, người phụ nữ thường chỉ được giao những công
việc có tính chất nội trợ đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo thủ công mà ít được tham gia công việc
có tính chất linh hoạt, áp dụng công nghệ, máy móc…Song ngày nay, vai tr ò của người phụ
nữ ngày càng được thừa nhận và được khẳng định trong mọi ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động
xã hội. Kinh tế thị trường phát triển đã và đang tạo ra rất nhiều thuận lợi và cơ hội cho lao
động nói chung và lao động nữ nói riêng. Xu hướng phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất
ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Và với tính đặc thù của mình, lao động nữ cần
được quan tâm đúng mức từ phía Nhà nước, xã hội để họ thực sự có được vị trí độc lập trong
đời sống xã hội và gia đình, là nền móng vững chắc cho sự phát triển và tiến bộ đẩy đủ của
phụ nữ trong bối cảnh hội nhập hiện nay.


hoá luận tốt nghiệp

1.2.2 Sự cần thiết phải thực hiện BHXH đối với lao động nữ
Hiện nay, nước ta được đánh giá là có số Đại biểu nữ cao trong Quốc hội. Theo số liệu
của Uỷ ban bầu cử Quốc hội khoá XII cho thấy, trong số 876 ứng cử viên Đại biểu Quốc hội
khoá này có 290 ứng cử viên nữ, chiếm 33,1%. Với số lượng nữ đại biểu như vậy nước ta

đứng đầu Châu Á, đứng thứ hai khu vực Châu Á- Thái Bình Dương (sau Niu Di-Lân) và xếp
thứ 9/135 nước trên thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2007, trong số 40 triệu lao động thì phụ nữ
chiếm hơn 52%, tỷ lệ lao động nữ chiếm trên 70% ngành dệt may, 60% ngành chế biến lương
thực thực phẩm, 60% trong lĩnh vực y tế, 70% trong giáo dục phổ thông. Trong nông nghệp,
với gần 10 triệu hộ nông dân, tương ứng với 28 triệu lao động, thì phụ nữ chiếm tới 53,3%,
còn ngành công nghiệp là 45%. Những số liệu này đã khẳng định vai trò quan trọng của lao
động nữ, tầm quan trọng, vị trí của họ ngày càng được chứng minh trong thực tế đời sống.
Tuy nhiên, với tính đặc thù của mình, bên cạnh những thuận lợi, lao động nữ đã gặp
không ít khó khăn khi tham gia vào các quan hệ lao động, cụ thể:
Thứ nhất, do lao động nữ có thể lực yếu hơn so với nam giới nên trong quá trình lao
động, thường khả năng bị ốm cao hơn, đặc biệt khi làm việc trong những ngành nghề, công
việc nặng nhọc, độc hại. Mặt khác, với thiên chức làm mẹ của mình, khi con bị ốm đau, lao
động nữ thường phải nghỉ việc để chăm sóc con (thực tế, lao động nam cũng nghỉ việc để
chăm sóc con khi con bị ốm đau song trường hợp này không nhiều và chủ yếu là lao động
nữ). Chính trong thời gian này, do phải nghỉ việc nên thu nhập của lao động nữ tạm thời bị
gián đoạn. Thêm vào đó, kinh phí chữa trị bệnh tật cho bản thân hay trong trường hợp con ốm
tăng lên đáng kể. Do vậy, cần phải có nguồn đảm bảo cho những chi phí tăng lên hoặc thu
nhập bị mất đó, giúp lao động nữ nhanh chóng quay trở lại làm việc, ổn định thu nhập.
Thứ hai, lao động nữ ngoài công việc hàng ngày, họ còn mang một trọng trách rất lớn
là tái sản xuất sức lao động toàn xã hội. Chỉ có lao động nữ mới có khả năng mang thai và
sinh nở. Trong suốt quá trình này, nguồn thu nhập của họ bị mất khi công việc lao động tạm
thời bị gián đoạn, chi phí thì tăng lên đột xuất do người lao động cần phải sắm sửa những vật
dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ và cần một chế độ ăn uống, bồi dưỡng ở mức cao hơn
bình thường. Do đó, để bù đắp khoản chi phí tăng thêm, khoản thu nhập bị mất, mặt khác có
điều kiện để chăm sóc sức khỏe của mình trong quá trình mang thai, sinh nở, chuẩn bị những
điều kiện tốt nhất cho sự ra đời của đứa trẻ thì rất cần phải thực hiện chế độ Bảo hiểm thai sản
đối với lao động nữ.
Thứ ba, cũng như những lao động khác, khi về già, không còn khả năng lao động thì



hoá luận tốt nghiệp
tiền lương hưu cũng là khoản thu nhập chủ yếu và là chỗ dựa chính nhằm đảm bảo cuộc sống
cả về vật chất lẫn tinh thần cho lao động nữ trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động.
Lúc còn trẻ, khỏe, người lao động đã đem hết thể lực và trí lực để lao động tạo thu nhập cho
bản thân, gia đình, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Khi về hưu có được một khoản thu
nhập hàng tháng sẽ có điều kiện nghỉ ngơi, an dưỡng, vui chơi…mà không phải lo lắng về
kinh tế. Điều đó giúp người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng không những tăng
tuổi thọ, mà không bị mặc cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội, giúp họ yên tâm với cuộc
sống hơn.
Xuất phát từ những khó khăn và để tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nữ trong lao
động sản xuất cũng như thực hiện tốt thiên chức của mình, thì vấn đề BHXH đối với lao động
nữ là vô cùng cần thiết. Đây cũng là điều mà các quốc gia tiến bộ trên thế giới đang hướng tới
và nó cũng phù hợp với quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Ở nước ta, ngay
trong bản Dự án Luật lao động, bản dự án luật đầu tiên được thông qua tại Quốc hội nước ta
(tại kỳ họp thứ II- Quốc hội khoá I, ngày 8/11/1946) đã xác định và thể hiện rõ nguyên tắc
bảo vệ lao động nữ. Trong Sắc lệnh về lao động số 29/SL ngày 12/3/1947 do Hồ Chủ Tịch ký
cũng đã có nhiều quy định riêng đối với lao động nữ, trong đó có riêng một Tiết (Tiết thứ 7Chương thứ IV) gồm ba Điều quy định về “Lệ nghỉ của đàn bà đẻ và đàn bà cho con bú”. Đến
khi Bộ luật lao động chính thức ra đời năm 1994, được sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006 cũng
dành hẳn một chương riêng (Chương X) với những quy định về bảo vệ quyền lợi cho lao động
nữ trong mọi lĩnh vực của quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, chấm dứt hợp đồng, sa
thải…nhưng đặc biệt nhất là trong lĩnh vực BHXH. Chưa hết, ngày 29/6/2006 tại kỳ họp thứ
IX, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật BHXH và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2007.
Đây là văn bản vô cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý để bảo vệ người lao động nói chung và
lao động nữ nói riêng. Những quy định trong Luật BHXH về lao động nữ có ý nghĩa to lớn:
Dưới góc độ kinh tế, việc đặt ra các quy định đối với lao động nữ nhằm tạo điều kiện
cho họ tham gia vào các quan hệ lao động, tận dụng mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, x ã
hội, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ.
Dưới góc độ xã hội, việc bảo vệ quyền lợi của lao động nữ thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với lao động nữ, giúp họ hoà nhập vào cộng đồng, có cơ hội được làm

việc, cải thiện cuộc sống. Ngoài ra, các quy định riêng về BHXH đối với lao động nữ còn
nhằm bảo vệ những đặc điểm về tâm sinh lý và chức năng thiên bẩm làm mẹ của người phụ
nữ. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, người lao động so với người sử dụng lao động
thường ở vị trí yếu hơn thì điều này càng có ý nghĩa. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng
những chế độ BHXH áp dụng riêng đối với lao động nữ không phải là một đặc quyền, đặc lợi


hoá luận tốt nghiệp
hoặc là sự phân biệt đối xử mà chỉ là sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý cũng như các yếu
tố đặc thù của họ.
Chúng ta đang hướng tới xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ, nơi mà quyền con
người được đảm bảo và không có bất kỳ một sự bất bình đẳng nào giữa nam và nữ. Bởi vậy,
BHXH đối với người lao động là cần thiết và càng cần thiết hơn đối với lao động nữ. Nó sẽ
giúp lao động nữ phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình, góp phần xây dựng đất nước ngày
một giàu đẹp, văn minh.

1.3. BHXH ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ THEO QUY ĐỊNH CỦA ILO VÀ
PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
BHXH đối với lao động nữ là vấn đề mà ILO và các quốc gia hết sức quan tâm. Ngay
từ khi mới thành lập (1919), ILO đã dành những Công ước đầu tiên để đảm bảo quyền cho lao
động nữ như Công ước số 3, số 4 (năm 1919), đặc biệt ngày 28/6/1952 ILO đã thông qua
Công ước số 102 về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Công ước quy định 9 dạng trợ cấp
gồm: trợ cấp ốm đau, chăm sóc y tế, trợ cấp thai sản, tuổi già, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, tàn tật, tử tuất, thất nghiệp và trợ cấp gia đình. Trong đó, trợ cấp thai sản, tuổi già
mang tính đặc thù, có những quy định riêng đối với lao động nữ.
Đối với trợ cấp thai sản, các trường hợp được bảo vệ gồm: thai nghén, sinh đẻ và
những hậu quả tiếp theo và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh. Công ước quy định mức trợ cấp
tối thiểu so với thu nhập trước đó của lao động nữ được hưởng là từ 45%-70%. Về trợ cấp
tuổi già, thì độ tuổi quy định không được quá 65, tuy nhiên cơ quan có thẩm quyền có thể ấn
định một độ tuổi cao hơn xét theo khả năng làm việc của người cao tuổi trong nước đó. Và

mức trợ cấp tối thiểu so với thu nhập trước đó của đối tượng được hưởng là 40%. Đồng thời
để tránh sự lợi dụng tiền trợ cấp một khi chưa có đủ các điều kiện về mức độ thời gian làm
việc và đóng BHXH, Công ước có định ra thâm niên tham gia BHXH là không quá 30 năm
đóng góp hoặc không quá 20 năm thường trú. Với việc định ra các dạng trợ cấp BHXH đặc
biệt là các dạng trợ cấp đặc thù dành cho lao động nữ, cũng như quy định các mức trợ cấp,
cách thức trả trợ cấp…có thể coi Công ước số 102 như là một “Điều lệ mẫu về BHXH” để
cho các nước thành viên của ILO áp dụng.
Hiện nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều có những quy định về BHXH và thực
hiện bảo hiểm đối với lao động nữ.
Đức là nước đầu tiên thiết lập BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, sự phát triển của bảo hiểm
được thực hiện từng bước: Bảo hiểm ốm đau và thai sản được thiết lập năm 1883, Bảo hiểm
tuổi già và tàn tật năm 1889, Bảo hiểm tai nạn lao động năm 1884, Bảo hiểm thất nghiệp năm
1927, Bảo hiểm phụ thuộc năm 1994. Những quy định về BHXH dành riêng cho lao động nữ
cũng rất cụ thể. Ở trợ cấp thai sản, Pháp luật Đức quy định thời gian nghỉ thai sản bắt đầu 6
tuần trước khi sinh và kết thúc 8 tuần sau. Trong thời kỳ này, lao động nữ có quyền được trả
trợ cấp thai sản tương ứng với lương của mình. Nếu số tiền vượt quá 25DM một ngày, người
sử dụng lao động hoặc Nhà nước chịu trách nhiệm đối với phần vượt quá trần. Đối với Bảo
hiểm hưu trí, tuổi về hưu bình thường của lao động nữ là 60 tuổi (65 tuổi từ năm 2005). Đối
với công chức, từ năm 1997 đã tăng từ 62 tuổi lên 63 tuổi, một số có thể về hưu từ năm 61
tuổi. Tuổi về hưu tối thiểu cho đến năm 2010, người lao động nữ có thể về hưu từ năm 60 tuổi
với điều kiện đã tham gia bảo hiểm ít nhất là 15 năm, trong đó 10 năm sau tuổi 40; từ năm
2010, nữ có thể được nghỉ hưu từ năm 62 tuổi. Nếu các điều kiện nói trên không đạt được,
quyền nghỉ hưu sẽ từ 65 tuổi với điều kiện đã tham gia bảo hiểm ít nhất 5 năm. Khả năng về
hưu trước tuổi từ 62 tuổi sẽ được giữ, nhưng việc về hưu này sẽ kèm theo việc trừ 0,3% mỗi


hoá luận tốt nghiệp
tháng. Và số tiền trợ cấp hưu trí theo chế độ BHHT lên đến 78% của lương cuối cùng.
Ở Anh, các trợ cấp cơ bản của Anh gồm: các trợ cấp của Bảo hiểm ốm đau thai sản,
trợ cấp hưu trí, các trợ cấp gia đình, bảo hiển thất nghiệp, thu nhập tối thiểu được bảo đảm.

Trợ cấp thai sản, theo pháp luật Anh được người sử dụng lao động chi trả 18 tuần: khoản trợ
cấp này tương ứng với 90% lương trước đó trong 6 tuần đầu tiên và một khoản khoán hàng
tuần bằng 52,50 Bảng ở 12 tuần tiếp theo, với điều kiện người này làm một công việc không
gián đoạn ít nhất 26 tuần trước khi nghỉ và yêu cầu hưởng trợ cấp phải được đưa ra từ tuần
thứ 15 trước ngày dự kiến sinh con. Mặt khác, lương tuần trung bình phải vượt quá sàn đóng
cho Bảo hiểm quốc gia là 58 Bảng/1 tuần. Bảo hiểm quốc gia có thể chi trả cho người không
đáp ứng đầy đủ các điều kiện này một khoản khoán: 45,55 Bảng một tuần cho lao động nữ
không có việc làm hoặc không phải là người làm công ăn lương; 52,50 Bảng một tuần cho
người làm công ăn lương nữ (các trợ cấp này chỉ được chi trả trên một số điều kiện đóng góp
bảo hiểm). Với trợ cấp hưu trí, tuổi nghỉ hưu của lao động nữ là 60, với thời gian làm việc đầy
đủ là 39 năm. Từ năm 2010, tuổi nghỉ hưu của nữ sẽ được nâng lên mỗi năm 6 tháng tuổi cho
đến 65 tuổi vào năm 2020. Trợ cấp hưu trí mà người về hưu nhận là một khoản trợ cấp theo
pháp luật cơ bản, độc lập với lương và là một khoản trợ cấp bổ sung bắt buộc. Trợ cấp cơ bản
cá nhân là 58,85 Bảng một tuần. Trợ cấp được tăng thêm 35,25 Bảng một tuần cho một cặp vợ
chồng mà chỉ một trong hai người làm việc. Trợ cấp cũng được tăng thêm khi có con phải
nuôi dưỡng. Người cao tuổi trên 80 tuổi được nhận một khoản trợ cấp bổ sung.
Ở Trung Quốc, đối với Bảo hiểm dưỡng lão: pháp luật Trung Quốc quy định tuổi nghỉ
hưu là 55 tuổi cho nữ công nhân viên chức làm việc trong các ngành chuyên môn và quản lý,
50 tuổi cho công nhân nữ làm việc trong các khu vực sản xuất. Khi đến tuổi về hưu và đã
đóng góp không dưới 10 năm cho quỹ bảo hiểm, thì sẽ nhận hai phần bảo hiểm: quyền lợi
dưỡng lão cơ bản là 20% mức lương trung bình của tổng số năm đi làm; quyền lợi dưỡng lão
lấy từ tài khoản cá nhân là 1/120 của tổng giá trị có trong tài khoản. Đối với công nhân viên
chức đã đóng góp ít hơn 10 năm thì phần tài khoản của cá nhân họ sẽ được trả một lần. Về
Bảo hiểm thai sản: năm 1988, Chính phủ ban hành Điều lệ Bảo hiểm lao động đối với nữ
công nhân, trong đó có sửa đổi và cải thiện chế độ nghỉ thai sản đối với nữ công nhân. Quy
định này cấm hạ lương của phụ nữ hoặc chấm dứt hợp đồng lao động đối với phụ nữ trong
thời gian họ mang thai hoặc chăm sóc con nhỏ. Thời gian nghỉ là 90 ngày, trong đó, người
phụ nữ được nghỉ 15 ngày trước khi sinh. Trong trường hợp mổ đẻ được nghỉ thêm 15 ngày;
trong trường hợp sinh đôi trở lên, mỗi đứa trẻ được sinh thêm sẽ được nghỉ thêm 15 ngày nữa.
Năm 1994 Trung Quốc cải tổ hệ thống bảo hiểm thai sản mà nội dung là xã hội hoá các chi

phí cho nghỉ thai sản. Các nguồn được huy động dựa trên nguyên tắc đóng góp phù hợp với
thu nhập và chi phí thực tế. Các nhà máy, xí nghiệp đóng góp cho cơ quan BHXH một tỷ lệ %
nhất định trong tổng quỹ lương của họ để hình thành nên quỹ Bảo hiểm thai sản. Tỷ lệ % này
do chính quyền cơ sở quyết định có tính đến số phụ nữ sẽ sinh đẻ, các quyền lợi về thai sản,
các chi phí về thai sản. Tổng số đóng góp không vượt quá 1% quỹ lương. Người lao động
không phải đóng Bảo hiểm thai sản. Phụ cấp thai sản trong thời gian nghỉ được tính toán dựa
trên mức lương trung bình trong xí nghiệp vào năm trước đó và được lấy từ quỹ Bảo hiểm
thai sản để trả cho người lao động.
Tóm lại, do xuất phát từ điều kiện hinh tế- xã hội của mỗi quốc gia mà những quy
định cụ thể về các chế độ BHXH dành cho lao động nữ có khác nhau. Song có thể khẳng định
rằng, hầu hết các quốc gia trên thế giới trong hệ thống Pháp luật BHXH của mình luôn dành
một vị trí quan trọng cho các quy định về BHXH dành riêng cho lao động nữ, tạo điều kiện
thuận lợi cho họ thực hiện tốt thiên chức của mình, đồng thời phát huy hết năng lực trong các
quan hệ lao động, góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội.


hoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BHXH ĐỐI VỚI
LAO ĐỘNG NỮ
Là người lao động nên khi tham gia BHXH, lao động nữ cũng sẽ được hưởng
tất cả các chế độ BHXH, gồm: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất như những lao động
khác khi có các điều kiện BHXH phát sinh.Tuy nhiên, trong phạm vi khoá luận này, chỉ xin đề
cập đến những chế độ BHXH mang tính đặc thù có những quy định riêng đối với lao động nữ.
Đó là: chế độ nghỉ để chăm sóc con ốm, chế độ bảo hiểm thai sản, chế độ hưu trí.

2.1. CHẾ ĐỘ NGHỈ ĐỂ CHĂM SÓC CON ỐM:
Đây là một trong những quyền lợi của người lao động nữ được quy định trong chế độ

BHXH ốm đau. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, lao động nữ tham gia
BHXH khi phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau, được bảo hiểm khi đủ các điều kiện sau:
- Có con (con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật công nhận)
dưới 7 tuổi bị ốm đau;
- Người lao động phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận của tổ chức y tế
có thẩm quyền.
Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia BHXH thì chỉ một người được hưởng bảo
hiểm. Riêng đối với lao động nữ, nếu nhờ người khác chăm sóc con mà bản thân tiếp tục đi
làm thì vẫn thuộc đối tượng được bảo hiểm.


hoá luận tốt nghiệp
Thời gian nghỉ chăm sóc con ốm được hưởng trợ cấp tối đa trong một năm phụ thuộc
vào độ tuổi của đứa trẻ bị ốm. Cụ thể: 20 ngày/ năm nếu con dưới 3 tuổi và tối đa 15 ngày/
năm nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi.
Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia BHXH nếu một người đã hết thời hạn hưởng
chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế độ trong khoảng thời gian trên.
Mức trợ cấp bảo hiểm khi nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau bằng 75% mức tiền
lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của người lao động trước khi nghỉ việc.
Việc cho phép lao động nữ được nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau và hưởng BHXH là
hoàn toàn hợp lý, phù hợp với thực tế và thiên chức làm mẹ của lao động nữ. Trong khoảng
thời gian từ 3 đến 7 tuổi trẻ em không thể tránh khỏi những lúc ốm đau, bệnh tật và trong
trường hợp đó người mẹ phải nghỉ việc để chăm sóc là điều tất yếu. Thời gian nghỉ việc này
cũng không thể buộc người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm thu
nhập cho người lao động. Trách nhiệm đó chỉ có thể thuộc về BHXH.
So với quy định trong Điều lệ Bảo hiể m xã hội năm 1995 (Ban hành kèm theo Nghị định
số 12/ CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ) thì Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có một số
điểm mới khi quy định về vấn đề này:
Trước hết, về điều kiện để hưởng trợ cấp khi lao động nữ nghỉ để chăm sóc con ốm,
Điều lệ BHXH ban hành kèm Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 quy định hai điều kiện:

- Có con thứ nhất, thứ hai dưới 7 tuổi bị ốm đau
- Có sự xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về việc người lao động phải nghỉ để
chăm sóc con.
Như vậy, người lao động có con thứ nhất, thứ hai dưới 7 tuổi bị ốm thì nghỉ chăm sóc
mới được hưởng trợ cấp. Điều này có nghĩa là lao động nữ có nhiều hơn hai con thì từ đứa thứ
ba trở đi, dù dưới 7 tuổi nhưng khi con bị ốm phải nghỉ để chăm sóc thì sẽ không được hưởng
trợ cấp. Quy định này là không hợp lý, bởi lẽ mỗi đứa trẻ đều có quyền được hưởng sự chăm
sóc của gia đình và xã hội. Mặt khác, trước đây, khi thực hiện chính sách dân số KHHGĐ, để
kìm hãm tốc độ gia tăng dân số, Nhà nước buộc phải lồng ghép chính sách dân số vào chính
sách bảo hiểm. Việc quy định như trên đã có tác dụng tích cực trong việc ổn định dân số trong
một thời gian dài. Nhưng nếu nhìn nhận nó dưới góc độ BHXH thì e rằng nó đã làm giảm đi ý
nghĩa của BHXH. Hơn nữa, Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 đã quy định, lao động nữ khi
sinh con, không phân biệt số lần sinh đều được hưởng trợ cấp thai sản. Điều đó có nghĩa là họ
có thể sinh từ hai con trở lên. Do đó, lao động nữ phải được hưởng trợ cấp khi nghỉ chăm sóc
con ốm dù là con thứ ba hay thứ tư... nếu đủ điều kiện đã quy định. Điều này đã được Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2006 sửa đổi: chỉ cần có con dưới 7 tuổi ốm đau, không phân biệt bao
nhiêu con và con thứ mấy.
Thứ hai, trong chế độ ốm đau, Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 quy định bao gồm
cả chế độ bảo hiểm đối với lao động nữ khi thực hiện các biện pháp KHHGĐ. Thiết nghĩ, việc
để chế độ trợ cấp khi lao động nữ thực hiện các biện pháp KHHGĐ nằm trong chế độ trợ cấp
ốm đau là không hợp lý. Bởi lẽ, ốm đau là hiện tượng tự nhiên xảy ra một cách khách quan
đối với mỗi người. Còn việc thực hiện các biện pháp KHHGĐ lại nằm trong tầm kiểm soát
của con người. Do vậy, đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau cần quy định ở những chế độ
khác nhau. Trong khi đó, chế độ trợ cấp khi lao động nữ thực hiện các biện pháp KHHGĐ lại
rất gần với chế độ trợ cấp thai sản, chế độ đặc trưng áp dụng với lao động nữ. Vì vậy, Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã tách chế độ bảo hiểm đối với lao động nữ khi thực hiện các
biện pháp KHHGĐ ra khỏi chế độ ốm đau và đưa những quy định về chế độ này sang chế độ
bảo hiểm thai sản.
Về cơ bản, những sửa đổi và quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 về chế
độ nghỉ để chăm sóc con ốm là hợp lý. Song thực tiễn thực thi các quy định này trong thời

gian qua gặp phải một số bất cập, vướng mắc. Cụ thể:
Thứ nhất, theo quy định tại Khoản 2 Điều 22 Luật Bảo hiểm xã hội quy định điều


hoá luận tốt nghiệp
kiện để người lao động nghỉ chăm sóc con là có xác nhận của cơ sở y tế. Quy định này trên
thực tế chỉ áp dụng cho những trường hợp trẻ bị ốm nặng phải điều trị nội trú tại các cơ sở y
tế, những trường hợp trẻ bị ốm dịch, ốm nhẹ, điều trị tại nhà thông thường người mẹ nghỉ
không được hưởng chế độ bảo hiểm. Việc quy định quá chặt chẽ này cũng gây khá nhiều khó
khăn cho lao động nữ, nhất là các trường hợp con họ thường xuyên ốm vặt. Trong các gia
đình Việt Nam hiện nay, khi trẻ em ốm đau thông thường người phụ nữ phải nghỉ việc để
chăm sóc con nên ảnh hưởng rất lớn đến thời gian làm việc của họ tại các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp. Đây là lý do một số người sử dụng lao động không muốn nhận lao động nữ và
cũng là nguyên nhân làm cho phụ nữ không có thời gian học tập, phấn đấu chưa kể đến việc
lao động nữ làm việc hưởng lương theo thời gian, theo sản phẩm...bị giảm thu nhập. Điều này
đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tính toán thêm về điều kiện “ có xác nhận của cơ sở y tế”,
vì các quy định về thời gian nghỉ trong một năm theo độ tuổi của trẻ em (Khoản 1- Điều 24)
đã đủ để giảm thiểu các trường hợp lợi dụng sự “thông thoáng” của quy định này.
Thứ hai, khoảng thời gian Pháp luật cho phép lao động nữ nghỉ việc để chăm sóc con
là 15 hay 20 ngày trong một năm (tuỳ thuộc vào độ tuổi của con) nhìn chung là phù hợp với
thực tế. Tuy nhiên, khoảng thời gian này sẽ chỉ phù hợp trong trường hợp ốm đau thông
thường. Còn đối với những trường hợp trẻ em bị mắc các bệnh cần điều trị dài ngày thì
khoảng thời gian này là quá ngắn ngủi (bệnh tim,bệnh lao phổi...).
Thứ ba, về mức trợ cấp, BHXH đã phân theo hai loại lao động. Nếu lao động thuộc
lực lượng vũ trang thì mức trợ cấp bằng 100% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc. Còn đối với lao động không thuộc lực lượng vũ trang thì mức trợ cấp là
75%. Xét từ bản chất của BHXH ta sẽ thấy quy định như thế cũng là chưa hợ p lý. Khi có con
ốm, lao động nữ đều phải nghỉ để chăm sóc con và như thế đều ảnh hưởng tới thu nhập của họ
không kể họ thuộc lực lượng vũ trang hay không. Trách nhiệm của BHXH là bù đắp phần thu
nhập bị mất hoặc bị giảm của người lao động khi gặp rủi ro không phụ thuộc vào việc họ làm

việc ở ngành nghề, lĩnh vực nào. Hơn nữa, nếu xét ở mức độ quan trọng của hệ thống ngành
nghề thì những người trong lực lượng vũ trang đã hưởng lương cao hơn so với những người
có cùng trình độ ở bên ngoài dân sự. Nếu có ưu đãi đối với đối tượng này thì ở chế độ tiền
lương chứ không phải ở chế độ BHXH. Vậy nên chăng cần có sự thống nhất trong việc quy
định mức hưởng trợ cấp đối với lao động nữ trong mọi ngành nghề khi nghỉ để chăm sóc con
ốm ?.

2.2. CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM THAI SẢN
Chế độ bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao động nữ nói chung,
vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao
động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Trong các quy định riêng về BHXH đối với lao động
nữ, bảo hiểm thai sản được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù, nhằm đảm bảo thu nhập và sức
khoẻ cho lao động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nuôi.

2.2.1. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ khám thai
Tại Điều 29- Luật BHXH năm 2006 quy định: Lao động nữ có tham gia BHXH mà có
thai thì trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám thai 5 lần, mỗi lần một ngày.
Trong trường hợp lao động có thai làm việc ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý
hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi đi khám thai tính theo ngày làm việc
không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.


hoá luận tốt nghiệp
Mức trợ cấp bằng 100% mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của 6 tháng liền
kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp người lao động đóng BHXH chưa đủ 6 tháng thì mức
hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công tháng của các tháng đã đóng BHXH.
Mang thai là thời kỳ rất quan trọng và đầy rủi ro trong chức năng làm mẹ của người
phụ nữ, vì thế khi có thai cần đến cơ sở y tế để khám thai.Số lần khám thai được căn cứ vào
quá trình phát triển của thai nhi. Khám thai đầy đủ, đúng định kỳ sẽ giúp người phụ nữ thực

hiện chức năng làm mẹ an toàn. Chính vì vậy, việc quy định số lần khám thai cũng là vấn đề
cần phải được cân nhắc sao cho đảm bảo được mục đích bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho
người mẹ cũng như thai nhi.
So với quy định của Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 thì pháp luật hiện hành có một
số điểm khác khi quy định về chế độ bảo hiểm khi lao động nữ khám thai. Trước hết, là việc
quy định về số lần khám thai. Tại Điều 11 - Điều lệ Bảo hiểm x ã hội năm 1995 quy định số
lần được nghỉ việc để khám thai là 3 lần, mỗi lần 1 ngày. Với việc quy định số lần nghỉ để
khám thai như vậy là quá ít và không thuận lợi cho việc theo dõi tình hình phát triển của thai
nhi. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì trong một thai kỳ, người mẹ cần phải được khám thai tối
thiểu 5 lần. Điều này đã được sửa đổi trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, tại Điều 29nâng số lần người lao động được nghỉ việc để đi khám thai lên là 5 lần, mỗi lần 1 ngày.Mặt
khác, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có điểm tiến bộ hơn đó là: quy định thời gian nghỉ việc
hưởng chế độ thai sản tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hàng tuần- điều mà Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 không nhắc đến. Quy định này đã góp
phần hạn chế được sự chuyên quyền của chủ sử dụng lao động, nhiều khi do yêu cầu công
việc mà không đảm bảo đúng thời gian khám thai định kỳ cho lao động nữ.
Tuy nhiên, Pháp luật hiện hành quy định thời gian nghỉ việc cho mỗi lần khám thai là 1
ngày, trường hợp lao động nữ làm việc ở xa tổ chức y tế hoặc mang thai có bệnh lý, thai
không bình thường thì được nghỉ việc 2 ngày cho mỗi lần khám thai là quá ngắn. Nó chỉ phù
hợp với thai nhi bình thường, còn đối với những trường hợp mang thai bệnh lý thì số ngày
nghỉ cần phải tăng lên.

2.2.2 Chế độ bảo hiểm khi bị sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu
Sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu dù do nguyên nhân nào, khách quan hay chủ
quan đều gây hại rất lớn cho sức khoẻ cũng như ảnh hưởng tới tinh thần của người phụ nữ. Do
vậy họ cần phải có thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức khoẻ và vượt qua nỗi đau về tinh thần
này.
Pháp luật hiện hành quy định: khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì lao


hoá luận tốt nghiệp

động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu thai
từ 1 tháng đến dưới 3 tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến dưới 6 tháng; 50 ngày nếu thai từ
6 tháng trở lên.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hàng tuần.
Mức trợ cấp bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của
6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp người lao động đóng BHXH chưa đủ 6 tháng
thì mức hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công tháng của các tháng đã đóng BHXH.
Trước đây, trong Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995, thời gian nghỉ vì bị sẩy thai
được quy định ngắn hơn và chỉ phân chia hai mức thời gian cho tuổi thai dưới 3 tháng và từ đủ
3 tháng trở lên. Cụ thể là 20 ngày nếu thai dưới 3 tháng và 30 ngày nếu thai từ 3 tháng trở lên.
Điều đó đã ảnh hưởng không ít tới sức khoẻ của lao động nữ, vì thế không bảo vệ đúng mức
quyền lợi của họ. Quy định hiện nay của pháp luật phù hợp hơn trong việc bảo vệ sức khoẻ
cho lao động nữ khi bị rủi ro trong quá trình mang thai. Với thời gian nghỉ dài hơn cho mỗi
trường hợp như vậy sẽ bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ tốt hơn.
Mặt khác, pháp luật trước đây quy định thời gian nghỉ cho hai trường hợp sẩy thai và
nạo thai quy định trong hai chế độ thai sản và ốm đau là chưa hợp lý. Bởi cả hai trường hợp
sẩy thai và nạo thai dù trong ý muốn hay ngoài ý muốn của lao động nữ thì đều ảnh hưởng rất
lớn tới sức khoẻ cũng như tinh thần của họ. Vì thế, trong cả hai trường hợp này, lao động nữ
đều được hưởng quyền lợi như nhau từ chế độ thai sản. Pháp luật hiện hành đã khắc phục
được bất cập của quy định trước đây bằng cách đưa trường hợp nạo thai sang chế độ thai sản.
Tuy nhiên có một điểm yếu của pháp luật hiện hành cần được khắc phục đó là: mặc dù văn bản
pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể về số ngày nghỉ cho từng trường hợp, nhưng không
làm rõ được số ngày nghỉ trên được tính từ ngày nào.

2.2.3. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ sinh con
Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện thời gian đóng BHXH để được hưởng chế
độ này đó là: phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh
con. Đây là điểm mới của pháp luật hiện hành, khác với quy định trước đây cụ thể tại Thông
tư 06/ LĐTBXH- TT ngày 04/04/1995: lao động nữ chỉ được hưởng trợ cấp khi sinh con thứ

nhất, thứ hai- tức khống chế số lần sinh con được hưởng bảo hiểm thai sản. Quy định này còn
xen lẫn cả chính sách dân số KHHGĐ, dưới góc độ nào đó đã làm mất đi bản chất của BHXH
và hiện nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã không còn phù hợp nữa.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã không khống chế số lần sinh con được hưởng bảo


hoá luận tốt nghiệp
hiểm thai sản mà quy định điều kiện thời gian tham gia đóng BHXH. Pháp luật của hầu hết
các nước đều đã từ lâu quy định cụ thể về điều kiện thời gian đóng BHXH trước khi hưởng
chế độ thai sản nhằm tránh tình trạng lạm dụng quỹ BHXH. Chẳng hạn Pháp luật BHXH của
Thái Lan quy định phải có 7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh. Singapore quy
định ít nhất phải có 6 tháng làm việc, Nhật Bản là 12 tháng làm việc... Việc pháp luật hiện
hành quy định thêm điều kiện về thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ là quy định
tiến bộ, đã không chỉ chú trọng đến việc trợ giúp người lao động khi nghỉ việc thực hiện thiên
chức mà còn chú trọng đến sự bảo toàn và phát triển về tài chính của Quỹ BHXH. Là một chế
độ trợ cấp BHXH, trợ cấp thai sản vẫn phải đảm bảo nguyên tắc trên cơ sở đóng góp của
chính người lao động.
Về thời gian nghỉ việc trước và sau khi sinh đối với lao động nữ, Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2006 quy định như sau:
-

4 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường;

-

5 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc

danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành; làm việc theo chế
độ ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên hoặc là nữ quân
nhân, nữ công an nhân dân;

-

6 tháng, đối với lao động nữ là người tàn tật theo quy định của pháp luật về

người tàn tật.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định, nếu sinh đôi trở lên tính từ con thứ hai trở đi, cứ
mỗi con người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Trong trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới
60 ngày tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh con; nếu con từ 60 ngày
tuổi trở lên bị chết thì được nghỉ việc 30 ngày tính từ ngày con chết nhưng không vượt quá
thời gian nghỉ sinh con theo quy định chung là 4, 5, 6 tháng và không tính vào thời gian nghỉ
việc riêng hàng năm theo quy định của pháp luật về lao động.
Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia
BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con, thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế
độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Thời gian hưởng chế độ thai sản khi lao động nữ
sinh con tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Hết thời hạn nghỉ việc sinh con theo những quy định này, nếu có nhu cầu thì người mẹ
có thể nghỉ thêm với điều kiện được người sử dụng lao động đồng ý nhưng không được
hưởng trợ cấp BHXH. Trường hợp lao động nữ muốn đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh
con theo quy định thì phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý nếu đã nghỉ
được từ đủ 60 ngày trở lên tính từ khi sinh con và phải có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi


hoá luận tốt nghiệp
làm sớm không có hại cho sức khoẻ. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương, tiền công lao
động nữ vẫn được hưởng trợ cấp thai sản cho đến hết thời gian nghỉ theo quy định của pháp
luật.
Như vậy, thời gian nghỉ khi sinh con không chỉ tuỳ thuộc và điều kiện lao động, môi
trường sống mà còn tuỳ thuộc vào tình trạng thể chất và số con một lần sinh; con còn sống
hay con đã chết và đặc biệt, để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, pháp luật còn quy
định thời gian nghỉ theo thoả thuận. Những quy định mở rộng đó đã đáp ứng được thực tế đời

sống cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nữ vừa bảo đảm sức khoẻ đồng thời vẫn
bảo đảm được việc làm, thu nhập cũng như cơ hội khác.
So với các quy định của luật cũ liên quan đến thời gian nghỉ trước và sau khi sinh,
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã sửa đổi một số quy định cho phù hợp hơn với tình hình
thực tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về mức thời gian nghỉ tối đa theo pháp luật trước đây trong một số trường
hợp là quá dài (6 tháng đối với người làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 1; người làm
nghề hoặc công việc đặc biệt theo danh mục do Bộ Lao động Thương binh và X ã hội ban
hành). Mặc dù, theo đánh giá của các chuyên gia của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thì
thời gian nghỉ việc để hưởng trợ cấp thai sản như quy định cũ ở nước ta là khá ưu đ ãi đối với
lao động nữ so với một số nước trong khu vực như: ở Trung Quốc thời gian nghỉ là 90 ngày; ở
Nhật Bản là 42 ngày trước khi sinh con ( 98 ngày trong trường hợp sinh nhiều con) và 56
ngày sau khi sinh; ở Thái Lan là 90 ngày… Song quy định như vậy sẽ không hài hoà được lợi
ích giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, sẽ ảnh hưởng đến lao động nữ ở khía cạnh về khả năng cạnh tranh việc làm với lao động
nam, cũng như ảnh hưởng đến người sử dụng lao động về khía cạnh thực hiện sản xuất kinh
doanh. Bởi lẽ, đối với người sử dụng lao động thì phần đông không muốn thay đổi các vị trí
công việc của người lao động trong một thời gian quá dài, nhất là đối với các doanh nghiệp
sản xuất theo dây chuyền vì điều này không chỉ ảnh hưởng tới kỹ năng thao tác của người lao
động mà còn ảnh hưởng tới vấn đề bảo đảm việc làm, bảo đảm tiến độ công việc của doang
nghiệp. Do đó, thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ nếu quá dài thì sẽ tạo tâm lý ngại
tuyển dụng lao động nữ vào làm việc trong các doanh nghiệp.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã rút ngắn thời gian nghỉ tối đa từ 6 tháng xuống còn
5 tháng (chỉ áp dụng nghỉ 6 tháng cho nữ lao động tàn tật) và giữ nguyên mức nghỉ tối thiểu 4
tháng như trước đây. Quy định này đã tạo ra sự cân bằng hơn về lợi ích giữa người lao động
và người sử dụng lao động, đồng thời vẫn đảm bảo được sức khoẻ để lao động nữ thực hiện
tốt thiên chức của mình. Ngoài ra, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã bổ sung thêm đối tượng


hoá luận tốt nghiệp

lao động nữ là người tàn tật được hưởng chế độ bảo hiểm khi sinh con với mức thời gian nghỉ
là 6 tháng. Quy định này rất phù hợp với thực tiễn bởi việc quy định nhóm đối tượng được
nghỉ hưởng bảo hiểm khi sinh con hiện nay không chỉ dựa vào điều kiện lao động, môi trường
sống, tính chất công việc… mà còn căn cứ vào đặc điểm đặc thù của một số loại lao động do
mức suy giảm khả năng lao động hoặc lý do nào đó họ cần được nghỉ ngơi nhiều hơn mới
phục hồi được sức khoẻ và chăm sóc tốt con sơ sinh.
Thứ hai, về thời gian nghỉ cho trường hợp sau khi sinh mà con bị chết, pháp luật hiện
hành quy định lượng thời gian nghỉ dài hơn cho lao động nữ. Tại Khoản 2 - Điều 12, Điều lệ
Bảo hiểm xã hội năm 1995 quy định: “ trong trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 60
ngày tuổi bị chết (kể cả trường hợp đẻ thai chết lưu) thì người mẹ được nghỉ 75 ngày tính từ
ngày sinh, nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên bị chết thì được nghỉ 15 ngày từ khi con chết nhưng
không vượt quá thời gian quy định tại Khoản 1 Điều này”. Trong khi đó, tại Khoản 2- Điều 31
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định, lao động nữ được nghỉ 90 ngày tính từ ngày sinh
con nếu con chết dưới 60 ngày tuổi và 30 ngày tính từ khi con chết nếu con từ 60 ngày tuổi
trở lên, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian nghỉ sinh
con theo quy định chung là 4, 5, 6 tháng. Như vậy lao động nữ sẽ được nghỉ dài hơn 15 ngày
so với pháp luật trước đây trong trường hợp con chết sau khi sinh. Thiết nghĩ đây là một quy
định hợp lý, bởi lẽ, sau khi sinh mà con bị chết sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, tình cảm của
người mẹ. Họ rất cần có thời gian để phục hồi sức khoẻ cũng như có thời gian để xoa dịu nỗi
đau về tinh thần để có thể trở lại làm việc bình thường.
Thứ ba, tại Khoản 3 -Điều 31- Luật Bảo hiểm xã hội quy định: “ Trường hợp chỉ có
cha hoặc mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh
con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4
tháng tuổi”. Có thể nói, qua thời gian rất dài, trong các quy định về chế độ thai sản, chưa có
thời kỳ nào pháp luật đề cập đến vấn đề này. Vì vậy đây là quy định mới trong Luật Bảo hiểm
xã hội, đã rất phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta, đảm bảo cho trẻ sơ sinh được hưởng
quyền chăm sóc, nuôi dưỡng kể cả trong trường hợp người mẹ gặp rủi ro.
Tuy nhiên, quy định này còn có điểm chưa hợp lý, không bảo đảm được quyền lợi cho
đứa trẻ và nam giới (cha đứa trẻ hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng) cũng như nguyên tắc và
mục tiêu bình đẳng giới.

Người mẹ hưởng bảo hiểm sau khi sinh con hoặc người bố (có thể là người thân khác)
hưởng chế độ sau khi sinh do người mẹ chết là đương nhiên, nhưng cũng cần tính đến khía
cạnh bảo đảm quyền được chăm sóc con của người bố trong những trường hợp bình thường.
Trong quá trình xây dựng Luật bình đẳng giới, tỷ lệ ý kiến ủng hộ việc pháp luật quy định cho


hoá luận tốt nghiệp
người cha nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm để chăm sóc con sơ sinh là khá cao, l ý do cơ bản và
sâu xa chính là việc nam giới cũng đóng BHXH thông qua người sử dụng lao động với tỷ lệ
% như phụ nữ. Do vậy quy định này cần được tách ra rõ ràng hai trường hợp: bình thường và
rủi ro mẹ. Trong trường hợp bình thường cũng cần phân ra hai trường hợp là cả cha và mẹ
cùng đóng bảo hiểm và trường hợp chỉ có một bên đóng bảo hiểm. Nếu chỉ có người cha đóng
bảo hiểm thì cũng nên quy định cho người cha được hưởng chế độ bảo hiểm về thai sản. Pháp
luật của một số nước trên Thế giới cũng quy định người chồng nghỉ việc hưởng chế độ bảo
hiểm thai sản trong hai tuần đầu khi người vợ sinh là hoàn toàn chính đáng. Thiết nghĩ, nước
ta cần phải bổ sung quy định này đặc biệt trong điều kiện kinh tế- xã hội hiên nay, khi quy mô
gia đình ít con (một đến hai con) và nhu cầu được chăm sóc khi sinh của người vợ là rất lớn.
Thực tế trong hai tuần đầu khi sinh, sản phụ chưa thể phục hồi sức khoẻ nên chưa thể phục vụ
được các sinh hoạt của bản thân và đứa trẻ. Họ rất cần sự trợ giúp và chăm sóc của người
chồng. Điều này sẽ tạo ra sự phù hợp với quy định tại Điểm g - Khoản 2- Điều 32, Luật Bình
đẳng giới “ Tạo điều kiện cho lao động nam nghỉ hưởng nguyên lương và phụ cấp khi vợ sinh
con”.
Thứ tư, về mức trợ cấp một lần khi sinh con. Trợ cấp một lần là khoản trợ cấp mà quỹ
BHXH trả cho người mẹ khi sinh con cùng với khoản trợ cấp thay lương. Khoản trợ cấp này
giúp người lao động nữ có điều kiện mua sắm những vật dụng cần thiết để chăm sóc con nhỏ
và bù đắp phần nào chi phí tăng thêm cho nhu cầu về dinh dưỡng của người mẹ sau khi sinh.
Điều 14 - Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 quy định mức trợ cấp một lần bằng một tháng
lương làm căn cứ đóng BHXH của tháng liền kề. Quy định này không hợp lý và đã tạo ra sự
phân biệt không nên có. Bởi lẽ, nhu cầu của người mẹ nào sau khi sinh cũng giống nhau,
không phải tiền lương ít thì nhu cầu ít, do vậy hưởng ít, tiền lương nhiều thì nhu cầu nhiều, do

vậy hưởng nhiều. Mặt khác, khi sinh con, chi phí tăng lên đột xuất nên khoản trợ cấp như trên
là quá thấp. Khắc phục hạn chế này, Luật Bảo hiểm xã hội đã quy định mức trợ cấp một lần
bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con - việc sửa đổi này là hợp lý và cần thiết.

2.2.4. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ nhận nuôi con nuôi
Theo quy định của pháp luật hiện hành, điều kiện về thời gian đóng BHXH để được
hưởng chế độ bảo hiểm khi nhận nuôi con nuôi giống với trường hợp khi lao động nữ sinh
con đó là: đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi nhận nuôi con nuôi.
Thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi: người lao động nhận nuôi con nuôi
dưới 4 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
Về mức hưởng: bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH


hoá luận tốt nghiệp
của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Ngoài ra, người lao động khi nhận nuôi con nuôi dưới
4 tháng tuổi còn được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con.
Trước đây, tại Điều 13 - Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 cũng quy định người lao
động sẽ được nghỉ 4 tháng hưởng BHXH để chăm sóc con nuôi sơ sinh. Tuy nhiên quy định
này chỉ áp dụng cho trường hợp nhận nuôi một con nuôi, trường hợp nhận nuôi từ hai trẻ sơ
sinh trở lên thì mức hưởng trợ cấp vẫn giữ nguyên. Như vậy, pháp luật trước đây đã khống
chế số con nuôi sơ sinh, điều này không phù hợp với thực tế, không đảm bảo quyền được làm
cha mẹ của người lao động. Luật Bảo hiểm xã hội không còn khống chế số con nuôi sơ sinh.
Điều này cũng bảo đảm hơn sự công bằng không phân biệt con đẻ con nuôi, thể hiện sự phù
hợp và thống nhất với các pháp luật khác.
Ngoài ra, về khoản trợ cấp một lần khi nhận nuôi con nuôi; pháp luật trước đây không
có quy định về vấn đề này. Khoản trợ cấp một lần chỉ dành cho lao động nữ sau khi sinh. Điều
này là không hợp lý, bởi lẽ, nhận nuôi con nuôi sơ sinh, người nhận cũng phải chăm sóc con
nhỏ trong quá trình đó phát sinh nhiều nhu cầu mới và nhu cầu tăng thêm của người lao động.
Do vậy, họ cũng cần một khoản trợ cấp tương tự. Vì vậy, Luật Bảo hiểm xã hội cũng đã quy
định người lao động nhận nuôi con nuôi được hưởng trợ cấp một lần bằng hai tháng lương tối

thiểu chung cho mỗi con.

2.2.5. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ thực hiện các biện pháp tránh thai
Theo Điều 33 - Luật Bảo hiểm xã hội, thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện
pháp tránh thai như sau:
-

Khi đặt vòng tránh thai người lao động được nghỉ việc 7 ngày;

-

Khi thực hiện biện pháp triệt sản người lao động được nghỉ việc 15 ngày

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho các trường hợp trên tính cả ngày nghỉ
lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Mức trợ cấp bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của 6
tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp, người lao động đóng BHXH chưa đủ 6 tháng
thì mức hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công của các tháng đã đóng BHXH.
Trước đây, các biện pháp như đặt vòng tránh thai, hút điều hoà kinh nguyệt, triệt sản
được tính để hưởng chế độ ốm đau. Quy định như vậy là chưa hợp lý, vì về bản chất những
biện pháp này đều thuộc diện thai sản, đều ảnh hưởng đến tâm sinh lý và chức năng sinh sản
của người lao động. Hơn nữa, mức hưởng chế độ ốm đau lại thấp hơn so với mức hưởng chế
độ thai sản. Vì thế, pháp luật về BHXH hiện hành chuyển những biện pháp này sang chế độ
thai sản để đảm bảo hơn sự công bằng về quyền lợi cho người lao động là phù hợp.


hoá luận tốt nghiệp

2.2.6. Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản
Ngoài các chế độ trợ cấp thai sản ở trên, theo quy định tại Điều 37 Luật Bảo hiểm x ã

hội, những lao động nữ chưa phục hồi sức khoẻ sau thời gian hưởng chế độ khi bị sảy thai,
nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, sinh con thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ. Thời
gian nghỉ từ 5 đến 10 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần,
ngày đi và về nếu nghỉ tại cơ sở tập trung. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho
mỗi lao động nữ do người sử dụng lao động và Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban
chấp hành công đoàn lâm thời quyết định, cụ thể như sau:
-

Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ 2 con trở lên;

-

Tối đa 7 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;

Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu
chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tai gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu
chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ tại cơ sở tập trung, mức hưởng này tính cả tiền
đi lại, tiền ăn và ở.
Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ được quy định như hiện nay đã được điều
chỉnh linh hoạt hơn theo mức lương tối thiểu chung chứ không theo mức tiền cố định như
trước kia. Trước đây, tại Nghị định số 01/NĐ- CP ngày 09/01/2003 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội, quy định: mức chi phí nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức
khoẻ là 50.000 đồng/ngày nếu lao động nữ nghỉ chăm sóc sức khoẻ tại nhà; 80.000 đồng/ngày
nếu lao động nữ chăm sóc sức khoẻ tại trung tâm điều dưỡng. Quy định hiện hành đã tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho quá trình giải quyết chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho
người lao động.
Nhìn chung, sau hai năm đưa vào thực tiễn thi hành, Luật Bảo hiểm xã hội nói chung,
phần quy định về chế độ bảo hiểm ngắn hạn đối với lao động nữ (chế độ ốm đau, chế độ thai
sản) nói riêng đã phát huy tác dụng tích cực, số người tham gia BHXH bắt buộc ngày càng
tăng và việc chi trả bảo hiểm được thực hiện kịp thời và đúng nguyên tắc. Tính đến cuối năm

2008 cả nước có 8.527 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm gần 70% số người lao
động thuộc diện tham gia bắt buộc,1 (trước khi Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 ban hành,
trong giai đoạn từ 1995- 2005 số người tham gia BHXH tăng từ 2,8 triệu người năm 1995 lên
7 triệu người năm 2005) 2
Về việc thực hiện chế độ BHXH, cuối năm 2008 đã giải quyết trên 117.700 người
1,3 Báo cáo tạiHội thảo đánh giá tình hình thực hiện Luật BHXH trong 2 năm 2007,2008 diễn ra ngày 5-6/3/2009
2 T.S Nguyễn Huy Ban – website báo Nhân dân (www.nhandan.vn) ngày 04/03/2005
4
Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Mười năm xây dựng và phát triển - Tạp chí Bảo hiểm xã hội T4.2005, trang11


hoá luận tốt nghiệp
hưởng BHXH hàng tháng, trong đó giải quyết chế độ ngắn hạn cho 2,5 triệu lượt người hưởng
chế độ ốm đau, gần 600.000 lượt người hưởng chế độ thai sản, khoảng 500.000 lượt người
hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ, 1 (trước khi Luật Bảo hiểm xã hội ban hành,
trong giai đoạn từ 1995- 2005 giải quyết được 1,3 triệu lượt người hưởng trợ cấp về thai sản).2
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, Luật Bảo hiểm xã hội còn một số quy định
chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy cần phải xem xét, khắc phục, sửa đổi trong thời gian tới.

2.3. CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ
Đây là một trong những chế độ mà người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng
hết sức quan tâm khi tham gia quan hệ BHXH. Bởi vai trò to lớn của BHHT là bù đắp về thu
nhập, đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ bị mất thu nhập từ lao động nghề
nghiệp do hết tuổi lao động, về nghỉ hưu an dưỡng. Tiền lương sẽ là khoản thu nhập chủ yếu
và là chỗ dựa chính nhằm đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động
trong quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Những người về hưu sẽ cảm thấy yên tâm
trong cuộc sống khi họ được hưởng lương hưu, không bị mặc cảm là gánh nặng x ã hội. Đây
chính là mục đích, động lực cơ bản để người lao động tham gia quan hệ BHXH.

2.3.1. Chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc

a. Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng:
Điều kiện hưởng chế độ BHHT hàng tháng của lao động nữ:
Theo quy định tại Điều 50,51- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006: lao động nữ được
hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ khi có một trong các điều kiện sau:
-

Đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên;

-

Từ đủ 50 tuổi đến 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có

đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có
phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;
-

Từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó

có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;
1
2

Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp và có đủ 20 năm


hoá luận tốt nghiệp
đóng BHXH trở lên.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành còn quy định điều kiện hưởng BHHT hàng tháng đối với
nữ quân nhân, nữ công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với

nữ quân nhân, nữ công an nhân dân tại Nghị định 68/2007/NĐ-CP ngày 19/04/2007 như sau:
-

Đủ 50 tuổi và đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên

-

Từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi và đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, trong đó có

đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc năng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục nghề,
công việc do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15 năm
làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên.
Mặt khác, trong cuộc sống vì nhiều lý do khác nhau (như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao
động) làm lao động nữ bị suy giảm sức khoẻ, giảm khả năng lao động khiến họ khó có thể
tham gia được quan hệ lao động nữa, cần phải nghỉ việc trước tuổi. Do đó, pháp luật hiện
hành quy định trong những trường hợp này tuy chưa đủ tuổi về hưu nhưng nếu đảm bảo một
số điều kiện, lao động nữ vẫn được hưởng BHHT hàng tháng với mức thấp hơn so với những
người nghỉ hưu đúng tuổi. Cụ thể:
-

Đủ 45 tuổi có thời gian đóng BHXH từ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả

năng lao động từ 61% trở lên;
-

Đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên, có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt

nặng nhọc, đặc biệt độc hại theo danh mục do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và Bộ Y
tế ban hành,bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. Riêng trường hợp này không cần
thiết phải phụ thuộc vào tuổi đời.

Như vậy, so với Điều lệ Bảo hiểm xã hội năm 1995 thì Luật Bảo hiểm xã hội đã có
những sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn, thể hiện:
Thứ nhất, về điều kiện thời gian đóng bảo hiểm: Luật BHXH quy định thời gian đóng
BHXH tối thiểu để đủ điều kiện nghỉ hưu là 20 năm. Như vậy, đã có sự thay đổi đáng kể so
với quy định của Điều lệ bảo hiểm trước đây(đủ 15 năm đóng BHXH). Việc nâng cao số năm
đóng BHXH tối thiểu theo quy định của pháp luật hiện hành chủ yếu để đảm bảo cân bằng
Quỹ BHHT.
Thứ hai, điều kiện về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Pháp luật trước đây quy định cụ
thể về độ tuổi nghỉ hưu như sau: điều kiện chung để hưởng chế độ hưu trí là 55 tuổi. Tuổi
nghỉ hưu này được giảm xuống 5 tuổi trong các trường hợp lao động nữ đủ 15 năm làm việc ở
nơi có nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại; có đủ 15 năm làm việc tại nơi có phụ cấp khu
vực hệ số từ 0,7 trở lên; hoặc có đủ 15 năm công tác ở Miền Nam, ở Lào trước ngày
30/4/1975, ở Campuchia trước ngày 31/8/1989 đối với những người làm việc trong lực lượng


hoá luận tốt nghiệp
vũ trang. Trên tinh thần kế thừa các quy định cũ, pháp luật hiện hành đã có những quy định
linh hoạt hơn. Cụ thể: cho lao động nữ được lựa chọn tuổi nghỉ hưu “từ đủ 50 tuổi đến 55 tuổi
và có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hai, nguy hiểm…hoặc có đủ 15
năm làm việc ở nơi có hệ số khu vực từ 0,7 trở lên”. Điều đó có nghĩa là lao động nữ nếu có
nhu cầu về hưu sớm hơn so với tuổi chuẩn thì vẫn được giải quyết để hưởng hưu trí hàng
tháng bình thường. Tuy nhiên, nếu người lao động có nguyện vọng muốn làm việc, mặc dù họ
có đủ tiêu chuẩn để về hưu thì pháp luật vẫn cho phép họ lựa chọn mà không quy định cứng
nhắc. Điều này rất phù hợp với thực tế hiện nay khi mà tuổi thọ trung bình của nước ta ngày
càng tăng.
Thứ ba, pháp luật hiện hành có bổ sung thêm quy định mới, đó là đối tượng lao động
mới lần đầu tiên được Luật BHXH đề cập đến: người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro
nghề nghiệp và có đủ 20 năm đóng BHXH được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng. Đây là quy
định khá thông thoáng, nhằm bảo vệ người lao động trong những trường hợp họ gặp rủi ro khi
hoàn thành công vụ của mình. Những rủi ro này thường bất ngờ và xảy ra bất cứ lúc nào nên

quy định này không tính đến điều kiện tuổi đời là hoàn toàn hợp lý.
Nhìn chung, những quy định tại Điều 50- Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã kế thừa,
gìn giữ và phát huy truyền thống ưu đãi phụ nữ đã tồn tại lâu đời trong cộng đồng và được
Nhà nước thừa nhận, nó thể hiện ở việc quy định độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ được xét
giảm 5 tuổi so với nam giới. Đây cũng là một nguyên tắc của BHHT: nguyên tắc phân biệt
hợp lý chế độ hưởng BHHT giữa lao động nam và lao động nữ. Điều này xuất phát từ sự khác
biệt về yếu tố thể lực, quá trình lão hoá, tâm sinh lý…giữa lao động nam và lao động nữ. Thể
lực của lao động nữ thường kém hơn so với nam giới, đến một độ tuổi nhất định, họ khó có
thể thực hiện được công việc với năng suất bình thường cùng thời gian so với nam giới. Vì
vậy, lao động nữ cần được nghỉ hưu sớm hơn nam giới.
Tuy nhiên, bên cạnh nội dung đã đạt được nêu trên, Luật Bảo hiểm xã hội còn tồn tại
vấn đề giống như trong pháp luật cũ, đó là quy định tuổi nghỉ hưu cho lao động nữ c òn chưa
linh hoạt và việc phân biệt độ tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ chưa phù hợp
trong một số ngành nghề. Cụ thể:
Trước đây, vệc phân biệt tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ trong một
thời gian dài là tương đối phù hợp với điều kiện sinh hoạt và điều kiện lao động còn ở trình độ
thấp như nước ta, góp phần quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em. Nhưng
hiện nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ lao động đã từng bước được cải thiện, sự
phát triển về thể chất của người lao động ngày một tốt hơn, nhu cầu và khả năng làm việc của
người lao động nói chung cũng như của lao động nữ nói riêng tăng lên thì sự phân biệt này


×