Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.72 KB, 57 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D
LỜI MỞ ĐẦU

Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản, là nền tảng và động lực phát triển của
nền kinh tế thị trường. Có thể nói rằng không có cạnh tranh thì cũng không thể
có nền kinh tế thị trường. Cùng với quy luật cung cầu và quy luật giá trị, cạnh
tranh trở thành một quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường. Trong thời gian
qua, cùng với chính sách đổi mới, mọi thành phần kinh tế được khuyến khích và
tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia kinh doanh trong thị trường. Từ đó,
cạnh tranh ngày càng trở nên mạnh mẽ trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của nền
kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng
mức độ cạnh tranh, đã xuất hiện những hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, Quốc hội đã giao
nhiệm vụ cho Chính phủ xây dựng Luật Cạnh tranh nhằm điều tiết các hành vi cạnh
tranh, hạn chế và ngăn ngừa những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, duy trì môi
trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo các cơ hội cạnh tranh cho các doanh nghiệp,
sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Với mục đích muốn tìm hiểu một cách toàn diện và có hệ thống về lĩnh
vực pháp luật này, trong phạm vi khóa luận tốt nghiệp đại học, em đã chọn đề
tài: “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn.”
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh và
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở
Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn thi hành pháp luật chống cạnh tranh không lành


mạnh ở Việt Nam và một số kiến nghị.

Chương 1:


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH
VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH.

1.1.

Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh không lành mạnh

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh không lành mạnh
a. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Hiểu theo nghĩa chung “Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi
cạnh tranh đi ngược lại các nguyên tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh
doanh, xâm phạm lợi ích của các nhà kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu
dùng, lợi ích của xã hội”[12].
Trong quá trình xây dựng các chế định của pháp luật cạnh tranh, nhiều
quốc gia trên thế giới đã đưa ra các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, theo đó:
Luật Cạnh tranh Bungaria ban hành ngày 02/05/1991 tại Khoản 2 Điều
12, định nghĩa: “Cạnh tranh không bình đẳng là hành vi hoặc biểu hiện tiến
hành các hoạt động kinh tế trái với tiêu chuẩn thông thường về kinh doanh
trung thực, gây hại hoặc có thể gây hại tới những lợi ích của các đối thủ cạnh

tranh trong các mối quan hệ giữa họ với người tiêu dùng...”[9].
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Đức (1909), một trong
những đạo luật ra đời sớm nhất điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, tại Điều 1 đã khẳng định: “Người nào trong các giao dịch kinh doanh mà
thực hiện các hành vi trái với thuần phong mỹ tục, thì có thể bị yêu cầu chấm
dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại”. Luật cũng đã liệt kê những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh như: Quảng cáo so sánh, quảng cáo trái với thuần
phong mỹ tục, hành vi làm hàng nhái...[10].
Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa quy định: “Cạnh tranh không lành mạnh là hoạt động của doanh nghiệp
trái với quy định của luật này, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích chính đáng của
doanh nghiệp khác, làm rối loạn trật tự kinh tế - xã hội...”[11].
Như vậy, mặc dù chưa có khái niệm nào đầy đủ và bao quát nhất nhưng
qua tìm hiểu hệ thống pháp luật của một số quốc gia, chúng ta bước đầu đã hình
dung được “diện mạo” của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Bên cạnh hệ thống pháp luật của các quốc gia, những Điều ước quốc tế có
liên quan cũng đưa ra những cách hiểu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
trong đó phải kể đến Công ước Paris 1883 về Quyền sở hữu công nghiệp, một
trong những điều ước quốc tế sớm nhất có quy định về việc chống các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, tại Điều 10 Bis Công ước đã đưa ra khái niệm về
các hành vi này, theo đó: “Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh
tranh không trung thực, vi phạm những nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh
doanh, được tiến hành trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm hưởng
lợi bất hợp pháp từ thành quả kinh doanh của người khác hoặc gièm pha đối

thủ cạnh tranh, qua đó, giành giật khách hàng về phía mình...”[8].
Ở Việt Nam, trước khi Luật cạnh tranh 2004 ra đời đã có một số văn bản
pháp luật đề cập tới vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên không có một
văn bản nào đưa ra khái niệm về hành vi này. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra
quan điểm của mình về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên đều chưa
có tính thuyết phục. Mãi tới kỳ họp thứ V Quốc hội khóa XI khái niệm cạnh
tranh không lành mạnh mới được đưa ra trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các đại
biểu Quốc hội. [13. tr.17]. Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004:
“Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu
dùng”.
Như vậy, có thể thấy có nhiều quan điểm, nhiều cách định nghĩa khác nhau
về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, tất cả các khái niệm đó đều có
chung quan điểm đây là hành vi cạnh tranh không đẹp, vi phạm môi trường kinh
doanh lành mạnh và cần phải được ngăn chặn kịp thời để bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp khác và người tiêu dùng.
b. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Từ khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại
khoản 4 điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp, hiệp hội trong quá trình kinh doanh.
Đặc điểm này cho chúng ta nhận biết được chủ thể thực hiện hành vi cũng
như thời điểm thực hiện nó. Theo Điều 2 – Luật Cạnh tranh 2004 quy định về đối


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D


tượng áp dụng, có thể thấy đối tượng áp dụng của Luật này là các tổ chức, cá nhân
kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) và các hiệp hội ngành nghề hoạt động tại
Việt Nam, do đó chủ thể của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ có thể là các
doanh nghiệp, hiệp hội, còn các cá nhân khác cho dù có thực hiện những hành vi có
dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng không được coi là chủ thể
của hành vi này, không chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.
Mặt khác, các chủ thể này phải thực hiện hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận, còn các
hành vi nằm ngoài chức năng kinh doanh của chủ thể thì không được coi là hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải nhằm mục đích cạnh tranh.
Có thể thấy cạnh tranh là một vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Quy luật cạnh tranh cũng giống như những quy luật tồn
tại và đào thải của tự nhiên, nó luôn khẳng định chiến thắng thuộc về kẻ mạnh.
Do đó để thu được nhiều lợi nhuận, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với
nhau và đôi khi họ sử dụng cả những cách thức, phương pháp mà pháp luật
không cho phép, xâm phạm đến lợi ích của các đối thủ khác. Mục đích cạnh
tranh là yếu tố bắt buộc để xác định một hành vi là cạnh tranh lành mạnh hay
không lành mạnh. Nếu hành vi của Doanh nghiệp, hiệp hội không nhằm mục
đích cạnh tranh thì đó không phải là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật này.
Thứ ba, hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo đức kinh doanh.
Chuẩn mực về đạo đức kinh doanh là một khái niệm mang tính chất trừu
tượng và rất khó xác định, nó phụ thuộc vào quan niệm, truyền thống kinh
doanh của từng quốc gia, từng vùng miền. Một hành vi ở nơi này có thể bị coi là
vi phạm đạo đức kinh doanh nhưng ở nơi khác lại không. Tuy nhiên hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thường được hiểu là đi ngược lại với pháp luật,
thông lệ, tập quán kinh doanh.

Thứ tư, hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp khác hoặc của
người tiêu dùng.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Điều 4 Luật Cạnh tranh 2004 có cho phép các doanh nghiệp được quyền
tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Tuy vậy, những trường hợp doanh
nghiệp thực hiện quyền tự do cạnh tranh mà gây thiệt hại cho các chủ thể khác
thì bị xếp vào nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thiệt hại là yếu tố
phải xác định để có thể coi một hành vi cạnh tranh là lành mạnh hay không lành
mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ra những thiệt hại cho
Nhà nước như tác động xấu đến thị trường, làm đảo lộn trật tự quản lý kinh tế...,
cũng có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác như làm mất uy tín, giảm thị
phần, giảm doanh thu..., có thể gây thiệt hại cho khách hàng như bị nhầm lẫn,
mua phải hàng hóa kém chất lượng, bị giảm sút về sức khỏe, thậm chí là thiệt
hại về tính mạng...
Nếu doanh nghiệp, hiệp hội chứng minh được hành vi của mình không
ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp khác hoặc của
khách hàng thì không phải chịu những chế tài theo pháp luật cạnh tranh không
lành mạnh. Tuy nhiên, việc xác định thiệt hại là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi
hỏi phải tuân thủ những quy định chặt chẽ của pháp luật.
Như vậy, để xác định một hành vi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
phải có đủ bốn đặc điểm trên. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm này thì hành vi
đó không được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và không chịu sự điều
chỉnh của Luật Cạnh tranh 2004.
1.1.2. Phân biệt cạnh tranh không lành mạnh với hạn chế cạnh tranh, cạnh

tranh lành mạnh
a. Phân biệt cạnh tranh không lành mạnh với hạn chế cạnh tranh
Hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh đều là các hành vi gây
tổn hại đến hoạt động cạnh tranh trên thị trường, cần phải loại bỏ và được quy
định trong pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước trên thế giới.
Tại Việt nam, theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004:
“Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch,
cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập
trung kinh tế”.
Xét về mức độ phức tạp và nguy hại cho thị trường thì hành vi hạn chế
cạnh tranh ở mức độ cao hơn và nguy hiểm hơn so với hành vi cạnh tranh không


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

lành mạnh đơn thuần. Có thể thấy chế định về hạn chế cạnh tranh bao gồm tổng
thể các quy định của pháp luật thể hiện sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước
nhằm kiểm soát, giới hạn hoặc cấm đoán tất cả các thỏa thuận, liên kết dẫn đến
sự hạn chế hoặc triệt tiêu sự cạnh tranh, giảm sút các chủ thể đang nắm giữ vị trí
có quyền lực thị trường, hạn chế sự cạnh tranh trong một tương quan hợp lý với
lợi ích chung của toàn xã hội. Do việc triệt tiêu quy luật cạnh tranh, thao túng
một ngành, một lĩnh vực của hoạt động sản xuất, kinh doanh, những hành vi này
phá vỡ tương quan và cơ cấu thị trường, gây suy giảm sản xuất, đơn điệu trong
kinh doanh dịch vụ, tác động tiêu cực đến thị trường và xã hội. Do đó các biện
pháp chế tài được áp dụng đối với loại hành vi này thường nghiêm khắc và
cương quyết hơn. Nhà nước chủ động can thiệp nhằm loại bỏ các hành vi hạn
chế cạnh tranh mà không cần phải có chủ thể khiếu kiện.

Trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ nhằm mục đích
cạnh tranh với các đối thủ khác cũng như chiếm lĩnh thị trường, thu hút khách
hàng về phía mình; tác động chủ yếu đến các đối thủ cạnh tranh, khách hàng
trong cùng một thị trường hàng hóa, dịch vụ liên quan; xâm hại đến các đối
tượng cụ thể của thị trường. Vì vậy, các biện pháp chế tài áp dụng cho hành vi
này mang tính chất dân sự, như là một biến thể của bồi thường thiệt hại.
b. Phân biệt cạnh tranh không lành mạnh với cạnh tranh lành mạnh
Mặc dù chưa có một định nghĩa chung nhất về cạnh tranh lành mạnh,
nhưng chúng ta có thể hiểu cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh đẹp,
trong sáng, cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của bản thân doanh nghiệp. Đó là
những hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không cấm và phù hợp
với tập quán thương mại và đạo đức kinh doanh.
Trái ngược với cạnh tranh lành mạnh, hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được hiểu là những hành vi cụ thể của một chủ thể kinh doanh, nhằm mục
đích cạnh tranh, luôn thể hiện tính không lành mạnh (không nhất thiết phải trái
pháp luật) và vô tình hay cố ý gây thiệt hại cho một đối thủ cạnh tranh hay bạn
hàng cụ thể.
Tuy nhiên, ranh giới giữa cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành
mạnh là rất mong manh và khó xác định. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ
đến nhận thức và hành động của các chủ thể cạnh tranh, đồng thời khiến trật tự
kinh tế và môi trường cạnh tranh bị xáo trộn. Đây chính là một trở ngại đối với
các nhà quản lý.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

1.1.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể được phân thành nhiều

loại khác nhau phụ thuộc vào tiêu chí cũng như mục đích phân loại. Căn cứ vào
lợi ích của chủ thể bị xâm hại, người ta có thể phân loại thành hành vi xâm hại
lợi ích của đối thủ cạnh tranh và hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng.
a. Những hành vi xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh 2004 thì những hành vi thuộc nhóm
này có thể được biểu hiện dưới những hình thức như: Xâm phạm bí mật kinh
doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khác, đưa ra các chỉ dẫn gây nhầm lẫn, ép buộc trong kinh doanh...Mục
đích của các chủ thể khi thực hiện hành vi này thường là hạ thấp uy tín, làm thiệt
hại đến lợi ích kinh tế của doanh nghiệp khác. Đây là hành vi rất đáng lo ngại vì
nó không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các doanh nghiệp trong quá trình
cạnh tranh mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của khách hàng và về lâu dài nó sẽ gây
ra những xáo trộn trong trật tự quản lý kinh tế - xã hội. Vì vậy, cần thiết phải có
những biện pháp phù hợp để điều chỉnh những hành vi thuộc nhóm này.
b. Những hành vi xâm hại lợi ích của khách hàng
Có thể thấy khách hàng là chủ thể không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường và việc lôi kéo khách hàng về phía mình là công việc quan trọng nhất của
mỗi doanh nghiệp, bởi lẽ mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp chính là lợi nhuận.
Trong quá trình cạnh tranh, bên cạnh những cách thức hợp pháp, lành mạnh, để
đạt được lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng bỏ qua lợi ích của khách hàng
bằng hành vi gây cho họ những thiệt hại nhất định về quyền tự do lựa chọn, về
sức khỏe, thậm chí là tính mạng nhằm mục đích cạnh tranh. Ở Việt Nam hiện nay,
tuy đã thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng (VINATAS) nhưng tổ chức này
chưa được quản lý chặt chẽ nên chưa phát huy được vai trò của nó, chưa thực sự
trở thành địa chỉ tin cậy của khách hàng và vì vậy, người tiêu dùng vẫn là “nạn
nhân”, là mục tiêu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Nhằm bảo vệ lợi ích của khách hàng, Luật Cạnh tranh 2004 cũng quy định
một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến người tiêu dùng như:
chỉ dẫn gây nhầm lẫn, khuyến mại gian dối, quảng cáo gian dối...Tất cả những
hành vi này đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng, làm cho

những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị những thiệt hại nhất định và nếu
không được ngăn chặn kịp thời thì nó sẽ có tác động xấu đến môi trường kinh


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

doanh nói chung. Mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là để lôi kéo, thu hút khách hàng về phía mình. Vì vậy, cần thiết phải
có những biện pháp nhằm xử lý cũng như ngăn chặn những hành vi này, đảm
bảo cho người tiêu dùng tránh được những thiệt hại do hành vi cạnh tranh không
lành mạnh gây ra.
Có thể khẳng định việc phân loại dựa vào chủ thể bị xâm hại có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, nhờ sự phân loại này mà cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá
trình xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xác định được những
chế tài áp dụng cũng như cách xử lý sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời, các
doanh nghiệp và khách hàng cũng dễ dàng nhận ra được những hành vi ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của mình, qua đó có biện pháp bảo vệ mình cũng như góp
phần phát hiện và xử lý những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Tuy nhiên việc phân loại này chỉ mang tính chất tương đối, vì có những
hành vi vừa xâm hại lợi ích của đối thủ cạnh tranh lại vừa xâm hại lợi ích của
khách hàng như hành vi ép buộc trong kinh doanh, hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh...Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh dù được
xếp vào nhóm này hay nhóm kia đều cần có những chế định xử lý nghiêm khắc
và triệt để.
1.2. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
1.2.1. Khái niệm và cơ cấu của pháp luật cạnh tranh
a. Khái niệm pháp luật cạnh tranh
Pháp luật cạnh tranh của các nước ra đời đều bắt nguồn từ nhu cầu của

nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển, pháp luật cạnh tranh đã được liên tục
sửa đổi để phù hợp với thực tiễn. Luật Cạnh tranh có thể được gọi theo nhiều
cách khác nhau như Luật cạnh tranh – Competition Law của Anh, Luật chống
độc quyền – Anti monopoly Act của Nhật Bản, Luật Thương mại lành mạnh –
Fair Trade Law của Đài Loan... nhưng tất cả đều có một mục đích chung là duy
trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho phép các thực thể kinh
doanh có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị trường. Bảo vệ
người tiêu dùng thông qua việc khuyến khích hạ giá và cải thiện chất lượng sản
phẩm được xem như một hệ quả của cạnh tranh tự do và lành mạnh trên thị trường.
Trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về luật cạnh tranh. Hoa Kỳ
được coi là quốc gia khởi xướng ngành luật này đã định nghĩa: “Luật cạnh tranh


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

là công cụ tự vệ của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường, xuất
phát từ học thuyết chủ đạo coi cạnh tranh là mục đích”[14].
Ở Châu Âu, cạnh tranh chỉ được nhìn nhận là phương tiện, Luật Cạnh
tranh được hiểu là “tổng hợp các quy phạm pháp luật áp dụng với các tác nhân
kinh tế trong hoạt động cạnh tranh nhằm đảm bảo cho cạnh tranh diễn ra trên
thị trường một cách hợp lý, tức là không thái quá”[14].
Như vậy, các khái niệm trên về Luật Cạnh tranh đều thể hiện một điểm
chung: pháp luật cạnh tranh là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều tiết và
kiểm soát cạnh tranh nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp, bảo
vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của doanh nghiệp và của người tiêu dùng, góp phần
thúc đẩy kinh tế xã hội. Pháp luật cạnh tranh là công cụ của Nhà nước để đảm
bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
b. Cơ cấu của pháp luật cạnh tranh

Pháp luật về cạnh tranh bao gồm hai bộ phận cơ bản hợp thành, đó là
pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Mặc dù cả hai nhóm hành vi này đều làm thiệt hại đến sự vận động bình
thường của thị trường nhưng do đối tượng điều chỉnh, tính chất hành vi và mức
độ nguy hại của chúng đối với thị trường là khác nhau nên cần phải có những
quy định, biện pháp riêng điều chỉnh cho phù hợp với tính chất của những quan
hệ trong từng lĩnh vực.
Thứ nhất, Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời khi sự tích tụ tư bản tăng lên,
hình thành các tập đoàn tư bản độc quyền và chủ nghĩa độc quyền, được đánh
dấu với sự ra đời của đạo luật chống Trust đầu tiên – đạo luật Sherman ban hành
vào năm 1890 ở Mỹ. Đây là bộ luật chống độc quyền đầu tiên được thông qua
bởi các bang trước khi trở thành bộ luật Liên bang. Luật Sherman gồm hai phần
chính: Phần một quy định các thỏa thuận gây hạn chế thương mại; phần hai cấm
việc giành được vị thế độc quyền bằng việc sử dụng các biện pháp phản cạnh
tranh hoặc lạm dụng vị trí độc quyền (không phải là độc quyền tự nhiên). Một
điểm quan trọng cần lưu ý là Luật Sherman có thể được thực thi như luật dân sự
hoặc như luật hình sự, các phán xét được trao cho Vụ Chống độc quyền, Bộ Tư
pháp. Sau đó, lần lượt các đạo luật chống Trust ra đời nhằm bổ sung cho đạo luật
Sherman như đạo luật Clayton 1914, đạo luật Robison – Patman 1936. Trong đó,
đạo luật Sherman và Clayton là hai đạo luật được dùng chủ yếu. Đến nay, ở hầu


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

hết các nước trên thế giới, luật chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền đã
ra đời như Luật Chống hạn chế cạnh tranh của Đức 1957, Luật Cạnh tranh của
Canada 1889, Luật về Thương mại và độc quyền của Hàn Quốc 1980...

Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh hay kiểm soát độc quyền thường bao
gồm những nội dung chủ yếu sau: cấm cartel, kiểm soát sáp nhập, kiểm soát việc
lạm dụng quyền lực thống lĩnh thị trường... với mục đích lớn nhất là bảo vệ cơ
cấu và tổng quan thị trường, bảo vệ cơ chế cạnh tranh và môi trường cạnh tranh
lành mạnh.
Do tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi hạn chế cạnh tranh hay
độc quyền mà pháp luật các nước thường quy định việc kiểm soát chặt chẽ cùng
các chế tài nghiêm khắc đối với các hành vi này.
Thứ hai, Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời sớm hơn pháp luật
chống hạn chế cạnh tranh. Khi mới ra đời, khái niệm pháp luật cạnh tranh được
hiểu đồng nghĩa với pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu
ngày nay.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh được bắt đầu từ nước Pháp.
Mặc dù không có đạo luật riêng về lĩnh vực này nhưng trong các quy định tại
Điều 1382 và 1383 của Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp (1840) đã có các quy
định về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Ở Italia, liên quan đến chống cạnh tranh không lành mạnh có quy định tại
các điều 1151, 1152 của Bộ luật Dân sự 1865, sau đó được bổ sung thành những
nguyên tắc chung ở các điều 2598, 2601 của Bộ luật Dân sự 1942. Đến năm
1990, ở Italia đã ban hành Luật Cạnh tranh và kinh doanh lành mạnh (có hiệu
lực từ ngày 10/10/1990) [15. tr73].
Tại Đức, Luật chống cạnh tranh không lành mạnh được ban hành vào năm
1909. Luật này ngăn cấm tất cả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
kinh doanh nhằm mục đích trấn áp các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo
hộ nhà sản xuất, người tiêu dùng và công chúng. [16]
Đến nay, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh đã có được vị trí
quan trọng trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia ở khắp các khu vực trên
thế giới, tiêu biểu là Luật Cạnh tranh của Nhật Bản 1938, của Trung Quốc 1993,



Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Thái Lan 1979, Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Nga 1991, Hungary
1990, Ba Lan 1990...
Mục đích của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh không chỉ là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng mà
cao hơn là nhằm răn đe, ngăn cấm mọi hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
nguy cơ xâm hại và làm ảnh hưởng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nền
kinh tế, đảm bảo được trật tự cạnh tranh lành mạnh.
Trên thực tế, ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Pháp,
Đức, Italia thì pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống
hạn chế cạnh tranh được quy định ở hai đạo luật riêng biệt. Còn ở một số nước
có nền kinh tế chuyển đổi như Ba Lan, Séc hay một số nước Châu Á khác như
Hàn Quốc, Nhật Bản... ban hành cùng một đạo luật điều chỉnh cả hai loại hành
vi. Tại Việt Nam, pháp luật cạnh tranh áp dụng theo mô hình “một luật”. Điều
này thể hiện rõ ngay tại Điều 1 Luật Cạnh tranh 2004: “Luật này quy định về
hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ
tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh
tranh”.
1.2.2. Vai trò của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản, là nền tảng và động lực phát triển của
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, cạnh tranh chỉ có thể xuất hiện với tư cách là một
sản phẩm của kinh tế thị trường trong những điều kiện của những tiền đề pháp lý
cụ thể, nghĩa là các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế phải được Nhà nước
thừa nhận và bảo vệ quyền tự do, tự chủ trong kinh doanh, quyền sở hữu và tính
đa dạng của các loại hình sở hữu cũng như địa vị bình đẳng trước pháp luật. Do
đó, xây dựng chính sách duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm

soát sự độc quyền trong kinh doanh là việc làm cần thiết.
Có thể thấy, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh - một bộ phận
của pháp luật cạnh tranh, có những vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, tạo nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh, duy trì và thúc
đẩy quá trình cạnh tranh tự do hay bảo vệ hoặc thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.
Luật cạnh tranh bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh,
hợp tác bình đẳng trong một khuôn khổ pháp luật chung, điều tiết mặt trái của
cạnh tranh bằng cách kiểm soát quá trình dẫn đến vị trí thống lĩnh thị trường,


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

độc quyền của doanh nghiệp, chống các hành vi gây cản trở cạnh tranh, cũng
như thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường. Vì vậy, thách
thức đặt ra đối với doanh nghiệp đó là buộc doanh nghiệp phải chấp nhận
cạnh tranh một cách văn minh hơn, bài bản hơn, và sẽ không có đất dung thân
cho các doanh nghiệp làm ăn chụp giật. Các doanh nghiệp lớn sẽ phải cẩn
thận hơn trước khi đưa ra những quyết định quan trọng trong kinh doanh, bởi
lẽ những quyết định của họ sẽ ảnh hưởng đáng kể tới thị trường và sẽ được
giám sát chặt chẽ.
Thứ hai, điều tiết quá trình cạnh tranh, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của người tiêu dùng, bảo vệ quyền lợi của chủ thể kinh doanh, Nhà
nước và xã hội.
Thị trường hình thành từ mối quan hệ qua lại giữa người mua và
người bán, hay rộng hơn là người sản xuất và người tiêu dùng dưới quy luật
cung - cầu và quy luật giá trị. Trong mối quan hệ này, người tiêu dùng luôn
ở vị trí trung tâm. Họ có quyền lựa chọn hàng hóa cũng như người cung ứng
hàng hóa và trả tiền cho sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, quyền lựa chọn của họ

bị giới hạn trong phạm vi khả năng cung ứng của người sản xuất. Về phía
người sản xuất, lợi nhuận không chỉ là mục tiêu, động lực mà còn là phương
thức tồn tại của họ. Việc nâng cao năng lực sản xuất sẽ mở rộng khả năng
đáp ứng các nhu cầu luôn thay đổi và ngày một tăng của người tiêu dùng.
Do có sự hữu hạn của các yếu tố sản xuất, người tiêu dùng và nguồn lợi
nhuận – sự hữu hạn của thị trường nói chung, các nhà sản xuất luôn có sự
cạnh tranh theo hai hướng: mở rộng đầu ra và thu hẹp đầu vào. Quá trình
này diễn ra liên tục, đòi hỏi mỗi người phải luôn cố gắng phát triển, vượt lên
trên các đối thủ, không ngừng tự hoàn thiện nếu không muốn bị loại bỏ. Kết
quả còn lại là những nhà sản xuất có năng lực nhất, có khả năng phục vụ tốt
nhất người tiêu dùng. Như vậy, cạnh tranh tham gia vào mọi phương diện
của nền kinh tế; nó sàng lọc và lành mạnh hóa thị trường, thúc đẩy sản xuất
và điều tiết tiêu dùng.
Thứ ba, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Vai trò này thể hiện tính hiệu quả của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh.
Luật Cạnh tranh đã quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
biện pháp xử lý đối với các hành vi này. Sự tác động của pháp luật lên các hành vi
vi phạm pháp luật thể hiện hai mục đích: xử lý theo quy định và ngăn chặn, răn đe


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

các hành vi vi phạm khác. Bởi vậy, đòi hỏi sự can thiệp của pháp luật phải phù hợp
và ở mức độ cần thiết, tức là quy định trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
về cạnh tranh, các biện pháp xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh phải phù
hợp với thực tế, đảm bảo tính nghiêm minh, khả thi và tính hiệu quả, tạo tâm lý,
thái độ tôn trọng pháp luật của các chủ thể kinh doanh.
1.2.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật chống cạnh tranh

không lành mạnh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước năm 1986, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, toàn bộ hoạt động của nền kinh tế cũng như của từng doanh
nghiệp đều tuân thủ theo một kế hoạch đã định trước, các chỉ tiêu pháp lệnh
được phân bổ để thực hiện kế hoạch đều bắt buộc phải thực hiện. Nền kinh tế
chỉ bao gồm hai thành phần cơ bản là thành phần kinh tế thuộc sở hữu nhà nước
(doanh nghiệp nhà nước) và thành phần kinh tế thuộc sở hữu tập thể (hợp tác
xã). Thành phần kinh tế tư nhân luôn bị cải tạo, thu hẹp và bị xóa bỏ. Thời kỳ
này không có môi trường cho cạnh tranh tồn tại và phát triển.
Sau năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế theo hướng phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,
dưới sự quản lý của Nhà nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng khởi xướng, các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau cùng tồn tại bình đẳng. Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận tại
Hiến pháp 1992 với sự đa dạng về các thành phần kinh tế được thừa nhận và
được tạo điều kiện để phát triển đã tạo ra và thúc đẩy môi trường cạnh tranh phát
triển. Cạnh tranh không còn là hiện tượng mới mẻ trong nền kinh tế. Thực tiễn
đó buộc Nhà nước ta phải ban hành các văn bản pháp luật để điều tiết nó.
Bên cạnh những nguyên tắc chung về cạnh tranh được quy định tại Hiến
pháp 1992 và Bộ luật Dân sự 1995 thì cạnh tranh trong kinh doanh còn phải tuân
thủ các nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, tôn trọng lợi ích công cộng,
tôn trọng quyền và lợi ích của người khác, tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt
đẹp, tôn trọng quyền nhân thân. Vi phạm quyền nhân thân, lợi dụng uy tín, gièm
pha, ép buộc trong kinh doanh,.. gây thiệt hại cho người khác là những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm các nguyên tắc cơ bản tại Điều 2, Điều 4
và Điều 5 Bộ luật Dân sự 1995.
Luật Thương mại năm 1997 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy
định trực tiếp về quyền cạnh tranh của thương nhân trong hoạt động thương mại.



Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Tại Điều 8 Luật Thương mại 1997 quy định: “Thương nhân được cạnh tranh
hợp pháp trong hoạt động thương mại; nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh gây
tổn hại đến lợi ích quốc gia và các hành vi sau đây: a) Đầu cơ để lũng đoạn thị
trường; b) Bán phá giá để cạnh tranh; c) Gièm pha thương nhân khác; d) Ngăn
cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của thương nhân
khác; đ) Xâm phạm quyền về nhãn hiệu hàng hóa, các quyền khác về sở hữu
công nghiệp của thương nhân khác; e) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp
khác”. Ngoài ra, Điều 9 Luật Thương mại năm 1997 còn cấm các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng như lừa dối khách
hàng, gây nhầm lẫn cho khách hàng, quảng cáo dối trá, khuyến mại bất hợp pháp...
Ngoài Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Thương
mại năm 1997, các quy định liên quan đến cạnh tranh trong kinh doanh còn
được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Hình sự năm
1999, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Pháp lệnh quảng
cáo năm 2001, Pháp lệnh giá năm 2002, Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004... Tuy nhiên, những quy định về cạnh tranh
ở những văn bản này không phát huy được nhiều hiệu quả trong đời sống kinh tế
- xã hội ở nước ta, bởi vì còn thiếu các quy định cụ thể về bộ máy thực thi, cơ
chế áp dụng cũng như chế tài xử lý đối với các thương nhân vi phạm.
Đặc biệt, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã ký kết, gia
nhập nhiều hiệp định thương mại, đầu tư song phương hoặc đa phương và là
thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn trong khu vực và quốc tế như ASEAN,
AFTA, ASEM, APEC, WTO. Các công ty đa quốc gia xuất hiện ở Việt Nam
ngày càng nhiều và với những tiềm lực kinh tế vượt trội, các công ty này có khả
năng tạo lập được vị trí thống lĩnh và độc quyền, gây không ít khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh

nghiệp vừa và nhỏ.
Đứng trước đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội trong nước và
đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, sau nhiều năm khởi
xướng xây dựng cơ chế kinh tế thị trường và thực thi chính sách cạnh tranh,
ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Cạnh
tranh. Luật này có hiệu lực từ ngày 01/07/2005.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CHỐNG CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM

2.1. Các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Theo quy định tại Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh bao gồm:
2.1.1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Sử dụng những chỉ dẫn gây nhầm lẫn có thể coi là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh phổ biến nhất hiện nay. Hành vi này thường là sự cố ý của
doanh nghiệp nhằm làm cho khách hàng bị nhầm lẫn giữa những nhà sản xuất,
hàng hóa, dịch vụ với nhau. Nhằm ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm quyền kinh doanh hợp pháp của các chủ

thể kinh doanh trên thị trường, Điều 40 Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định:
Thứ nhất, cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây
nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao
bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch
nhận thức của khách hàng về hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, việc chỉ dẫn gây nhầm lẫn khác với việc đưa
thông tin về hàng giả (hàng có nhãn hiệu thật nhưng nội dung giả). Hàng hóa,
dịch vụ có chỉ dẫn gây nhầm lẫn là hàng hóa, dịch vụ có thể được đăng ký chất
lượng tại cơ quan có thẩm quyền nhằm mục đích thu hút khách hàng thông qua
việc lợi dụng uy tín, xuất xứ hàng hóa, dịch vụ đang có trên thị trường.
Thứ hai, cấm kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
lẫn quy định tại khoản 1 điều này.
Mục đích của điều luật này là nhằm ngăn chặn một cách triệt để các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường từ việc kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ nêu trên. Có thể nói, đây là một quy định rất có ý nghĩa thực tiễn, hạn chế
hậu quả có thể phát sinh đối với người tiêu dùng từ hành vi trái pháp luật này.
Thực tiễn cho thấy, không có một sản phẩm nổi tiếng nào lại không bị làm
giả, làm nhái, từ những vật dụng sinh hoạt cho đến những máy móc, phương tiện
kỹ thuật hiện đại. Ví dụ các nhãn hiệu gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của hãng giầy
Biti’s như Bisti’s, Bista’s; đối với nước uống Cocacola là Haracola, Vinacola.
Sản phẩm trà chanh Nestea rất được ưa chuộng trên thị trường nhưng không ít


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

khách hàng, nhất là khách hàng ở các tỉnh bị nhầm lẫn với sản phẩm Freshtea
của Công ty Thúy Hương (Thanh Trì, Hà Nội). Cụ thể, Công ty Thúy Hương đã
sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa Freshtea và Nestea. Sự tương tự

về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về cách trình bày, bố cục,
màu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát hiện hai gói trà chanh này
là do hai công ty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu dùng được hỏi thì cho
rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của công ty Nestle vì trông chúng
rất giống nhau. [26]
Tình trạng sao chép kiểu dáng, mẫu mã còn phổ biến ở rất nhiều mặt hàng
trên thị trường như các sản phẩm bánh kẹo, bia rượu, thuốc lá, đặc biệt là các
sản phẩm trong lĩnh vực thời trang và rượu ngoại.
Có thể thấy đây là hành vi mang tính phổ biến nhất hiện nay, nó làm rối
loạn thị trường trong nước, làm cho các doanh nghiệp phải mất thời gian, tiền
bạc trong việc khiếu nại giành giật lại thương hiệu của mình, đồng thời quyền
lợi của khách hàng cũng bị xâm hại một cách nghiêm trọng. Do đó, cần phải có
những biện pháp cụ thể, kịp thời để nhanh chóng ngăn ngừa và xử lý các hành vi
này, nhất là trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập quốc tế
hiện nay thì yêu cầu này càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
2.1.2. Xâm phạm bí mật kinh doanh
Theo khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004, bí mật kinh doanh là thông
tin có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, không phải là hiểu biết thông thường, nghĩa là các hiểu biết này
phải mang tính chất nghiệp vụ, kỹ thuật trong lĩnh vực kinh doanh cụ thể.
Thứ hai, có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ
tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi hơn so với người không nắm giữ hoặc
không sử dụng thông tin đó.
Thứ ba, được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông
tin đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Như vậy, muốn xác định một thông tin là bí mật kinh doanh thì phải
chứng minh được thông tin đó có đủ ba thuộc tính trên.
Điều 41 Luật Cạnh tranh 2004 cấm các doanh nghiệp thực hiện các hành
vi xâm phạm bí mật kinh doanh dưới các hình thức sau:



Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Thứ nhất, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại
các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó.
Quy định này được hiểu là nghiêm cấm việc tiếp cận, thu thập thông tin
thuộc bí mật kinh doanh mà không được sự đồng ý của người sở hữu bí mật kinh
doanh đó. Trên thực tế thì đây là hình thức diễn ra phổ biến nhất, nó trực tiếp phá
vỡ sự bảo vệ của chủ sở hữu hợp pháp. Nó có thể là những cách thức tiếp cận từ
đơn giản đến hiện đại, tinh vi, từ việc đột nhập vào doanh nghiệp có bí mật kinh
doanh “ăn cắp” cho đến hành vi truy cập trái phép vào hệ thống mã nguồn (máy
tính) lưu giữ bí mật kinh doanh thuộc sở hữu của một doanh nghiệp khác...
Thứ hai, tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không
được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh. Bí mật kinh doanh thường có rất ít
người biết, thường là chủ doanh nghiệp hoặc nhân viên có trách nhiệm trong
việc thực hiện quản lý và sản xuất sản phẩm. Do đó, vi phạm bí mật kinh doanh
dưới hình thức này thường do những nhân viên làm tại các doanh nghiệp có điều
kiện, cơ hội tiếp cận với những tài liệu, công nghệ thuộc bí mật kinh doanh hoặc
có thể do mục tiêu cá nhân hoặc bị mua chuộc đã lấy cắp thông tin để đem ra
ngoài hoặc phục vụ cho riêng mình.
Thứ ba, vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của
người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí
mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh.
Hợp đồng bảo mật là hợp đồng mà theo đó, một bên hợp đồng được
quyền tiếp cận thông tin bí mật về kinh doanh của một chủ sở hữu nhưng có
nghĩa vụ phải bảo mật thông tin đó. Bên có nghĩa vụ bảo mật làm lộ thông tin về
bí quyết kinh doanh cho bên thứ ba thì bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh
theo quy định của điều luật. Ngoài ra, điều luật cũng quy định bất kỳ hành vi nào

lợi dụng quan hệ sẵn có để lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có trách nhiệm bảo
mật nhằm lấy được thông tin bảo mật về bí mật kinh doanh và sau đó tiết lộ thông
tin đó cho người thứ ba thì cũng bị coi là xâm phạm bí mật kinh doanh.
Thứ tư, tiếp cận, thu thập các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người
khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh
doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp
bảo mật của các cơ quan nhà nước, hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục
đích kinh doanh, mục đích xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu
hành sản phẩm.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Trong quá trình kinh doanh, từ sản xuất, lưu thông đến tiêu thụ sản phẩm,
nhiều lúc doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trong nhiều trường hợp, doanh
nghiệp phải tiết lộ những thông tin thuộc bí mật kinh doanh của mình để thực
hiện thủ tục đó. Đây là cơ hội thuận lợi để những đối thủ cạnh tranh của doanh
nghiệp tiếp cận thông tin bằng nhiều cách như mua chuộc nhân viên của cơ quan
nhà nước hoặc thâm nhập vào mạng máy tính của cơ quan đó, sau đó sử dụng
những thông tin này để kinh doanh hoặc lập hồ sơ xin phép thành lập liên quan
đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm. Việc pháp luật quy định chế định này
là điều rất cần thiết, một mặt nó nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện những thủ tục liên quan đến bí
mật kinh doanh, mặt khác nó đảm bảo cho doanh nghiệp yên tâm khi thực hiện
những thủ tục đăng kí theo quy định của pháp luật.
Có thể nói, pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng đều có
những chế định nghiêm khắc để cấm việc thực hiện những hành vi này. Tuy

nhiên, những hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh thường rất tinh vi, khó phát
hiện và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau; do đó, đòi hỏi phải tiếp tục
hoàn thiện những chế định này và có cơ chế bảo đảm thực hiện, góp phần đẩy
lùi những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
2.1.3. Ép buộc trong kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
trong đó có quyền tự do lựa chọn đối tác kinh doanh là quyền rất quan trọng
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều này được thể hiện rõ trong Điều 8 Luật
Doanh nghiệp 2005, theo đó, doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, chủ
động tìm kiếm thị trường, tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan
hệ nội bộ cũng như quyền tự do lựa chọn đối tác kinh doanh. Tuy nhiên, trong
quá trình cạnh tranh, để đạt được mục đích của mình, các doanh nghiệp không
ngần ngại xâm phạm quyền tự do lựa chọn đối tác của doanh nghiệp khác, đồng
thời vi phạm nghiêm trọng đến quyền tự do lựa chọn của khách hàng. Do đó,
Điều 12 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “cấm doanh nghiệp ép buộc khách
hàng bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc
ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó”. Theo quy định này, có hai hành vi ép
buộc trong kinh doanh bị cấm:


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Thứ nhất, đe dọa đối tác kinh doanh và khách hàng của doanh nghiệp là
đối thủ cạnh tranh. Hành vi đe dọa có thể là đe dọa về vật chất hoặc có thể là đe
dọa về tinh thần như: trừng phạt kinh tế, tiết lộ bí mật đời tư, cắt hợp
đồng...khiến khách hàng hoặc đối tác kinh doanh của doanh nghiệp lo sợ, buộc
phải thực hiện hành vi trái ý muốn. Tuy nhiên, hành vi đe dọa phải mang tính
chất hiện hữu và có thể thực hiện ngay được, đồng thời phải hướng vào một chủ

thể cụ thể, xác định.
Thứ hai, cưỡng ép đối tác kinh doanh và khách hàng của doanh nghiệp là
đối thủ cạnh tranh. Biểu hiện của hành vi này là việc sử dụng những lợi ích vật
chất, đưa ra điều kiện liên quan đến công việc, đưa ra những lời hứa hẹn hấp
dẫn... để đặt doanh nghiệp, khách hàng vào tình thế bị động, làm cho họ không
có sự lựa chọn nào khác trong cách xử sự của mình, do đó không thể biểu hiện ý
chí một cách đúng đắn được.
Như vậy, điều luật này quy định nghiêm cấm việc ép buộc trong kinh
doanh nhằm ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp
đối với đối thủ cạnh tranh, đồng thời bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh trên thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng.
2.1.4. Gièm pha doanh nghiệp khác
Điều 43 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “Cấm doanh nghiệp gièm pha
doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không
trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đó”.
Gièm pha doanh nghiệp khác là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
tương đối phổ biến trong hoạt động kinh doanh, nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh
hoặc kìm hãm sự phát triển kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thông qua việc
giảm lượng khách hàng sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp đó. Hành vi này
được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể từ đơn giản đến phức tạp,
trực tiếp hoặc gián tiếp. Trên thực tế đã có rất nhiều vụ gièm pha doanh nghiệp
khác dẫn tới những thiệt hại nghiêm trọng. Vào giữa tháng 10/2003, sau khi có
tin đồn ông Phạm Văn Thiệt – Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu (ACB) thụt két một khoản tiền lớn rồi bỏ trốn, các khách hàng của Ngân
hàng này đổ xô đến rút tiền với gần 100 tỷ VND trong vòng một tuần lễ, chính
điều này đã đẩy ACB vào tình trạng bị áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt của
Ngân hàng Nhà nước, mặc dù sau đó ông Mai Đức Thúy – Thống đốc Ngân



Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

hàng trung ương đã khẳng định đây chỉ là tin đồn thất thiệt, nhưng lợi nhuận và
uy tín của doanh nghiệp cũng đã bị giảm sút nghiêm trọng. [27].
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sử dụng thủ đoạn đưa ra những thông tin
sai lệch về nhân thân, cuộc sống đời tư của chủ doanh nghiệp, cách hành xử của
doanh nghiệp đối với nhân viên và những người khác; những thông tin xấu về
tình trạng tài chính...gây hoang mang cho đối tác đang làm ăn, giao dịch với
doanh nghiệp, và do đó, công việc kinh doanh chắc chắn sẽ gặp những cản trở
nhất định.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ một thông tin nào ảnh hưởng đến doanh
nghiệp khác cũng là những hành vi gièm pha doanh nghiệp, mà nó phải đảm bảo
một số tiêu chí nhất định như:
Thứ nhất, hành vi này phải xuất phát từ đối thủ cạnh tranh và vì mục đích
cạnh tranh.
Thứ hai, hành vi gièm pha phải nhằm vào đối thủ cạnh tranh trong một thị
trường liên quan (bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan).
Có thể thấy, hành vi gièm pha doanh nghiệp khác không những gây ra
những tổn thất lâu dài cho doanh nghiệp mà việc khắc phục những hậu quả của
nó cũng rất khó khăn, đồng thời ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng do
không có điều kiện để kiểm tra tính xác thực của những thông tin đó. Vì vậy, cần
phải ngăn chặn hành vi này để bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo
đảm quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường cũng
như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
2.1.5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Để bảo đảm quyền kinh doanh của các chủ thể trên thị trường, Điều 44 Luật
Cạnh tranh 2004 quy định: “Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”. Qua đó cho thấy, hành vi gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác được biểu hiện dưới hai hình thức:
Thứ nhất, hành vi nhằm cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác. Hành vi này thường được biểu hiện dưới hình thức tác động trực tiếp đến
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, cản trở việc tiêu thụ hàng hóa, ép giá, gây


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

nhiễu hệ thống thông tin liên lạc...làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn
trong kinh doanh.
Thứ hai, những hành vi làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hành vi này có thể được biểu hiện bằng việc thực hiện những cách thức
như phá hoại máy móc công nghệ làm cho quá trình kinh doanh bị gián đoạn và
doanh nghiệp phải mất một thời gian dài mới hoạt động trở lại được; hành vi
mua chuộc, dụ dỗ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ cao làm cho doanh
nghiệp rơi vào tình trạng không thể tiến hành hoạt động kinh doanh được; hoặc
cũng có thể là hành vi kích động, xúi giục công nhân bãi công đình công làm
cho hoạt động kinh doanh bị ngưng trệ. Một ví dụ điển hình đã xảy ra trên thực
tế có thể kể đến là sự việc công ty taxi Tân Hoàng Minh (V20) bị các doanh
nghiệp khác cấu kết và gây rối hoạt động kinh doanh bằng cách sử dụng thiết bị
thu phát sóng cùng tần số làm nhiễu tín hiệu liên lạc tổng đài trong giờ cao
điểm, do đó các nhân viên điều hành không thể liên lạc được với lái xe, làm cho
các giao dịch bị gián đoạn trong một thời gian, lượng khách hàng ngày cũng vì
thế mà giảm đi khoảng 40-60%, gây thiệt hại trên 20 triệu đồng/ngày.[28]
Như vậy, Luật Cạnh tranh 2004 đã bước đầu ghi nhận gây rối hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi cạnh tranh không lành mạnh cần

phải ngăn chặn, tuy nhiên, chế định này mới chỉ tiếp cận ở khái niệm của hành
vi mà chưa đưa ra được những biểu hiện cụ thể mang tính điển hình, do đó, cần
có thêm những quy định cụ thể tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước trong
quá trình xử lý hành vi này.
2.1.6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Quảng cáo là việc giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ của thương nhân. Nhu cầu quảng cáo đang ngày càng tăng
được thể hiện trên phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy, để điều chỉnh
hoạt động quảng cáo theo hướng duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, Nhà
nước đã quy định cấm thực hiện các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không
lành mạnh tại Điều 45 Luật Cạnh tranh 2004. Theo đó, các hành vi quảng cáo bị
cấm bao gồm:
Thứ nhất, so sánh trực tiếp hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch
vụ cùng loại của doanh nghiệp khác.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Quảng cáo so sánh là việc các doanh nghiệp trong quá trình quảng cáo đã đưa
ra những thông tin có nội dung so sánh với sản phẩm của doanh nghiệp khác[15].
Hành vi quảng cáo so sánh được biểu hiện rõ nét qua hai trường hợp [19]:
Một là, quảng cáo so sánh để cho rằng sản phẩm của mình tốt hay đạt chất
lượng ngang bằng sản phẩm đã có uy tín trên thị trường của đối thủ cạnh tranh.
Đây là kiểu quảng cáo mang tính chất “dựa dẫm”, thường được các doanh
nghiệp sử dụng khi mới thâm nhập thị trường để khẳng định chất lượng của
mình, tìm chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo mang tính
ngang bằng này ít được các doanh nghiệp sử dụng, bởi nó vừa kém hiệu quả,
không gây được ấn tượng cho khách hàng về tính ưu việt của sản phẩm, vừa dễ

gây ra sự phản ứng của đối thủ cạnh tranh.
Hai là, quảng cáo so sánh có tính chất phủ định, tự cho rằng sản phẩm của
mình có chất lượng vượt xa các sản phẩm cùng loại khác. Hình thức quảng cáo
này hiện nay diễn ra một cách tràn lan, chúng ta dễ dàng bắt gặp như: “Comfort
tinh chất mới đậm đặc hơn, thơm lâu hơn gấp 4 lần nước xả vải thông thường”;
“Bột giặt Ômô tẩy sạch vết bẩn ngay trong lần giặt đầu tiên, cả những chỗ mà
bột giặt thường không thể lui tới được”... Với những khẩu hiệu đầy ấn tượng
như vậy, các doanh nghiệp đã tự cho mình là số 1 và phủ định chất lượng của
những sản phẩm cùng loại khác của các đối thủ cạnh tranh mà không hề có một
căn cứ nào.
Thứ hai, bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác để gây nhầm lẫn cho
khách hàng.
Việc bắt chước một sản phẩm quảng cáo khác có thể thông qua hình ảnh
quảng cáo, nội dung quảng cáo... tương tự làm cho người tiêu dùng nhầm tưởng
sản phẩm đang quảng cáo là sản phẩm đã được quảng cáo trước đó. Hoạt động
bắt chước một sản phẩm quảng cáo rất dễ gây nhầm lẫn với sản phẩm bị bắt
chước, dẫn đến định hướng sai hành vi mua bán của khách hàng nên bị coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, hành vi bắt chước một sản
phẩm quảng cáo khác phải đi kèm với mục đích của hành vi là gây nhầm lẫn cho
khách hàng hoặc hành vi gây ra hậu quả là gây nhầm lẫn cho khách hàng thì mới
có thể kết luận đó là hành vi bị cấm trong Luật Cạnh tranh.
Thứ ba, đưa những thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về
một trong các nội dung như: Giá cả, số lượng, chất lượng, công dụng, kiểu dáng,
chủng loại, bao bì, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, xuất xứ hàng hóa, người sản


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D


xuất, nơi sản xuất, người gia công, nơi gia công; cách thức sử dụng, phương thức
phục vụ, thời hạn bảo hành; các thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn khác.
Trung thực là yêu cầu hàng đầu đối với hoạt động quảng cáo nhằm bảo
đảm môi trường kinh doanh lành mạnh. Tuy nhiên, nhằm thu được lợi nhuận tối
đa, không ít doanh nghiệp đã lợi dụng lòng tin và sự thiếu hiểu biết của khách
hàng để đưa những thông tin thiếu trung thực về sản phẩm. Điển hình là công
tuy TNHH Tầm nhìn Việt Nam (nhà phân phối các sản phẩm Vision tại Việt
Nam, kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp) khi bán hàng theo mạng đã
cho các trình dược viên giới thiệu tài liệu “một số kết quả cải thiện sức khỏe nhờ
sử dụng sản phẩm bổ sung dinh dưỡng của tập đoàn quốc tế Vision”, trong đó
giới thiệu nhiều bệnh nhân mắc nhiều chứng bệnh khác nhau đều khỏi bệnh sau
khi sử dụng sản phẩm Vision. Tài liệu này được coi là một xuất bản phẩm có
chứa đựng thông tin quảng cáo, nhưng nếu như không cần khám chẩn đoán
bệnh, sản phẩm Vision vẫn chữa được mọi bệnh như thần dược thì nội dung
quảng cáo này có chứa đựng thông tin gian dối về chất lượng, công dụng gây
nhầm lẫn cho người tiêu dùng, nhất là khi đã từng có bệnh nhân bị ngộ độc do
sử dụng sản phẩm của Vision”[20].
Thứ tư, các hoạt động quảng cáo khác mà pháp luật có quy định cấm
Ở hành vi này, pháp luật đã đưa ra quy định mở: cấm các hoạt động quảng cáo
khác được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật ngoài Luật Cạnh tranh
như: Luật thương mại (2005), Pháp lệnh quảng cáo (2001), Nghị định 24/2003/NĐCP, Thông tư 43/2003/TT-BVHTT liệt kê một số hành vi cấm quảng cáo.
2.1.7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Khuyến mại là hoạt động thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến bán
hàng, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
Trong nền kinh tế thị trường, khuyến mại được xem là một trong những công cụ
xúc tiến thương mại hiệu quả nhất mà các doanh nghiệp ưu tiên sử dụng. Tuy
nhiên, hoạt động khuyến mại hiện nay cũng chưa có một cơ chế kiểm soát chặt
chẽ nên nhìn chung còn bộc lộ nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến lợi ích của
doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng. Vì vậy, Điều 46 Luật Cạnh tranh 2004
đã ghi nhận một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực khuyến

mại và cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại sau:
Thứ nhất, tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng.


Khóa luận tốt nghiệp

– KT30D

Đây là hình thức phổ biến và đa dạng trên thực tế. Các doanh nghiệp
thường tổ chức các đợt khuyến mại rầm rộ, đặc biệt là vào các dịp lễ tết nhưng
rất ít khi những giải thưởng lớn như giải nhất, giải đặc biệt đến được tay người
tiêu dùng. Điển hình là đầu năm 2001, trong chương trình khuyến mại của công
ty sữa Foremost tổ chức từ 15/01/2001 cũng có những vấn đề đáng bàn: Giải
thưởng lớn nhất mà Công ty đưa ra là 100 triệu đồng khi hộp sữa của khách
hàng có ba ngôi sao bên trong. Thế nhưng, hai khách hàng tại Kontum và Thành
phố Hồ Chí Minh đều có hộp sữa có ba ngôi sao lại chỉ được “khuyến khích”
bằng một máy ảnh trị giá 1,5 triệu đồng với lý do là ba ngôi sao của họ không
nằm liền nhau mặc dù trước đó Hãng không hề đưa ra tiêu chí này[29].
Thứ hai, khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa,
dịch vụ để lừa dối khách hàng.
Khuyến mại không trung thực là việc đưa ra các thông tin khuyến mại
hàng hóa, dịch vụ gian dối nhằm “đánh lừa” khách hàng để khách hàng tiếp cận
hàng hóa, dịch vụ đó. Ví dụ: hành vi đặt giá hàng hóa, dịch vụ ở mức quá cao
sau đó đưa ra chính sách khuyến mại giảm giá mạnh để khách hàng nhầm tưởng
hàng hóa giá rẻ.
Khuyến mại gây nhầm lẫn cho khách hàng về hàng hóa, dịch vụ có thể là
việc đưa ra những thông tin khuyến mại không chính xác về chất lượng hàng
hóa, dịch vụ bằng cách đưa ra những thông tin mập mờ hoặc những cách khác
“che mắt” người tiêu dùng. Ví dụ như hàng tồn kho, hàng kém chất lượng nhưng
thông tin khuyến mại đã làm cho khách hàng, người tiêu dùng nhầm tưởng hàng

hóa đó có chất lượng tốt.
Thứ ba, phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn
tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại.
Hành vi này thể hiện thái độ của doanh nghiệp đối với khách hàng ở các
địa phương khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại. Ví dụ như việc
đưa ra chính sách khuyến mại giảm giá 20% giá một mặt hàng cho khách hàng ở
Hà Nội, trong khi chỉ giảm giá 15% mặt hàng đó cho khách hàng ở các tỉnh
khác. Mặc dù về nguyên tắc, khi thực hiện một chương trình khuyến mại, doanh
nghiệp phải đưa ra những điều kiện khách hàng được khuyến mại, thời gian, địa
bàn khuyến mại; nếu khách hàng đáp ứng được các điều kiện đó thì mặc nhiên
họ được nhận quà khuyến mại. Việc phân biệt đối xử này là không công bằng và


×