Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.88 KB, 80 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển đột phá. Các doanh nghiệp kinh doanh được chủ động sản xuất,
kinh doanh, và tự do cạnh tranh. Tuy nhiên để đảm bảo sự phát triển nền kinh
tế thị trường có sự định hướng của nhà nước thì chúng ta đã xây dựng một hệ
thống pháp luật tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và là
cơ sở để nhà nước tiến hành hoạt động quản lý. Sự phát triển kinh tế thể hiện
qua hàng hoá, dịch vụ ngày càng được cung cấp đầy đủ, đa dạng hơn, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Đó là một thuận lợi rất lớn cho
NTD có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp với nhu cầu của mình. Tuy
nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, NTD cũng gặp phải rất nhiều khó khăn
việc lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng của mình.
Bởi sự đa dạng của chủng loại hàng hoá, dịch vụ đòi hỏi NTD phải có những
kiến thức tiêu dùng nhất định; ngoài ra một số loại hàng hoá, dịch vụ còn đòi
hỏi phải có kiến thức chuyên sâu mới có thể thẩm định về chất lượng của
chúng và sự quản lý, kiểm định chặt chẽ của nhà nước. Điều này thì không
phải mọi người tiêu dùng đều có thể đáp ứng, mặt khác điều kiện của nước ta
- xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp khi bước sang phát triển theo nền kinh
tế thị trường nên kỹ năng quản lý còn yếu kém. Lợi dụng điều đó, nhiều nhà
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đã chạy theo lợi nhuận mà không tuân
thủ các quy định của nhà nước trong quá trình sản xuất và cung ứng ra thị
trường để cung cấp cho người tiêu dùng những hàng hoá không đảm bảo chất
lượng…và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vì vậy nhu cầu cần có một hệ
thống pháp lý để bảo vệ quyền lợi NTD nói chung và quyền được bồi thường
thiệt hại của NTD nói riêng là một nhu cầu cấp bách tồn tại song song vơi sự
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

1



Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường là do tiêu dùng điều tiết, vì
vậy tiêu dùng đắc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc hoặc định chính sách
kinh tế…Và NTD là đối tượng được mọi hoạt động hướng tới đặc biệt là hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Vai trò của NTD đã được cố Tổng thống Mỹ
Giôn-Ken-nơ-đi đề cập tớ trong buổi phát biểu tại Thượng Nghị Viện Mỹ
ngày 15/03/1967: “NTD theo định nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là
nhóm người đông đảo nhất, có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các
quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Vậy mà họ là nhóm
người quan trọng độc nhất mà quan điểm của họ thường không được chú ý
tới”. Trong lời phát biểu đó không những vai trò của NTD được đề cập tới mà
vấn đề quyền lợi của NTD chưa được quan tâm đúng mức cũng đã được đề
cập tới. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam quyền và lợi ích cuả NTD không chỉ
không được quan tâm đúng mức mà nó còn đang bị xâm phạm một cách
nghiêm trọng ở mọi lúc mọi nơi, mọi lĩnh vực và đặc biệt là trong thực phẩm;
vấn đề VSATTP đang là vấn đề gây bức xúc cho NTD và làm đau đầu các nhà
quản lý. Vì lợi nhuận trước mắt nhiều cá nhân, tổ chức sản xuất kinh, doanh
hàng hoá, dịch vụ đã sản xuất, nhập khẩu buôn bán hàng giả, hàng kém chất
lượng và thực phẩm không an toàn xâm hại không nhỏ đến sức khoẻ, tính
mạng, tài sản của NTD. Trong khi sự quản lý của nhà nước còn nhiều yếu
kém nên dẫn đến tình trạng dù đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng tình hình
hàng giả, hàng kém chất lượng vẫn tràn lan trên thị trường và không chỉ có ở
các cửa hàng nhỏ lẻ mà cả trong các siêu thị; số ca ngộ độc thực phẩm do sử
dụng hàng hoá không đảm bảo chất lượng; các bệnh lây truyền do thực phẩm
không an toàn ngày càng tăng….
Vấn đề đặt ra là trong điều kiện như vậy phải có các biện pháp hữu
hiệu để bảo vệ NTD. Biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ NTD vẫn là pháp
luật. Ý thức điều này Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật khá hoàn
thiện để có thể bảo vệ được quyền lợi của NTD khi quyền và lợi ích của họ bị

2



xâm phạm. Theo quy định của pháp luật hiện hành khi quyền lợi của NTD
dùng bị xâm hại do việc sử dụng hàng hoá dịch vụ của nhà sản xuất, kinh
doanh họ có thể yêu cầu nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá BTTH cho mình
nếu hai bên không thể thoả thuận được cách bồi thường và mức bồi thường thì
NTD có thể khởi kiện ra toà. Và khi quyền và lợi ích của NTD bị xâm phạm
việc BTTH có thể giải quyết theo quy định pháp luật theo hợp đồng hoặc theo
quy định ngoài hợp đồng. Tuy nhiên nếu như các quy định của pháp luật về
BTTH cho NTD do vi phạm quyền lợi của họ trong hợp đồng khá chi tiết và
cụ thể thì quy định về BTTH cho NTD ngoài hợp lại rất chung chung và còn
nhiều bất cập. Hơn nữa việc BTTH cho NTD từ phía các doanh nghiệp là rất
hạn chế, một số các doanh nghiệp vì uy tín họ đền bù nhưng phần lớn thì lại
chây lì khi BTTH cho NTD. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ có
ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Chính vì vậy nhóm nghiên
cứu chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu là: "BTTH do vi phạm quyền lợi
NTD". Qua đó muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật về bảo vệ NTD.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD là một đề tài rộng, được nhiều
ngành luật điều chỉnh như hình sự, hành chính, dân sự. Dưới góc độ luật hình
sự các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm quyền lợi NTD gây ra các
hậu qủa nghiêm trọng cho xã hội và phải chịu TNHS, còn ở góc độ luật hành
chính các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm quyền lợi NTD đó đã
làm trái các quy định gì của nhà nước về trật tự quản lý sản xuất, kinh doanh
còn trong luật dân sự thì quan tâm tới TNDS của nhà sản xuất, kinh doanh đối
với NTD đã bị thiệt hại do sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Vì vậy trong phạm
vi có hạn của mình, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn
đề chính liên quan đến vấn đề TNBTTH hại do vi phạm quyền lợi NTD như
cơ sở lý luận của TNBTTH ngoài hợp đồng và cơ sở lý luận của TNBTTH do


3


vi phạm quyền lợi NTD, quyền được BTTH và khởi kiện khi quyền và lợi ích
của NTD bị xâm hại; trách nhiệm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh phải
BTTH cho NTD khi vi phạm; Trình tự thủ tục thực hiện khiếu nại tố cáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu.
Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD
như khái niệm NTD, quyền của NTD; cơ sở để NTD buộc các doanh nghiệp
BTTH (điều kiện phát sinh TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD); vai trò của
cơ quan nhà nước trong quản lý bảo vệ NTD……
Đánh giá, phân tích hiện trạng pháp luật về BTTH do vi phạm quyền
lưọi NTD trong giai đoạn hiện nay.
Đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng quyền lợi NTD bị vi
phạm va số phương hướng cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật về
BTTH do vi phạm quyền lưọi NTD.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin
kết hợp với phương pháp so sánh, phân tích, tống hợp và thống kê.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Về mặt lý luận đề tài nghiên cứu là công trình nghiên cứu một cách có
hệ thống các quy định của pháp luật về BTTH do vi phạm quyền lợi của NTD
góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc bảo vệ NTD theo pháp luật
hiện hành. Ngoài ra đề tài còn phục vụ trục tiếp cho quá trình hoàn thiện các
quy định của pháp luật về BTTH hại cho NTD.

4



CHƯƠNG 1
NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BTTH DO VI PHẠM QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG
1.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng, TNBTTH do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng ( NTD)
1.1.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng
“TNBTTH ngoài hợp đồng” là những chế định quan trọng của luật
dân sự. Vấn đề này đã được các nhà luật học đề cập từ rất sớm để bảo vệ các
quyền cơ bản của con người như: quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự nhân phẩm,…quyền sở hữu tài sản. Vì vậy việc nghiên cứu sự
hình thành và phát triển của các khái niệm này từ đó hiểu và áp dụng thống
nhất các khái niệm này có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà cả về mặt thực
tiễn.
1.1.1.Khái niệm thiệt hại
Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật
gia La Mã đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành
phần. Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens-sự thiệt hại, sự mất mát của
một bộ phận tài sản cụ thể. Thành phần thứ hai là Lucrum cessans-bỏ mất lợi
tức, sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường

(1)

. Như

vậy về cơ bản thì luật La Mã xác định thiệt hại là những tổn thất mất mát về
tài sản đang có và sẽ có trong tương lai -thiệt hại mang tính tài sản. Chẳng
hạn, theo luật gia Gaius ông đã đưa ra một ví dụ: một nô lệ thuộc một nhóm
nhạc công nếu nô lệ này bị giết, thì khi xét BTTH phải lưu ý tới tình trạng cả
nhóm nhạc công nô lệ bị giảm giá trị do nguời nô lệ đó bị giết (2). Qua ví dụ

trên ta thấy việc BTTH do hành vi trái pháp luật giết người nô lệ là một nhạc
công trong một nhóm nhạc thì không những phải BTTH cho những mất mát
1
2(1)

Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112: theo luật gia Gaius,
quyển3, điều 212, Bộ Degest, quyển 9, m ục 2, trích 22, Đi ều 1
(2)
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Tổng hợp, Khoa luật, Luật La Mã, sđ d.tr 112

5


trực tiếp của chủ nô lệ đó mà còn phải BTTH cho cả những mất mát gián tiếpsự giảm sút giá trị của nhóm nô lệ nhạc công do nô lệ kia bị giết, những lợi
ích sẽ có của người chủ nô lệ này nếu không có sự kiện đó xảy ra. Ngoài ra ta
còn thấy chế định về thiệt hại của luật La Mã chủ yếu đề cập đến thiệt hại về
vật chất-thiệt hại mang tính tài sản, bởi bản chất của các quan hệ pháp luật
dân sự là những quan hệ mang tính tài sản.
Ngày nay những tư tưởng pháp lý này của các luật gia La Mã đã được
các nhà lập pháp kế thừa; chẳng hạn theo Điều 1149 của Bộ luật Dân sự nước
Cộng hoà Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có
quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng” (1).
Ngoài ra các nhà lập pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại
còn bao gồm cả thiệt hại phi vật chất-thiệt hại về tinh thần. Bộ luật Dân sự
Nhật Bản quy định tại Điều707 thì một người chịu TNBTTH cả những thiệt
hại phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài
sản của người khác. Hay Bộ luật Dân sự của Cộng hoà Liên Bang Đức có quy
định:
1.Đối với trường hợp do vi phạm của hoạt động tố tụng thì có quy
định: trong trường hợp gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cũng như trong

trường hợp bị phạt tù giam thì người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu bồi
thường bằng tiền đối với những tài sản không mang tính tài sản.
2.Người phụ nữ cũng có quyền yêu cầu tương tự nếu người này bì
thiệt hại trong các trường hợp vi phạm đạo đức nghiêm trọng hoặc bị cưỡng
bức quan hệ tình dục ngoài hôn nhân bằng âm mưu thâm độc, bị đe doạ hoặc
lạm dụng mối quan hệ phụ thuộc.
Theo nghĩa hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất mát, hư
hỏng nặng nề về người và của”(2).
1()
2

Bộ luật Dân sự PHáp l999, Nxb chính trị Quốc Gia Hà Nội
Nguyễn Như Ý, Nxb.Thông tin Hà Nội, Đại Từ Điển Tiếng Việt, sđ d.tr 1570

6


Theo quan điểm pháp lý của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì:
“thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ”(3).
Ở Việt Nam thì truớc khi có bộ luật Dân sự chính thức quy định về
vấn đề này thì tồn tại hai quan điểm trái ngược về xác định thiệt hại phi tài
sản-thiệt hại về tinh thần…Quan điểm thứ nhất cho rằng thiệt hại tinh thần
không thể bồi thường vì tính mạng, tình cảm của con người là vô giá; do đó
không có căn cứ để xác định mức thiệt hại. Quan điểm thứ hai cho rằng thiệt
hại cả về vật chất và tinh thần đểu phải bồi thường vì mọi tính toán chỉ mang
tính tương đối, mà bản chất của BTTH đều là nhằm khắc phục hậu quả của
thiệt hại đã xảy ra. Quan điểm này đã được thừa nhận chính thức và được ghi
nhận trong Thông tư của Toà án Nhân dân Tối cao số 173/1972/TT-UBTP
ngày 23 tháng 03 năm 1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng (sau

đây gọi tắt là TT số 173/1972/TT-UBTP) nhưng chưa được áp dụng thống
nhất trong thời kỳ này. Đến khi nước ta chính thức có Bộ luật Dân sự 1995 thì
thiệt hại được chính thức xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về
tinh thần thông qua quy định về TNBTTH tại Điều 310: Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại
1- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
2- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây
ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút.
3- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài

3

Nxb. Công An Nhân Dân, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, 1999, sđ d.tr 118

7


việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi
thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại.
Đến Bộ Luật dân sự 2005 thì quy định này tiếp tục được kế thừa tại
Điều 307.
Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tin, tài sản của cá nhân, tổ chức
được pháp luật bảo vệ.
1.1.2.Nhận diện về TNBTTH ngoài hợp đồng
Montesquieu, nhà tư tưởng lỗi lạc của thời kỳ khai sáng đã từng tuyên

bố một chân lý: “Tự do có nghĩa là có thể làm tất cả những gì mà không làm
thiệt hại đến người khác”.Tư tưởng ấy đã được áp dụng vào hoạt động lập
pháp của nhiều quốc gia sau này. Chẳng hạn Điều 4 của Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của nước Cộng hoà Pháp năm 1789 đã trích dẫn tư tưởng
này: “Tự do bao gồm quyền làm mọi điều không gây hại cho người khác. Như
vậy việc thực hành các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị giới hạn trong
việc bảo đảm cho các thành viên của xã hội được hưởng các quyền đó. Các
giới hạn này chỉ có thể do pháp luật quy định”(1).Tư tưởng này khẳng định
việc thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi người là “tự do”. Nhưng quyền tự
do này chỉ có thể được đảm bảo thực hiện và được thực hiện khi từng thành
viên trong xã hội thực hiện quyền của mình trên cơ sở đảm bảo cho các thành
viên khác cũng có được quyền này có nghĩa là không có tự do tuyệt đối mà
việc thực hiện quyền tự do của một thành viên bất kỳ trong xã hội phải bảo
đảm không xâm phạm đến tự do của các thành viên xã hội còn lại hay tự do
của họ có những giới hạn nhất định và giới hạn này phải do nhà nước-thông
qua pháp luật quy định nhằm đảm bảo sức mạnh cưỡng chế với tất cả mọi
người.

1

Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp

8


Trên thực tế ta cũng thấy rằng, việc thực hiện các quyền của từng cá
nhân này luôn chứa đựng những nguy cơ gây ảnh hưởng, tổn thất thậm chí
còn có thể gây thiệt hại cho người khác. Vì vậy việc được hưởng các quyền tự
do của con người là một nhu cầu khách quan thì cũng tồn tại song hành khả
năng xâm phạm đến quyền lợi của người khác. Vì vậy nó cần có một quy

phạm mang tính cưỡng chế chung để điều hoà các mặt đối lập này; và pháp
luật là nhân tố có khả năng và chức năng điều hoà mối quan hệ mâu thuẫn
này. Để bảo vệ các quyền này pháp luật dân sự đã quy định các hành vi gây
thiệt hại và TNBTTH để điều hoà hai mặt đối lập trong việc thực hiện quyền
tự do của con người.
Theo quan điểm của hầu hết các nhà luật gia thì “TNBTTH là trách
nhiệm của người có hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây ra thiệt hại về vật
chất, tinh thần phải bồi hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng
tài sản, bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại. TNBTTH bao gồm
TNBTTH về vật chất và TNBTTH về tinh thần. TNBTTH về vật chất là trách
nhiệm bù đắp tổn thất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ
gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại; thu
nhập thực tế bị mất bị giảm sút của người bị thiệt hại. TNBTTH về tinh thần
là trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi
thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”(1).
Xem xét lịch sử hình thành và phát triển của chế định TNBTTH ta
thấy khái niệm này đã xuất hiện từ rất sớm, tuy chưa đưa ra định nghĩa khái
niệm này một cách cụ thể nhưng nó đã đưa ra những tiền đề để phát triển chế
định này ngày nay. Thời La Mã cổ đại thì chế định này đầu tiên mang tính trả
thù cá nhân, nhằm vào nhân thân người gây thiệt hại, do người bị thiệt hại
hoặc người thân của người này áp dụng (chế độ phục cừu là nguyên tắc trả
thù ngang bằng như máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, tính mạng trả
1

Nxb.CAND, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học,1999, sđ d.tr 128

9


tính mạng…)(1). Sau đó nó được chuyển dần sang hình thức phạt tiền, phạt

bằng tài sản hay còn gọi là chế độ phục kim, có lợi cho người bị thiệt hại. Lúc
đầu thì việc phạt tài sản do người bị thiệt hại quy định với tính chất là sự
cưỡng chế cá nhân sau dần là hình thức phạt tiền BTTH do Pháp quan thay
mặt Nhà nước áp dụng theo quy định và trình tự tố tụng nhất định (2). Vào thế
kỷ thứ V và thứ VI sau công nguyên, có một bộ luật rất điển hình là Bộ luật
Xalic (Lox Salica) của quốc gia Frăng được ban hành và đầu thế kỷ thứ VI,
quy định bảo vệ những gia súc lớn, người gây thiệt hại phải bồi thường những
thiệt hại cụ thể về tài sản như người ăn trộm chó săn bị phạt 15 xôlit

(3)

, ăn

trộm bê sữa bị phạt 3 xôlit….Bộ luật này còn quy định TNBTTH về sức khoẻ,
tính mạng, danh dự của người khác khi bị xâm phạm.Chẳng hạn, trong trường
hợp giết một người Frăng tự do, họ hàng của anh ta chia nhau chịu một nửa
vecghen (tiền phạt về tội giết người)(4). Như vậy ta thấy việc BTTH được quy
định trong các bộ luật cổ là rất nghiêm khắc và thường mang tính trừng phạt
nặng nề hơn là tính khắc phục hậu quả như luật ngày nay.
Ở Việt Nam thời kỳ trước, trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt hại
về tài sản, sức khoẻ, tính mạng cũng được pháp luật quy định từ rất sớm, như
ở trong Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ. Tuy nhiên những quy định về
chế định BTTH cũng mang nặng tính trừng phạt; Điều 579 của Quốc triều
hình luật có quy định: trong trường hợp người nhận giữ súc vật hoặc của cải
khác mà đem dùng hay tiêu đi thì phải bồi thường số tài sản đã tổn thất và
người gây hại còn phải phạt 80 trượng tính những của cải ấy trả cho người
có nợ, còn thừa thì trả cho người mắc nợ.Hay Điều 134 bộ luật Gia Long
cũng cấm các chủ nợ không được tự tiện bắt gia súc hay tài sản của con nợ và
không được bắt thân nhân của con nợ làm nô tì. Người gây thiệt hại có thể
1


Ts.Phùng Trung Tập, BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khoẻ và tính mạng, Nxb Hà Nội, sđ d.tr 11
Luận Án Ts Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra sđ d.tr 17
3
một loại tiền của người Frăng thời bấy giờ
4
Luận án Ts Luật học của Lê Mai Anh TNBTTH do người có thẩm quyền củ cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra, sđ d.tr15
2

10


phải nộp một số tiền phạt để tránh sự trả thù…. (5) Như vậy qua các chế định
của pháp luật phong kiến ta thấy chua có sự phân định rõ rang giữa các chế
định về trách nhiệm hình sự và và trách nhiệm dân sự, đồng thời thì trách
nhiệm dân sự bị hình sự hoá và mang nặng tính trừng phạt. Tuy nhiên, do
hoàn cảnh kinh tế-xã hội ngày càng thay đổi và cách nhận thức của con người
cũng thay đổi theo. Trong tiến trình phát triển đó thì luật pháp nước ta cũng
không nằm ngoài ngoại lệ và một trong sô những sự thay đổi của luật pháp
được thể hiện qua các chế định về TNBTTH hiện nay đã có sự khác biệt
nhiều so với chế định đó trong pháp luật phong kiến.
Trước khi có bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành, thì ở Việt Nam
cũng đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn giải quyết những
tranh chấp về BTTH do hành vi trái pháp luật gây ra. Một trong số những văn
bản đó là Thông tư số 173/1972/TT-UBTP. Thông tư này có nội dung và các
huớng dẫn tương đối đầy đủ về TNBTTH ngoài hợp đồng.
Khi bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì chế định BTTH được quy
định cụ thể tại Điều 310 của bộ luật này. Chế định này tiếp tục được kế thừa

và giữ nguyên giá trị khi được quy định lại tại Điều 307 bộ luật Dân sự 2005:
Trách nhiệm BTTH
1.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bội thường thiệt hại bù đắp tổn thất về tinh
thần.
2.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao
gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc
5

Xem. Quốc Triều Hình Luật

11


chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường
một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Như vậy ta có thể nêu ra định nghĩa về BTTH ngoài hợp đồng:“BTTH
ngoài hợp đồng là một HTTNDS nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại
phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn
thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.1
Điều kiện phát sinh TNBTTH: Qua nghiên cứu cho thấy hiện nay có
nhiều quan điểm khác nhau về điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng.
Không chỉ giữa các luật gia của các quốc gia khác nhau trên thế giới có các
quan điểm khác nhau về điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng mà các
luật gia trong nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có quan điểm khác
nhau về điều kiện phát sịnh TNBTTH ngoài hợp đồng. Theo bộ luật Dân sự

Pháp để xem xét TNBTTH của một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại thì phải căn cứ vào ba điều kiện sau: có thiệt hại; xuất hiện một sự kiện;
có mối quan hệ nhân quả giữ thiệt hại và sự kiện. Người gây thiệt hại phải
BTTH, nếu có đầy đủ ba điều kiện này. Theo luật dân sự của Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa thì để làm phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng phải có đủ bốn
điều kiện: phải có hành vi vi phạm pháp luật, phải có lỗi của người có hành vi
vi phạm pháp luật, phải có thiệt hại xảy ra, phải có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. Như vậy theo quan điểm của
các luật gia Pháp thì khi xác định điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp
đồng họ quan tâm đến sự kiện xảy ra trên thực tế còn đối với các luật gia
Trung Hoa thì họ quan tâm tới hành vi thực hiện khi sự kiện xảy ra, lỗi của
người thực hiện hành vi vi phạm làm nảy sinh thiệt hại và bồi thường thiệt
hại-các yếu tố thuộc về mặt khách quan và mặt chủ quan của một cấu thành
quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam nghiên cứu lịch sử lập pháp ở nước ta thì
thấy mỗi một giai đoạn khác nhau thì quan điểm về điều kiện phát sinh
1

Nxb.CAND, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, 1999, sđ d.tr 30

12


TNBTTH ngoài hợp đồng cũng có sự khác nhau. Ở bộ Quốc triều hình luật
không có quy định cụ thể về các điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp
đồng cụ thể nhưng thông qua các quy định của bộ luật này ta thấy điều kiện
phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng được xác định là: có thiệt hại trên thực tế
(có tổn thất về vật chất, có tổn thất về tinh thần), và người gây thiệt hại có lỗi.
Khi nước ta là thuộc địa của Pháp và chịu ảnh hưởng của pháp luật Pháp với
sự ra đời một số bộ luật; chẳng hạn Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 có quy
định về sự tổn hại trái vụ hay những “dân sự phạm”cùng “bán dân sự phạm” (1)

có quy định: “người nào gây thiệt hại đến ai bởi lỗi của mình thì người đó
buộc phải đền sự thiệt hại”(2) ( Điều 712, Bộ Dân luật Bắc kỳ, năm 1931).
Theo quy định này thì TNBTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ ba điều
kiện: có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có lỗi, và có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi của người gây thiệt hại và hậu quả thiệt hại xảy ra trên thực tế. Như
vậy theo quy định này thì một người khi gây thiệt hại trong trường hợp hợp
pháp cũng phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Chẳng hạn một người
trong trường hợp phòng vệ chính đáng: để bảo vệ lợi ích của bản thân mình,
chống trả lại hành vi của người khác đang làm tổn hại đến lợi ích của mình
như để chống lại người đang có hành vi tấn công mình thì gây ra một thiệt hại
với lỗi cố ý, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả,
có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Theo sách Dân luật tu trị, xuất bản tại Sài Gòn
1961, tác giả Phan Văn Thiết đã đưa ra năm điều kiện phát sinh TNBTTH
ngoài hợp đồng bao gồm: lỗi, sự thiệt hại, sự liên quan giữa thiệt hại và lỗi, sự
bắt chịu trách nhiệm, xác định lỗi của người bị thiệt hại. Theo đó thì ba điều
kiện đầu cũng giống với quy định của pháp luật nước ta hiện nay tuy nhiên nó
còn được hiểu ở mức độ sơ sài hơn (3). Điều kiện thứ tư nói rằng nếu tự do làm
1

Theo Ts Nguyễn Thanh Hồng trong LA Tiến sĩ luật học 2001, về TNBTTH trong các vụ tai nạn GTĐB thì
thực chất chúng là TNBTTH ngoài hợp đồng
2
Xem bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931
3
Nguyễn Thanh Hồng, Luận án Tiến sĩ Luật học, TNBTTH trong các vụ tai nạn GTĐB, sd d.tr21

13


mới phải chịu trách nhiệm còn nếu là ngẫu nhiên hay bất khả kháng thì không

phải chịu trách nhiệm. Quy định này thực chất là một trường hợp cụ thể được
miễn trừ TNBTTH của luật Dân sự nước ta hiện nay. Điều kiện thứ năm nói
rằng chỉ có TNBTTH nếu người bị thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi nhẹ. Quy
định như vậy sẽ không đảm bảo được nguyên tắc bồi thường toàn bộ trong
trường hợp nếu là hỗn hợp lỗi. Khi đó người bị thiệt hại cũng có lỗi, khi đó sẽ
không phát sinh TNBTTH. Nếu lỗi của họ không nhẹ, xác định được trong
việc gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại này rõ ràng nhỏ hơn thiệt hại do người
gây thiệt hại kia gây ra thì theo quy định này họ sẽ không được bù đắp phần
còn thiếu đáng lẽ họ được đền bù.Bộ luật Dân sự Sài Gòn 1972 chỉ xác định
ba điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng bao gồm: sự tồn tại thiệt hại,
lỗi và tương quan nhân quả. Trước khi có Bộ luật Dân sự 1995 thì Thông tư
số 173/1972/TT–UBTP hướng dẫn xét sử về TNBTTH ngoài hợp đồng, đã
quy định chi tiết bốn điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng tại Mục A:
cơ sở của TNBTTH ngoài hợp đồng .
Nói chung, TNBTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi có đầy đủ bốn
điều kiện, trong đó qua thực tiễn, cần chú ý một số điểm chủ yếu sau đây:
1. Phải có thiệt hại. Nếu là thiệt hại về vật chất, biểu hiện cụ thể là
thiệt hại về tài sản, hoặc là những chi phí và những thu nhập bị giảm sút hay
bị mất do có sự thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Thiệt hại ấy phải
thực sự đã xảy ra và có thể tính toán được.
Tuy nhiên, đối với loại thiệt hại như: hoa màu sắp được thu hoạch một
cách tương đối chắc chắn mà bị làm hư hỏng, hay súc vật sắp đến ngày đẻ mà
bị làm chết, thì có thể xem xét thiệt hại một cách thích đáng.
2- Phải có hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật có thể là một
việc phạm pháp về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, hoặc một vi phạm quy tắc sinh
hoạt xã hội. Do đó, hành vi của người vì thừa hành một nhiệm vụ trong

14



trường hợp cần thiết do luật pháp quy định mà gây thiệt hại, thì không coi là
trái pháp luật. Nhưng nếu hành vi của người đó vượt quá giới hạn luật pháp
quy định, thì lại coi là trái pháp luật.
3- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật; hay
ngược lại, hành vi trái pháp luật thực sự là nguyên nhân trực tiếp, hoặc là
nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại đã xảy ra. Có trường hợp,
tuy hành vi trái pháp luật không phải là nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại
xảy ra, nhưng lại có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại và được coi là quan
hệ nhân quả với thiệt hại.
4- Phải có lỗi của người gây thiệt hại. Người gây thiệt hại phải nhận
thức hoặc có thể nhận thức được rằng hành vi của mình là trái pháp luật và có
thể gây ra thiệt hại cho người khác: cố ý hay vô ý đều là có lỗi.
Đây là cơ sở của việc xét xử khi chưa có bộ luật dân sự. Khi bộ luật
dân sự ra đời thì tư tưởng này tiếp tục được kế thừa. Các nhà luật gia Việt
Nam hiện nay thừa nhận điều kiện phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng bao
gồm bốn điều kiện: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật, có lỗi của
chủ thể gây thiệt hại và có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu
quả xảy ra. Các yếu tố này sẽ được phân tích kỹ trong phần xác định điều
kiện phát sinh TNBTTH do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Ngoài ra thì
pháp luật Dân sự Việt Nam cũng đưa ra một số trường hợp ngoại lệ, trong đó
không có lỗi thì chủ thể gây thiệt hại cũng phải bồi thường thiệt hại như
trường hhợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
(Điều623) và bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều 624, Bộ
luật Dân sự năm 2005).
1.2. Nhận diện về TNBTTH do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng

15



1.2.1. Người tiêu dùng Theo từ điển Tiếng Việt thì “Tiêu dùng là sử
dụng của cải vật chất phục vụ cho sản xuất và đời sống”(1).Vậy NTD là những
người sử dụng của cải vật chất để phục vụ cho sản xuất và đời sống của họ.
Theo Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi NTD thì “NTD là người mua, sử
dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, hộ gia
đình và tổ chức”(2)( Điều 1 Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD). Như vậy theo
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi NTD thì phạm vi chủ thể ở đây có sự thu hẹp hơn
do quy định về mục đích tiêu dùng hàng hoá chỉ là áp dụng với trường hợp
tiêu dùng cho sinh hoạt hàng ngày của họ. Các hoạt động tiêu dùng hàng hoá
cho hoạt động sản xuất kinh doanh không được áp dụng theo pháp lệnh này.
Thuật ngữ NTD cũng được pháp luật của nhiều nước khác đề cập tới
nhưng mỗi nước có cách hiểu riêng về thuật ngữ này. Cụ thể:
Luật BVNTD ở Liên Xô cũ định nghĩa NTD là Công dân sử dụng,
mua đặt hàng hoặc có ý định mua sắm sản phẩm để sử dụng riêng. Như vậy
với định nghĩa này NTD chỉ được sử dụng với nghĩa rất hẹp, chưa tính đến
những người sử dụng các dịch vụ. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử mà việc đáp
ứng những nhu cầu của người dân ở giai đoạn này mới ở mức tối thiểu, mặt
khác các loại hình dịch vụ chưa có điều kiện phát triển nên việc xác định như
vậy là do hạn chế của lịch sử.
Luật BVNTD của Tiệp và Xlôvăc năm 1992 có định nghĩa; NTD là
người vì mình hoặc vì các thành viên của gia đình mình mua sắm sản phẩm
hoặc sử dụng dịch vụ để tiêu dùng cho mục đích cá nhân. Theo định nghĩa
này đã khắc phục được hạn chế về trường hợp những người sử dụng dịch vụ
phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà theo định nghĩa của Luật BVNTD của Liên
Xô cũ không có nhưng nó cũng có thiếu sót - những người của một tổ chức
không phải là các thành viên của gia đình khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ với
1
2


Nxb. Từ điển tiếng Việt, 2000, sđ d.tr 990
Điều 1, Pháp lệnh bảo vệ NTD số 13/1999/PL-UBTVQH

16


tư cách là tập hợp các cá nhân và sử dụng vì mục đích không phải là kinh
doanh, vì mục đích lợi nhuận cũng không được coi là NTD. Khi họ sử dụng
hàng hoá dịch vụ vì mục đích sinh hoạt mà bị thiệt hại thì áp dụng quy định
nào để BTTH cho họ; khi họ không sử dụng hàng hoá, dịch vụ với mục đích
kinh doanh, vì lợi nhuận.
Theo Luật Tiêu dùng của Cộng hoà Liên Bang Đức, NTD là người sử
dụng hàng hoá, dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của cá nhân hoặc của gia
đình, nói cách khác đó là NTD cuối cùng.
Theo Luật tiêu dùng của Cộng hoà Pháp thì NTD được hiểu không là
chủ doanh nghiệp, tức là thể nhân mua các sản phẩm và dùng các dịch vụ
không nhằm mục đích hoạt động nghề nghiệp, kiếm lợi nhuận để phục vụ cho
gia đình hoặc bản thân.
Theo Luật BVNTD của Đài Loan thì “NTD là người tham gia vào các
giao dịch, sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng” (Khoản 1,
Điều 2, Luật BVNTD của Đài Loan).(1)
Tóm lại tuy cách định nghĩa về thuật ngữ “NTD” của các nước khác
nhau có sự khác nhau nhưng đều thống nhất ở một điểm, và ta có thể định
nghĩa NTD phải là những người sử dụng hàng hoá dịch vụ vì mục đích tiêu
dùng cho cuộc sống cá nhân, không vì mục đích lợi nhuận.
1.2.2.Quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ NTD Việt Nam đã công nhận các quyền của NTD mà
Liên Hợp Quốc đã công nhận cho toàn thể NTD trên thế giới.Và được cụ thể
hoá qua các quy định của pháp luật.Bao gồm các quyền sau:
Điều 8

Người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; được cung cấp
các thông tin trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng
hoá, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ và môi trường
1

Xem luật bảo vệ NTD Đài Loan năm 1994, sửa đổi bổ sung năm2003 và 2005

17


khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về
tiêu dùng.
Điều 9
Người tiêu dùng có quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng
hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố
hoặc hợp đồng đã giao kết; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của
pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá,
dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng
cáo sai sự thật.
Điều 10
Người tiêu dùng có quyền đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; yêu cầu
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thực hiện đúng trách
nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Người tiêu dùng có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ thuộc nhu cầu thiết
yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và các
hàng hoá, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố.
Điều 11
Người tiêu dùng được thành lập tổ chức để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
Người tiêu dùng trực tiếp hoặc thông qua đại diện để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.1
Tóm lại khi tham gia vào quá trình tiêu dùng NTD được hưởng 8
quyền sau:

1

Xem pháp lệnh số 13/1999/PL-UBTVQH về bảo vệ quyền lợi NTD

18


Một là quyền được thoả mãn các nhu cầu cơ bản là quyền có được
những hàng hoá dịch vụ thiết yếu, nơi ở, chăm sóc sức khoẻ, nhu cầu tinh
thần… với giá cả hợp lý;
Hai là quyền được bảo đảm an toàn có nghĩa là quyền có được các
hàng hoá, dịch vụ an toàn, không gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ cả
trước mắt và lâu dài;
Ba là quyền được cung cấp thông tin có nghĩa là NTD được cung cấp
các thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ về các hàng hoá, dịch vụ để có
thể lựa chọn hàng hoá dịch vụ một cách khách quan, chính xác. Quyền này
còn bao gồm cả việc được bảo vệ chống lại các thủ đoạn dối trá, lừa đảo, các
quảng cáo lừa dối;
Bốn là quyền được lựa chọn tức là quyền của NTD được lựa chọn các
loại hàng hoá, dịch vụ mình cần một cách trung thực, không bị ép buộc, lừa
dối hoặc làm lạc hướng với chất lượng phù hợp với giá cả;
Năm là quyền được lắng nghe hay còn gọi là quyền được được đại
diện, quyền được bày tỏ ý kiến của NTD. Quyền được lắng nghe là quyền
được bày tỏ ý kiến của NTD đối với việc hoạch định chủ trương chính sách có

liên quan đến lợi ích của NTD; cả đối với cơ quan nhà nước và các tổ chức
sản xuất kinh doanh.Quyền này bao gồm cả việc được tham khảo ý kiến trực
tiếp hoặc thông qua người đại diện của mình về những vấn đề có liên quan
đến NTD;
Sáu là quyền được khiếu nại, quyền được bồi thường hay bồi hoàn
thiệt hại tức là khi NTD bị thiệt hại có quyền được yêu cầu nhà sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ phải bồi thường hoặc bồi hoàn thiệt hại vì tiêu dùng.
Nếu nhà sản xuất kinh doanh không BTTH hoặc BTTH không thoả đáng thì
họ có quyền khởi kiện ra toà yêu cầu toà giải quyết tranh chấp và có biện
pháp cưỡng chế các tổ chức, cá nhân vi phạm này phải thực hiện nghĩa vụ
BTTH;

19


Bảy là quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng là quyền đựơc bồi
dưỡng những kiến thức về tiêu dùng, kỹ năng tiêu dùng, phong cách tiêu dùng
lành mạnh và hợp lý để có thể chủ động và sáng suốt trong việc lựa chọn, có
được cách tiêu dùng hợp lý; có thể tự bảo vệ mình và góp phần phát triển xã
hội;
Tám là quyền được sống trong một môi trường trong sạch và bền
vững là quyền được sống trong một môi trường an toàn lành mạnh, được sống
xứng đáng; không bị đe doạ tới hạnh phúc của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Như vậy quyền lợi NTD là những lợi ích NTD được công nhận và
được đảm bảo thực hiện trong quá trình tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.
1.2.3.Hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
Ngày nay, Khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ đã tạo ra
nhiều công nghệ mới, vật liệu mới. Các sản phẩm này đã được ứng dụng rộng
rãi vào quá trình sản xuất và đã tạo ra nhiều sản phẩm mới đa dạng về chủng
loại, mẫu mã, và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu cho NTD. Với sự đa

dạng của hàng hoá, dịch vụ và khả năng quản lý còn hạn chế của Nhà nước
nên nhiều nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thiếu đứng đắn, bất
chấp đạo đức nghề nghiệp để chạy theo lợi nhuận; họ đã không tuân thủ đầy
đủ các quy định của pháp luật và xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng.
Cụ thể:
Hành vi gian lận về tiêu chuẩn đo lường, về chất lượng hàng hoá, giá
cả…
Hành vi sản xuất hàng giả, hàng nhái;
Hành vi sản xuất những sản phẩm có thể gây nguy hại trực tiếp đến
tính mạng, sức khoẻ….của NTD;
Hành vi lừa dối NTD: có thông tin, quảng cáo thiếu chính xác, sai sự
thật về hàng hoá, dịch vụ gây phương hại đến lợi ích của NTD- tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín….

20


Như vậy hành vi xâm phạm quyền lợi NTD là: các hành vi vi phạm
pháp luật không đáp ứng đầy đủ các quyền lợi của NTD theo quy định của
pháp luật và có thể gây phương hại đến quyền lợi của NTD.
1.2.4. TNBTTH do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc
tế ngày nay thì nhu cầu của NTD ngày càng được đáp ứng tốt hơn với các mặt
hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú. Đồng thời nó cũng chứa
đựng sự phức tạp và khả năng bị xâm phạm quyền lợi lớn hơn khi mà năng
lực quản lý của nhà nước còn nhiều hạn chế. Vì vậy khi quyền lợi NTD bị
xâm phạm thì cần có khung pháp lý để đòi lại quyền lợi của họ và nó cũng
tạo ra chế tài thích đáng cho các nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho NTD. Như vậy TNBTTH do vi
phạm quyền lợi NTD là một trách nhiệm pháp lý do nhà nước trực tiếp điều

chỉnh bằng các quy định pháp luật. Vì vậy nó là một TNDS ngoài hợp đồng.
Do đó từ định nghĩa về TNBTTH ngoài hợp đồng ta có thể khái quát:
TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD là một loại TNDS ngoài hợp đồng, bao
gồm TNBTTH về vất chất và TNBTTH về tinh thần; phát sinh do hành vi vi
phạm pháp luật của các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; có lỗi;
gây thiệt hại cho NTD về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm,
uy tín.

1.3. Phân biệt TNBTTH do vi phạm quyển lợi NTD trong hợp đồng
và ngoài hợp đồng
Việc phân biệt hai loại TNBTTH này có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý
luận và thực tiễn vì tuỳ vào TNBTTH là TNBTTH trong hợp đồng hay
TNBTTH ngoài hợp đồng mà có cách xác định trách nhiệm của chủ thể phải

21


bồi thường, thủ tục pháp lý khác nhau khi có sự vi phạm xảy ra…Để phân
biệt hai hình thức TNBTTH này ta dựa vào các tiêu chí sau:
Một là về định nghĩa: TNBTTH do vi phạm hợp đồng là TNDS phát
sinh trong trường hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ các điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây
thiệt hại cho bên kia thì phải BTTH; còn TNBTTH ngoài hợp đồng là TNDS
phát sinh do các hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại. Có nghĩa là nó phát
sinh dưới sự tác động trực tiếp của QPPL, không có sự dự liệu hay thoả thuận
trước của các chủ thể.
Hai là từ định nghĩa ta có thể phân biệt hai loại TNBTTH này ở một
số đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất và cơ bản nhất là ý chí của các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ này. Trong TNBTTH do vi phạm hợp đồng thì các chủ thể có

quan hệ với nhau qua một hợp đồng, các chủ thể này đã dự liệu và thoả thuận
trước về những thiệt hại và mức BTTH các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bồi thường (điều 401 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 402 bộ Luật Dân sự
năm2005). Còn đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thì giữa các chủ thể của
quan hệ pháp luật này trước đó chưa hề có quan hệ hợp đồng với nhau hoặc
nếu có quan hệ thông qua một hợp đồng thì nội dung của hợp đồng này không
liên quan đến thiệt hại phát sinh và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở đây.
Việc xảy ra thiệt hại là ngoài ý chí của các chủ thể. Vì vậy hai bên chỉ đặt ra
vấn đề thoả thuận về BTTH và mức BTHH khi sự kiện gây thiệt hại đã xảy ra.
Đây là đặc điểm có tính tiên quyết đến các đặc điểm khác của hai hình thức
BTTH này. Ví dụ: Chị B là chủ một cửa hàng bán thực phẩm đông lạnh. Cửa
hàng chị luôn cam kết với mọi khách hàng hàng là bán hàng hoá đảm bảo chất
lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm. Bà B là một khách hàng quen của cửa
hàng chị B, tin tưởng vào uy tín của chị. Ngày 02/02/2009 bà đã mua 1kg tôm
sú đông lạnh tại cửa hàng chị B. Khi về bỏ ra chế biến thì phát hiện tôm đã bị

22


rữa ở bên trong. Như vậy theo thoả thuận của hợp đồng mua bán giữa bà B và
chị A thì bà B có quyền yêu cầu chị A đổi sản phẩm khác đảm bảo chất lượng,
yêu cầu BTTH nếu có…theo thoả thuận của hợp đồng mua bán đã giao kết.
Tuy nhiên trong trường hợp nếu bà B không phát hiện ra tôm bị hỏng, vẫn
chế biến cho cả nhà ăn và cả gia đình bà đều có dấu hiệu bị ngộ độc thực
phẩm và phải vào bệnh viện cấp cứu. Xét nghiệm cho thấy gia đình bà B ăn
phải thực phẩm bị biến chất và bị nhiểm khuẩn. Khi đó, không phát sinh
TNBTTH theo hợp đồng mà phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng do chị A đã
bảo quản tôm không tốt, để quá hạn sử dụng….dẫn đến gây thiệt hại cho gia
đình bà B. Do đó chị A phải có TNBTTH toàn bộ chi phí: viện phí, tiền
thuốc… để chữa trị cho gia đình bà B.Qua ví dụ này ta thấy giữa bà B và chị

A trước đó đã có một hợp đồng mua bán nhưng trong hợp đồng không có điều
khoản thoả thuận về việc BTTH do thực phẩm không đảm bảo chất lượng gây
ra nhưng TNBTTH này đã được Điều 630 Bộ luật Dân sự quy định. Vì vậy
giữa bà B và chị A phát sinh TNBTTH ngoài hợp đồng do vi phạm quyền lợi
NTD. Việc định mức BTTH của các chủ thể chỉ phát sinh sau khi có sự kiện
thiệt hại xảy ra. Qua ví dụ này chúng tôi còn muốn đề cập đến tình trạng đáng
báo động do vi phạm về VSATTP hiện nay của các nhà sản xuất, kinh doanh
thực phẩm. NTD mất tiền mua được những hàng hoá không đảm bảo chất
lượng thậm chi còn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng của họ. Vì vậy
nhà nước cần tạo khung pháp lý và có các biện pháp kiểm tra nghiêm ngặt các
cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa này để đảm bảo cung cấp cho NTD
những thực phẩm đảm bảo chất lượng và an toàn. Bên cạnh đó có các chương
trình giáo dục cho NTD các kiến thức cần thiết về tiêu dùng.
Đặc điểm thứ hai là trong trường hợp thiệt hại do nhiều người gây ra
thì xác định TNBTTH liên đới hay riêng rẽ từ đó ảnh hưởng lớn đến việc thực
hiện nghĩa vụ BTTH. Đối với trường hợp do vi phạm hợp đồng thì chỉ phát
sinh TNBTTH liên đới khi trước đó các chủ thể trong hợp đồng này đã phải

23


có thoả thuận trước với nhau sẽ liên đới hay không liên đới về trách nhiệm
BTTH, và điều này phải đựơc ghi nhận trong hợp đồng. Còn trong TNBTTH
ngoài hợp đồng thì không nhất thiết các chủ thể này phải có sự thoả thuận
thống nhất từ trước mà chỉ cần có sự thống nhất giữa các chủ thể này về mặt
hành vì hoặc hậu quả xảy ra hoặc đồng thời có sự thống nhất cả hai yếu tố
này.
Đặc điểm thứ ba là việc xác định lỗi: Ta thấy trách nhiệm BTTH do vi
phạm hợp đồng nói chung và TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD trong hợp
đồng nói riêng có thể phát sinh cả trong trường hợp chủ thể BTTH ở đây

không cần có lỗi, tức là việc gây thiệt hại có thể do hành vi của người khác
nếu các bên trong hợp đồng có sự thoả thuân về TNBTTH khi có thiệt hại xảy
ra; còn TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD ngoài hợp đồng chỉ xuất hiện
khi chủ thể gây thiệt hại có lỗi.
Đặc điểm khác biệt thứ tư mà ta có thể phân biệt được hai hình thức
TNBTTH này là thời điểm phát sinh TNBTTH. Trong việc TNBTTH do vi
phạm hợp đồng thì thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm phát sinh
TNBTTH là khác nhau ( thời điểm phát sinh nghĩa vụ là thời điểm hợp đồng
có hiệu lực, còn thời điểm phát sinh TNBTTH là thời điểm xảy ra sự vi phạm
các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng và gây thiệt hại cho chủ thể kia);
còn đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thì hai thời điểm này dường như xuất
hiện đồng thời. Khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm và dẫn đến có thiệt hại
xảy ra trên thực tế thì phát sinh TNBTTH của các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh đã có hành vi xâm hại đó.
Ngoài ra còn có một số điểm khác biệt giữa hai hình thức này đó là
mức tiền bồi thường, hình thức bồi thường… chẳng hạn đối với trường hợp vi
phạm hợp đồng ngoài tiền bồi thường thiệt hại hai bên còn có thể quy định
mức tiền phạt vi phạm mà không cần căn cứ vào thiệt hại thực tế xảy ra, còn
đối với TNBTTH ngoài hợp đồng thì không có chế định này.

24


1.4. Ý nghĩa các quy định của pháp luật về TNBTTH do vi phạm
quyền lợi NTD
Tiêu dùng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì thị trường được điều tiết bởi
chính tiêu dùng. Nó là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động đó là đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người cả về vất chất và tinh thần. Tuy
nhiên do nước ta mới bước và nền kinh tế thị trường, mở cửa nền kinh tế để
hội nhập với thế giới; mặt khác nước ta xuất phát điểm từ một nước nông

nghiệp lạc hậu vì vậy kinh nghiệm quản lý còn nhiều yếu kém, người dân còn
chưa bắt kịp với các xu hướng và kiến thức của thời đại đặc biệt là kiến thức
về tiêu dùng. Lợi dụng tình trạng đó, nhiều nhà sản xuất, kinh doanh thiếu
đứng đắn, chạy theo lợi nhuận đã bất chấp đạo đức nghề nghiệp nên có nhiều
hành vi cung cấp sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho NTD không đảm bảo gây
phương hại đến lợi ích của NTD, và gây thiệt hại cho họ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự…Vì vậy, những quy định của pháp luật về TNBTTH do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng là công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ
quyền lợi của NTD được liên hiệp quốc trong đó có Việt Nam công nhận đặc
biệt là quyền được khiếu nại và BTTH. Với quy định pháp lý như vậy, pháp
luật đã góp phần tạo hành lang pháp lý cho NTD thực hiện quyền này của
mình. Đồng thời đây cũng là một biện pháp mang tính răn đe các nhà sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải tuân thủ các quy định của pháp luật
về quy trình sản xuất, lưu thông hàng hoá nếu không muốn bị áp dụng các hậu
quả bất lợi khi gây phương hại đến lợi ích của NTD. Với việc đảm bảo quyền
và lợi ích của NTD, nó góp phần đảm bảo an toàn xã hội, thúc đẩy sản xuất
phát triển và nâng cao đời sống cho NTD; vì để đảm bảo chỗ đứng của mình
trên thị trường thì các nhà sản xuất, kinh doanh hang hoá dịch vụ không
ngừng phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch

25


×