Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hoàn thiện công tác lập kế hoạch trong kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.91 KB, 78 trang )

Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

MỤC LỤC
Hình 2: Đồ thị biểu hiện mối quan hệ giữa rủi ro và chi phí kiểm toán.................................................19
4.4 Trình tự đánh giá rủi ro kiểm toán............................................................................................................ 21
5.2.1 Nội dung tìm hiểu:.......................................................................................................................... 25
5.2.2 Các phương pháp tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ......................................................................26
5.2.3 Mô tả về hệ thống Kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc................................................................26
5.3 Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát............................................................................................................... 27
7.1 Khái niệm về chất lượng kiểm toán......................................................................................................... 29
7.2 Kiểm soát chất lượng trong giai đoạn lập kế hoạch..................................................................................30
2. Lập kế hoạch kiểm toán:........................................................................................................................................38
2.1 Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán................................................................................................................... 38
3. Thực hiện kiểm toán...............................................................................................................................................39
3.1 Kiểm tra các hoạt động kiểm soát........................................................................................................... 39
3.2 Thực hiện các thủ tục phân tích.............................................................................................................. 39
3.3 Kiểm tra chi tiết....................................................................................................................................... 40
4. Hoàn thành cuộc kiểm toán...................................................................................................................................41
2. Quy trình lập kế hoạch kiểm toán công ty niêm yết do AAC thực hiện.........................................................42
Hình 6: Sơ đồ quy trình lập kế hoạch kiểm toán do công ty AAC thực hiện..............................................43
3.5 Tham chiếu cuộc kiểm toán năm trước.................................................................................................... 50
4. Kế hoạch kiểm toán.................................................................................................................................................51
4.1 Kế hoạch kiểm toán chiến lược................................................................................................................ 51
4.2. Lập kế hoạch tổng thể............................................................................................................................. 51
4.3. Chương trình kiểm toán.......................................................................................................................... 52
4.5. Kiểm tra kế hoạch kiểm toán.................................................................................................................. 53
4.5.1 Công ty đánh giá chất lượng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán báo cáo tài chính....................54
4.5.1.1 Kiểm soát chất lượng tại đơn vị được kiểm toán...........................................................................54
4.5.1.2 Kiểm soát chất lượng tại công ty AAC.......................................................................................... 55



CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN..............................56
CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN BÁO CÁO................................56
TÀI CHÍNH CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT DO CÔNG TY.............................................56
KIỂM TOÁN VÀ KẾ TOÁN AAC THỰC HIỆN..........................................................56
I. NHẬN XÉT VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY
TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT DO CÔNG
TY THỰC HIỆN........................................................................................................ 56
1. Những điều mà công ty đã đạt được....................................................................................................................56
2. Những hạn chế của công ty trong lập kế hoạch kiểm toán BCTC các công ty niêm yết.............................57

II. MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH
KIỂM TOÁN BCTC CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT DO CÔNG TY AAC THỰC HIỆN.. .59

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kiểm toán là một hoạt động độc lập, đây là một ngành nghề mà đầu ra ảnh
hưởng sâu rộng đến tính minh bạch của thông tin tài chính trong nền kinh tế nói chung và thị
trường vốn nói riêng. Kiểm toán báo cáo tài chính với mục tiêu là giúp cho kiểm toán viên và
công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn
mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và
có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không. Để làm được điều
này, bất kỳ một cuộc kiểm toán nào cũng được thực hiện theo trình tự thống nhất, trong đó lập
kế hoạch kiểm toán là bước đầu tiên của quy trình kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán bao gồm

các nội dung công việc được kiểm toán theo phương pháp phù hợp với chi phí về vật chất,
thời gian và số lượng kiểm toán viên cần thiết.
Kế hoạch kiểm toán đúng đắn là cơ sở để kiểm toán viên thu thập bằng chứng có giá
trị, góp phần đưa ra các nhận xét xác đáng về thực trạng hoạt động của đơn vị được kiểm
toán, giữ vững và nâng cao uy tín, hình ảnh của công ty kiểm toán đối với khách hàng. Vì
vậy, việc nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn công tác lập kế hoạch kiểm toán để tìm ra
các vấn đề tồn tại và đưa ra hướng khắc phục là một điều cần thiết
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 300 và Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 300 quy
định và hướng dẫn cụ thể các công việc cần tiến hành trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Thực tế, các công ty kiểm toán sẽ căn cứ vào quy mô, đặc điểm… của từng khách hàng để có
kế hoạch kiểm toán.
Một trong những đối tượng bắt buộc phải công bố Báo cáo tài chính đã được kiểm
toán là các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán. Qua quá trình xét duyệt khắc khe, với
những điều kiện nhất định, hiện nay có rất ít công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán
niêm yết. Trong giai đoạn nền kinh tế khó khăn như hiện nay, doanh nghiệp có nhiều động cơ
để chế biến số liệu, sức ép và rủi ro đối với các công ty kiểm toán niêm yết là rất lớn. Điều
này đòi hỏi các công ty kiểm toán cần có chính sách, quy trình đánh giá rủi ro chặt chẽ ngay
từ khâu chấp nhận khách hàng. Thêm vào đó, các công ty niêm yết bắt buộc kiểm toán BCTC
bán niên nên công tác lập kế hoạch kiểm toán nhóm khách hàng này có những điểm khác biệt
hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
Nắm bắt được vai trò và ý nghĩa của việc lập kế hoạch trong kiểm toán báo cáo tài
chính và trải qua quá trình thực tập tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC để biết
được thực tế công tác lập kế hoạch trong kiểm toán tại công ty, kết hợp với việc tham khảo
các tài liệu và sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn TS. Đoàn Thị Ngọc Trai và các anh
chị trong công ty kiểm toán, em đã chọn đề tài nghiên cứu “Hoàn thiện công tác lập kế hoạch
trong kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại công ty TNHH kiểm toán và kế
toán AAC”.
Đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2: Thực tế công tác lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính của

các công ty niêm yết tại công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm
toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH
KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
I. QUY TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA GIAI
ĐOẠN LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
1. Quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
Để đảm bảo cuộc kiểm toán diễn ra thuận lợi, hiệu quả, tiết kiệm được thời gian
và chi phí cũng như thu thập đầy đủ những bằng chứng thích hợp và đầy đủ, làm căn
cứ cho việc đưa ra ý kiến cuối cùng của KTV thì cuộc kiểm toán nên tuân thủ theo quy
trình chung – quy trình kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC).
Nhìn chung, quy trình kiểm toán BCTC doanh nghiệp gồm 3 giai đoạn:
 Lập kế hoạch kiểm toán
Trong giai đoạn này, KTV và công ty kiểm toán cần hoàn thành những công việc
trọng tâm sau:
+ Khảo sát và nắm khái quát tình hình của đơn vị được kiểm toán
+ Nghiên cứu, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ
+ Lập kế hoạch chiến lược và kế hoạch chi tiết của cuộc kiểm toán
+ Chuẩn bị tổ chức, nhân sự phục vụ cuộc kiểm toán
+ Thiết kế chương trình kiểm toán

 Thực hiện kiểm toán
Đây là quá trình KTV căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được phê duyệt, sử dụng
một cách thích hợp các phương pháp kiểm toán cho từng đối tượng kiểm toán, cho
từng nội dung và tình huống cụ thể để thu thập bằng chứng thích hợp và xác thực, hình
thành nên các đánh giá và kết luận kiểm toán.
 Kết thúc kiểm toán
Đây là giai đoạn soát xét lại các công việc đã thực hiện và hoàn thiện hồ sơ làm
việc để đưa ra sản phẩm kiểm toán-chính là báo cáo kiểm toán và thư quản lí (nếu có).
2. Vai trò của giai đoạn lập kế hoạch trong kiểm toán Báo cáo tài chính
2.1 Khái niệm lập kế hoạch kiểm toán
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (CMKTVN) số 300 nêu rõ:
“Kế hoạch kiểm toán là những định hướng cơ bản của cuộc kiểm toán dựa trên
hiểu biết của kiểm toán viên (KTV) về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng
và trọng tâm cuộc kiểm toán”
Theo định nghĩa trên thì việc lập kế hoạch trước hết đó là tìm hiểu về “tình hình
hoạt động kinh doanh của khách hàng”. Trước khi thực hiện cuộc kiểm toán, KTV
phải có hiểu biết biết đầy đủ về tình hình kinh doanh của khách hàng nhằm đánh giá,
phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động có ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của đơn vị.
Để đưa ra được “những định hướng cơ bản” tức là các kế hoạch, chương trình
kiểm toán thì sau khi tìm hiểu rõ về khách hàng, KTV phải xác định được trọng tâm
của cuộc kiểm toán đó là những khoản mục, chu trình có rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm
soát mà KTV đánh giá là cao.
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

1


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 300 cũng nêu ra rằng:
“Lập kế hoạch có nghĩa là việc phát triển một chiến lược tổng thể và một phương
pháp tiếp cận với chi tiết, tính chất, thời gian dự tính và nội dung của một cuộc kiểm
toán”
Nói khác đi, lập kế hoạch kiểm toán chính là đưa ra một lịch trình cụ thể các công
việc cần thực hiện khi kiểm toán một khách hàng.
2.2 Vai trò của giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán BCTC
Một cuộc kiểm toán thành công là sự kết hợp của nhiều nhân tố: sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, việc thực hiện đúng quy trình và thủ tục, …Như đã trình bày ở trên, mỗi cuộc
kiểm toán đều trải qua 3 giai đoạn, và với mỗi giai đoạn, KTV thực hiện các bước
công việc khác nhau nhưng tựu chung lại đều nhằm hướng đến mục tiêu là đưa ra ý
kiến xác đáng về BCTC của đơn vị được kiểm toán.

Lập kế
hoạch kiểm
toán

Thực hiện
kiểm toán

Kết thúc
kiểm toán

Hình 1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán BCTC
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán. Chuẩn mực
kiểm toán quốc tế ISA 300 cũng đã nhấn mạnh việc lập kế hoạch kiểm toán một cách
hợp lý đảm bảo được rằng những lĩnh vực quan trọng trong cuộc kiểm toán đó sẽ được
quan tâm một cách hợp lí, nhận biết được các vấn đề phát sinh và cuối cùng công tác

kiểm toán được hoàn thành một cách nhanh gọn.
Lập kế hoạch cũng hỗ trợ việc phân công công việc một cách hợp lí cho những
người tham gia vào cuộc kiểm toán và việc phối hợp công việc giữa họ được tiến hành
tốt hơn.
Việc lập kế hoạch kiểm toán đã được quy định rõ trong các chuẩn mực kiểm toán
(CMKT) hiện hành, CMKT thứ tư trong 10 CMKT được thừa nhận rộng rãi (GAASGenerally Accepted Auditing Standards) đòi hỏi “công tác kiểm toán phải được lập kế
hoạch đầy đủ và các trợ lý, nếu có, phải được giám sát đúng đắn”. Đoạn 2 trong
CMKTVN số 300 cũng nêu rõ “KTV và công ty kiểm toán phải lập kế hoạch kiểm toán
để đảm bảo cuộc kiểm toán tiến hành một cách hiệu quả”. Như vậy việc lập kế hoạch
kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị
những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là
nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi
hỏi các KTV phải tuân theo đầy đủ, nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có
hiệu quả và chất lượng.
Lập kế hoạch kiểm toán luôn giữ vị trí then chốt trong việc tiến hành một cuộc
kiểm toán đạt hiệu quả cao. Lập kế hoạch kiểm toán là bước công việc quan trọng, chi
phối chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Vai trò của giai đoạn
này được thể hiện qua một số điểm sau:
 Kế hoạch kiểm toán giúp KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ
và thích hợp làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các BCTC, từ đó giúp các
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

2


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

KTV hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công

việc và giữ được uy tín đối với khách hàng. Qua đó nâng tầm chất lượng của công ty
kiểm toán, tạo ra được các ưu thế cạnh tranh với các công ty kiểm toán khác.
 Kế hoạch kiểm toán giúp các KTV phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối
hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên
ngoài... Đồng thời qua sự phối hợp đồng bộ đó kế hoạch kiểm toán không chỉ giúp
công việc kiểm toán tiến hành thuận lợi, đảm bảo hoàn thành các chương trình đã lập
mà trên cơ sở còn giảm chi phí hợp lý cho các cuộc kiểm toán. Hiệu quả của cuộc
kiểm toán tăng lên đáng kể khi có một bản kế hoạch được xây dựng chu đáo, đảm bảo
tính đầy đủ và hợp lý.
 Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra
những bất đồng đối với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch đã lập, KTV thống nhất với
các khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng
như trách nhiệm mỗi bên....nhằm tạo mối quan hệ tốt với khách hàng và tránh xảy ra
những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai bên.
 Kế hoạch kiểm toán đưa ra các chương trình kiểm toán cụ thể, nội dung các
bước công việc cần thực hiện. Từ bản kế hoạch kiểm toán công ty kiểm toán sẽ tính
toán được chi phí hợp lý của cuộc kiểm toán từ đó có thể đưa ra mức phí kiểm toán mà
khách hàng phải trả, đảm bảo có lợi nhuận cho mình nhưng phù hợp với các chi phí đã
bỏ ra. Đây là một điểm rất quan trọng trong việc ký kết các hợp đồng kiểm toán.
 Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã được lập, KTV có thể kiểm soát và
đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện. Từ đó có thể đưa ra các
ý kiến, phương án để nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán.
Thực tiễn hoạt động kiểm toán quốc tế và cả trong nước cho thấy kế hoạch kiểm
toán được xây dựng đầy đủ và thích hợp là một trong những nhân tố hàng đầu đưa đến
sự thành công của cuộc kiểm toán cũng như dẫn đến sự thành công của các công ty
kiểm toán.
2.3 Yêu cầu trong giai đoạn lập kế hoạch
Với vị trí và vai trò quan trọng trong quy trình kiểm toán BCTC, nên giai đoạn
lập kế hoạch phải đạt được một số yêu cầu nhất định nhằm đảm bảo kế hoạch kiểm
toán được lập một cách cụ thể, đầy đủ và thích hợp để làm tiền đề, định hướng cho cả

cuộc kiểm toán. Yêu cầu đầu tiên đối với một bản kế hoạch kiểm toán đó là nó được
lập dựa trên những hiểu biết về hoạt động, tình hình kinh doanh của khách hàng. Theo
CMKTVN mục 10 nêu rõ “ khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải hiểu biết
về hoạt động của đơn vị được kiểm toán để nhận biết các sự kiện, nghiệp vụ có thể
ảnh hưởng trọng yếu đên BCTC”.
Kế hoạch kiểm toán được lập dựa trên sự hiểu biết của KTV về khách hàng, nó
phải đảm bảo được các yêu cầu về nội dung để thực sự là kim chỉ nam cho cuộc kiểm
toán.Theo CMKTVN số 300 phần nội dung quy định:
“Kế hoạch kiểm toán phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán
phải được lập một cách thích hợp nhằm đảm bảo bao quát hết khía cạnh trọng yếu
của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm ẩn; và đảm bảo
cuộc kiểm toán được hoàn thành đúng thời hạn. Kế hoạch kiểm toán trợ giúp kiểm
toán viên phân công việc cho trợ lý kiểm toán và phối hợp với kiểm toán viên và các
chuyên gia khác về công việc kiểm toán.”
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

3


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Như vậy lập kế hoạch kiểm toán là yêu cầu bắt buộc đối với mọi cuộc kiểm
toán. Nội dung của kế hoạch phải chỉ rõ trọng tâm của cuộc kiểm toán, đồng thời vạch
ra phương hướng, cách thức giải quyết các vấn đề trọng tâm đó, đảm bảo tính hữu hiệu
của cuộc kiểm toán là phát hiện các sai phạm trọng yếu.
Nội dung của kế hoạch kiểm toán phải thể hiện tính đầy đủ và hữu hiệu tuy, đồng
thời nó cũng phải thể hiện tính thích hợp. CMKTVN số 300 mục 09 thể hiện “phạm vi
kế hoạch kiểm toán sẽ thay đổi tuỳ theo quy mô khách hàng, tính chất phức tạp của

công việc kiểm toán, kinh nghiệm và những hiểu biết của KTV về đơn vị và hoạt động
của đơn vị được kiểm toán”. Đây là nội dung mang tính thực tiễn cao, trong quá trình
lập kế hoạch, dựa vào tình hình thực tế mà KTV lập nên bản kế hoạch tránh các chi phí
bất hợp lý, các hoạt động chồng chéo, trùng lặp và không hiệu quả. Yêu cầu này nhằm
đảm bảo mục đích lợi nhuận hợp lý công ty kiểm toán, chất lượng và tính hiệu quả của
cuộc kiểm toán trên phương diện kế hoạch.
3. Trình tự giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán thường bao gồm hai bước:
 Giai đoạn tiền kế hoạch (hay chuẩn bị kế hoạch kiểm toán)
Giai đoạn tiền kế hoạch là quá trình thu thập những thông tin liên quan đến khách
hàng nhằm giúp KTV có cái nhìn tổng quát về khách hàng trước khi quyết định ký kết
hợp đồng kiểm toán.
 Lập kế hoạch kiểm toán:
Lập kế hoạch kiểm toán là quá trình thiết kế trình tự công việc một cách hợp lý
nhất để đem lại hiệu quả cho cuộc kiểm toán. Quá trình lập kế hoạch thường bao gồm
những công việc như: tìm hiểu khách hàng, tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, xác
định mức trọng yếu và đánh giá rủi ro kiểm toán để lập kế hoạch và thiết kế chương
trình kiểm toán.
II. TRÌNH TỰ LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN
1. Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
1.1 Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán
Trong một lĩnh vực phải chịu nhiều cạnh tranh như nghề kiểm toán, để có và giữ
được khách hàng tuy có những khó khăn, nhưng KTV vẫn cần phải thận trọng khi
quyết định tiếp nhận khách hàng. Bởi lẽ, rủi ro có thể phải gánh chịu trách nhiệm pháp
lí của KTV rất cao, do đó nếu nhận kiểm toán cho những khách hàng thiếu trung thực,
hoặc thường tranh luận về phạm vi kiểm toán và giá phí, hoặc nếu vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, KTV có thể sẽ gặp nhiều bất lợi nghiêm trọng trong tương lai và uy tín,
hình ảnh của công ty kiểm toán ít nhiều cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, trước khi quyết
định chấp nhận hoặc duy trì khách hàng, Ban Giám đốc công ty kiểm toán cần thực
hiện các công việc sau đây:

1.1.1 Xem xét tính độc lập của công ty kiểm toán
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của KTV và công ty kiểm toán, là một
trong 7 chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất của nghề kiểm toán. Các thông tin trên
BCTC sau kiểm toán có ảnh hưởng, liên quan đến nhiều đối tượng, vì vậy đòi hỏi
thông tin đó phải trung thực, khách quan. Điều này đòi hỏi những người thực hiện
kiểm toán phải có tính độc lập với khách hàng được kiểm toán cụ thể, bao gồm cả độc
lập về tư tưởng và độc lập về hình thức. Độc lập về tư tưởng là việc KTV đưa ra ý kiến
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

4


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá chuyên nghiệp,
cho phép KTV hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề
nghiệp. Độc lập về hình thức là KTV không có quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh
hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập hoặc hiểu là tính chính trực,
khách quan và thận trọng nghề nghiệp của KTV không được duy trì.
1.1.2 Xem xét khả năng phục vụ tốt khách hàng.
Khách hàng tiềm năng của công ty kiểm toán có thể rất nhiều, tuy nhiên để thực
hiện được một hợp đồng kiểm toán thành công ngoài sự đồng ý từ phía khách hàng thì
công ty kiểm toán phải đánh giá đúng năng lực của mình. Vì hoạt động kiểm toán có
rủi ro cao, công ty kiểm toán phải có trách nhiệm trước pháp luật về những ý kiến của
mình đưa ra nên tuỳ quy mô đối tượng khách hàng, tính chất công việc đối chiếu với
năng lực khả năng hiện có thì công ty kiểm toán mới ra quyết định có thực hiện cuộc
kiểm toán hay không. Đây cũng là một yêu cầu để duy trì hoạt động lâu dài của công
ty kiểm toán, vì chỉ có phục vụ tốt khách hàng, đánh giá đúng năng lực và tích cực

hoàn thiện thì mới đủ khả năng để cạnh tranh và gây dựng uy tín, chất lượng trong
cung cấp dịch vụ “niềm tin”.
1.1.3 Tính liêm khiết của ban quản trị (ban Giám đốc)của đơn vị được kiểm
toán
Theo CMKTVN số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”, tính liêm khiết của
ban quản trị là bộ phận cấu thành then chốt của môi trường kiểm soát, đây là nền tảng
cho tất cả các bộ phận khác của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy tính liêm khiết của
ban quản trị rất quan trọng đối với quy trình kiểm toán bởi lẽ ban quản trị có thể phản
ảnh sai các nghiệp vụ hoặc giấu giếm các thông tin dẫn tới các sai phạm trọng yếu trên
BCTC. CMKTVN số 240 “Gian lận và sai sót”, nhấn mạnh tầm quan trọng về tính
chính trực của ban quản trị, ảnh hưởng của nó tới môi trường kiểm soát như là nhân tố
rủi ro ban đầu của việc báo cáo gian lận các thông tin tài chính. Nếu ban quả trị thiếu
liêm khiết, KTV không thể dựa vào bất cứ giải trình nào của ban quản trị cũng như
không thể dựa vào các sổ sách kế toán. Thêm vào đó, ban quản trị đứng hàng đầu trong
việc tạo ra một môi trường kiểm soát vững mạnh. Những nghi ngại về tính liêm khiết
của ban quản trị có thể nghiêm trọng đến mức KTV kết luận rằng cuộc kiểm toán
không thể thực hiện được.
1.1.4 Khả năng hệ thống kế toán cung cấp đầy đủ bằng chứng về NVKT phát
sinh
Theo CMKTVN số 500 mục 02 quy định “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán
phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến
của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”. Vì vậy KTV muốn đưa ra
được ý kiến của mình thì phải có bằng chứng kiểm toán đầy đủ tương ứng, mà nguồn
bằng chứng chủ yếu (như chứng từ, sổ sách kế toán...) liên quan đến báo cáo tài chính
là do hệ thống kế toán của đơn vị cung cấp. Nên việc xem xét khả năng hệ thống kế
toán của khách hàng có cung cấp đầy đủ bằng chứng về nghiệp vụ kinh tế phát sinh
hay không là yêu cầu bắt buộc của KTV khi đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
1.1.5 Thỏa thuận về phí kiểm toán
Với đặc thù của ngành kiểm toán độc lập là tổ chức của các KTV chuyên nghiệp,
thực hiện các dịch vụ kiểm toán, dịch vụ tư vấn theo yêu cầu của khách hàng trên cơ

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

5


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

sở các hợp đồng kiểm toán. Đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ thì giá phí là một
trong những điều khoản cực kỳ quan trọng quyết định đến tính thực thi trách nhiệm và
nghĩa vụ của các bên liên quan. Hợp đồng kiểm toán hay hợp đồng cung cấp dịch vụ
đều mang bản chất là hợp đồng kinh tế và được lập trên cơ sở thỏa thuận theo Luật dân
sự và luật thương mại của nước ta. Việc thỏa thuận giá phí hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện giữa công ty kiểm toán với khách hàng dựa trên nguyên tắc “hợp tác bình đẳng
- cả hai bên cùng có lợi”. Phí kiểm toán phải phù hợp và có tính phân loại đối với các
dịch vụ khác nhau cung cấp cho khách hàng và tôn trọng cơ sở sự thỏa thuận, phải
được định lượng cụ thể dựa trên cơ sở xác định các chi phí cho việc cung cấp dịch vụ
một cách xác đáng, rõ ràng.
1.1.6 Đối với khách hàng mới
1.1.6.1 Khách hàng mới và chưa được công ty nào kiểm toán trước đó.
Trước hết KTV cần tìm hiểu lí do mời kiểm toán của khách hàng tiềm năng, thu
thập thông tin về các khía cạnh như lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, tình trạng tài
chính…đặc biệt đối với những khách hàng có BCTC được sử dụng rộng rãi như các
công ty cổ phần có niêm yết trên thị trường chứng khoán, những công ty có nhiều công
nợ… thì KTV cần thu thập thông tin từ ngân hàng dữ liệu, tạp chí, sách báo chuyên
ngành…từ các đối tượng có quan hệ tài chính, quan hệ thương mại với đơn vị như
ngân hàng giao dịch, nhà cung cấp, khách hàng…Trong một số trường hợp, nếu thông
tin có tính phức tạp, thuộc các lĩnh vực chuyên sâu mà KTV chưa có kinh nghiệm,
không am hiểu được thì công ty kiểm toán có thể thuê các điều tra viên chuyên nghiệp,

chuyên gia tư vấn… Hiện nay các công ty kiểm toán có xu hướng giảm dần các khách
hàng có rủi ro cao để giảm thiểu các vụ kiện tụng từ khách hàng hoặc các đối tượng
khác. Bởi vì rủi ro kiện tụng cho cuộc kiểm toán làm công ty kiểm toán không những
bị tổn thất lớn về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của công ty.
1.1.6.2 Khách hàng mới và đã được kiểm toán bởi công ty kiểm toán khác trước
đó
Nếu khách hàng đã có KTV tiền nhiệm, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của
Việt Nam yêu cầu KTV được mời cần tìm hiểu lý do nghề nghiệp khiến cho KTV tiền
nhiệm không thể tiếp tục công việc thông qua trao đổi trực tiếp với họ. Các trao đổi
này giúp cho KTV được mời hiểu được lý do bổ nhiệm để quyết định có nhận công
việc hay không, như là: tính liêm chính của ban quản trị, những mâu thuẫn, bất đồng
giữa KTV tiền nhiệm với ban quản trị về các nguyên tắc kế toán, các thủ tục kiểm toán
áp dụng và các vấn đề quan trọng khác cũng như tìm hiểu lý do khách hàng thay đổi
KTV…Bên cạnh đó, thông qua KTV tiền nhiệm, KTV được mời cũng thu thập được
các thông tin về lĩnh vực và môi trường hoạt động, tình hình tài chính, kinh doanh và
vị trí của công ty khách hàng trong ngành… Ngoài ra KTV có thể xem xét hồ sơ kiểm
toán của KTV tiền nhiệm để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch kiểm toán của mình. Tuy
nhiên, việc thiết lập mối quan hệ giữa KTV tiền nhiệm và KTV được mời phải được sự
chấp thuận của đơn vị khách hàng và sự đồng ý của KTV tiền nhiệm trong nhiều
trường hợp.
1.1.7 Đối với khách hàng cũ
Hằng năm, sau khi hoàn thành kiểm toán, KTV cần cập nhật thông tin nhằm đánh
giá lại các khách hàng hiện hữu, ví dụ sẽ có thể phát sinh những vấn đề mới, có các sự
kiện của năm hiện tại làm giới hạn về phạm vi kiểm toán chẳng hạn xung đột về lợi ích
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

6


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

giữa khách hàng hiện tại này với khách hàng hiện tại khác...khiến KTV không thể tiếp
tục kiểm toán cho họ. Ngoài ra có trường hợp, KTV cũng cần ngưng kiểm toán cho
khách hàng, ví dụ như đang xảy ra tranh chấp giữa khách hàng với KTV hay giữa đôi
bên có sự mâu thuẫn về phạm vi kiểm toán, hay từng có những tranh luận về những
thủ tục kiểm toán cần thực thi...
1.2 Tìm hiểu lý do mời kiểm toán của khách hàng
Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là việc
xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng báo cáo của họ.
Việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng báo cáo của họ là hai
yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ chính xác của ý kiến đưa ra và số lượng bằng
chứng phải thu thập. Đó là cơ sở để thiết kế phương pháp kiểm toán và lựa chọn đội
ngũ KTV thích hợp. Cụ thể, nếu các BCTC của công ty cổ phần đã lên sàn cần được
sử dụng rộng rãi thì mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên BCTC được đòi
hỏi càng cao và do đó số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập, cũng như quy mô
và độ phức tạp của cuộc kiểm toán sẽ càng tăng lên. Điều này lại càng đòi hỏi phải có
một số lượng KTV có trình độ và nằn lực thích hợp để thực hiện cuộc kiểm toán.
Theo Luật Kiểm toán độc lập, có sáu đối tượng bắt buộc kiểm toán đối với BCTC
hằng năm gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức tín dụng, tổ chức tài
chính, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, công ty
đại chúng, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Đồng thời, bắt buộc kiểm toán đối với báo cáo quyết toán dự án hoàn thành và
các thông tin tài chính khác của doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp, tổ chức thực
hiện dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A sử dụng vốn nhà nước; doanh nghiệp,
tổ chức có vốn góp của Nhà nước và các dự án khác do Chính phủ quy định……Cùng
với sự phát triển kinh tế thì số lượng các khách hàng tìm đến với các công ty kiểm toán
ngày càng đa dạng hơn với nhiều mục đích khác nhau như: kiểm toán trước khi cổ
phần hóa, kiểm toán trước khi giải thể, phá sản hoặc sáp nhập,…làm cho số lượng

người sử dụng báo cáo tài chính tăng lên rất nhiều. Do vậy công ty kiểm toán cần phải
xác định lý do kiểm toán của khách hàng, căn cứ vào tình hình hoạt động sản xuất kinh
doanh và những hiểu biết chung về khách hàng cũng như dựa trên khả năng của công
ty để ra quyết định hợp lý trong việc ký kết hợp đồng kiểm toán, cũng như xây dựng
phương pháp tiếp cận kiểm toán. Thông thường các doanh nghiệp mời kiểm toán với
các lý do khác nhau:
 Đáp ứng yêu cầu công khai BCTC hằng năm theo quy định của pháp luật
hoặc cơ quan chủ quản…
 Kiểm toán để báo cáo tài chính của doanh nghiệp có mức độ tin cậy cao hơn
 Kiểm toán trước khi lên sàn giao dịch chứng khoán
 Kiểm toán theo quy định của tổng công ty hoặc tập đoàn
 Kiểm toán trước khi giải thể hay phá sản
 Kiểm toán để vay vốn ngân hàng hoặc đấu thầu
 …
Như vậy thông qua việc nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng, công ty kiểm
toán cần ước lượng được quy mô phức tạp của công việc kiểm toán cần thực hiện từ đó
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

7


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện
cuộc kiểm toán ở bước tiếp theo trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18


8


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

1.3 Lựa chọn đội ngũ KTV và trợ lí kiểm toán
Đoạn 12, VSA 220 – Kiểm soát chất lượng kiểm toán, yêu cầu “công việc kiểm
toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên chuyên nghiệp được đào tạo đầy đủ
kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu thực tế”
Việc lựa chọn đội ngũ KTV cho một cuộc kiểm toán cần dựa trên yêu cầu về số
người, trình độ, năng lực của KTV và các yêu cầu về chuyên môn kỹ thuật, thường do
Ban giám đốc công ty kiểm toán trực tiếp chỉ đạo. Nhóm kiểm toán thông thường có
một hoặc hai trợ lý kiểm toán, một KTV cao cấp và một chủ nhiệm kiểm toán. Đối với
các hợp đồng lớn, đội ngũ KTV thường ở các mức kinh nghiệm khác nhau và có sự
tham gia của các chuyên gia về thống kê, tin học...
Một số lưu ý khi lựa chọn nhân sự cho cuộc kiểm toán cần quan tâm:
- Nhóm KTV cần có những người có khả năng giám sát thích đáng những nhân
viên chưa có kinh nghiệm. Thông thường, các KTV chính sẽ là người phân công công
việc cụ thể cho các trợ lí kiểm toán và cũng chịu trách nhiệm soát xét lại các giấy làm
việc của trợ lí cấp dưới.
- Lựa chọn những KTV có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh
của khách hàng
- Đối với khách hàng lâu năm, một mặt công ty kiểm toán nên hạn chế việc
thường xuyên thay đổi KTV, nhằm giúp cho họ nắm vững được những đặc thù trong
kinh doanh, duy trì được mối quan hệ mật thiết giữa hai bên. Mặt khác, công ty kiểm
toán phải có chính sách luân chuyển KTV để tránh việc quá quen thuộc với khách
hàng, dễ dẫn đến sức ỳ về tâm lý và kiểm tra theo lối mòn, hoặc mất đi tính khách
quan độc lập.

1.4 Ký kết hợp đồng kiểm toán
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 210 “Hợp đồng kiểm toán là sự thoả
thuận bằng văn bản giữa các bên tham gia ký kết (công ty kiểm toán, khách hàng) về
các điều khoản và điều kiện thực hiện kiểm toán của khách hàng và công ty kiểm toán,
trong đó xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán, quyền và trách nhiệm của mỗi bên,
hình thức báo cáo kiểm toán, thời gian thực hiện và các điều khoản về phí, về xử lý khi
tranh chấp hợp đồng”.
Hợp đồng kiểm toán phải được lập và ký chính thức trước khi tiến hành công
việc kiểm toán nhằm đảm bảo quyền lợi của khách hàng và công ty kiểm toán. Khách
hàng và công ty kiểm toán phải thống nhất với nhau các điều kiện và điều khoản trong
hợp đồng trên cơ sở thỏa thuận và tôn trọng lẫn nhau. Các thỏa thuận này phải được
ghi lại cụ thể trong hợp đồng hoặc các hình thức cam kết khác được chấp nhận.
Hợp đồng cũng phải nói rõ mọi giới hạn được đặt ra cho công việc của KTV,
thời hạn cuối cùng để hoàn thành cuộc kiểm toán, sự giúp đỡ của công ty khách hàng
trong quá trình thu thập số liệu và chứng từ, và các bảng kê phải lập cho kiểm toán
viên. Thông thường trong hợp đồng kiểm toán cũng đề cập đến thỏa thuận về phí kiểm
toán. Hợp đồng kiểm toán cũng là phương tiện để thông báo cho khách hàng là KTV
sẽ không chịu trách nhiệm đối với việc phát hiện tất cả những hành vi gian lận.
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

9


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Hợp đồng kiểm toán gồm các nội dung chủ yếu sau:
 Mục đích và phạm vi kiểm toán: Trong cuộc kiểm toán BCTC do kiểm toán độc
lập tiến hành, mục tiêu của cuộc kiểm toán thường là xác định tính trung thực

và hợp lý của các thông tin trên BCTC. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về
không gian, thời gian của đối tượng kiểm toán, thường được xác định cùng với
việc xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán. Trong cuộc kiểm toán BCTC, phạm
vi kiểm toán thường là toàn bộ BCTC của năm kết thúc.
 Trách nhiệm Ban giám đốc công ty khách hàng và kiểm toán viên: Ban giám
đốc có trách nhiệm trong việc lập và trình bày trung thực các thông tin trên báo
cáo tài chính, kiểm toán viên có trách nhiệm đưa ra ý kiến độc lập về báo cáo
tài chính dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán. Và trách nhiệm của công ty
khách hàng trong việc cung cấp các tài liệu và thông tin liên quan đến công việc
kiểm toán.
 Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Kết quả kiểm toán thường được biểu
hiện cụ thể dưới một báo cáo kiểm toán và có kèm theo một thư quản lý trong
đó nêu rõ những khiếm khuyết của hệ thống kiểm soát nội bộ hoặc những gợi ý
sửa chữa những khiếm khuyết này.
 Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán: Thời gian thực hiện kiểm toán sơ bộ, kiểm
toán chính thức, thời điểm kết thúc kiểm toán và phát hành báo cáo kiểm toán.
 Căn cứ tính giá phí cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán phí kiểm toán.
Sau khi hợp đồng kiểm toán được ký kết, công ty kiểm toán trở thành chủ thể
kiểm toán chính thức của công ty khách hàng.
Tại nhiều nước, KTV có thể gửi cho khách hàng “Thư hẹn kiểm toán”, sau khi
khách hàng xác nhận vào thư hẹn và gửi lại cho KTV, nó sẽ có vai trò tương tự như
một hợp đồng kiểm toán. VSA 210 cho phép sử dụng thư hẹn kiểm toán trong một số
trường hợp nhưng phải đảm bảo đầy đủ các điều khoản và nội dung của hợp đồng
kiểm toán.
2. Thu thập thông tin chung về khách hàng
Khi đã trở thành KTV đương nhiệm của khách hàng, KTV chuyển sang việc lập
kế hoạch kiểm toán. Để có thể xây dựng, thực hiện kế hoạch kiểm toán và chương
trình kiểm toán hiệu quả, trước hết KTV phải hiểu biết đầy đủ về khách hàng, chủ yếu
là về tình hình kinh doanh và hệ thống kiểm soát nội bộ. Những hiểu biết này sẽ giúp
KTV hoạch định những thủ tục kiểm toán phù hợp với đặc điểm hoạt động của đơn vị,

nhất là giúp KTV xác định những khu vực có rủi ro cao để có những biện pháp thích
hợp.
CMKT Việt Nam số 310 - Hiểu biết về tình hình kinh doanh - quy định “để
thực hiện kiểm toán BCTC, KTV phải có hiểu biết đầy đủ về tình hình kinh doanh,
nhằm đánh giá và phân tích được các sự kiện, nghiệp vụ và thực tiễn hoạt động của
đơn vị mà theo KTV thì có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, đến việc kiểm tra của
KTV, hoặc đến BC kiểm toán…”
2.1 Nội dung thông tin cần thu thập
2.1.1 Thông tin cơ bản

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

10


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Việc am hiểu về công việc kinh doanh và ngành nghề kinh doanh của khách hàng
và kiến thức về mặt hoạt động của công ty là cần thiết cho việc thực hiện kiểm toán
đầy đủ. Phần lớn thông tin này được thu thập ở các văn phòng của công ty khách hàng,
nhất là đối với một khách hàng mới. Các thông tin cần thu thập thường bao gồm:
2.1.1.1 Thu thập kiến thức về ngành kinh doanh và hoạt động kinh doanh của
khách hàng
Để thuyết minh đầy đủ ý nghĩa thông tin thu thập được trong suốt cuộc kiểm
toán, cần thiết phải hiểu được kinh doanh của khách hàng. Những lĩnh vực riêng của
các ngành khác nhau được phản ánh trong các báo cáo tài chính.
Sự hiểu biết về ngành kinh doanh của khách hàng có thể thu thập theo nhiều cách
khác nhau. Đó là qua những cuộc tranh luận đối với KTV có trách nhiệm với hợp đồng

trong những năm trước và các KTV hiện nay trong các hợp đồng tương tự, cũng như
qua các buổi hội nghị với nhân viên của công ty khách hàng. Hiện có sẵn một số sách
hướng dẫn về kiểm toán ngành, sách giáo khoa, và tạp chí nghiệp vụ về kiểm toán để
KTV nghiên cứu. Một số KTV theo thông lệ đặt mua dài hạn các tạp chí chuyên ngành
đối với những ngành mà họ dành phần lớn thời gian vào đó. Kiến thức đáng kể cũng
có thể thu thập theo cách tham dự một cách tích cực vào các Hiệp hội ngành và các
chương trình huấn luyện.
Kiến thức về những lĩnh vực công việc kinh doanh của khách hàng mà làm nó
khác biệt với công ty khác trong cùng ngành cũng là cần thiết để thực hiện quá trình so
sánh trong ngành đó. Tương tự, thông tin như cơ cấu tổ chức, phương pháp đánh giá
hàng tồn kho, và các đặc điểm riêng của công việc kinh doanh nơi khách hàng cũng
phải được hiểu rõ trước khi bắt đầu cuộc kiểm toán.
Hồ sơ thường xuyên của kiểm toán viên thường bao gồm lịch sử của công ty,
danh sách những mặt hàng kinh doanh chủ yếu, và sổ ghi chép các chính sách kế toán
quan trọng nhất trong những năm trước. Nghiên cứu thông tin này và bàn luận với các
nhân viên của công ty khách hàng sẽ giúp ích cho việc hiểu biết công việc kinh doanh
của công ty khách hàng một cách đầy đủ và rõ ràng hơn.
2.1.1.2 Xét lại các chính sách của công ty
Nhiều chính sách và quyền hạn của công ty được phản ánh trên BCTC là một
phần của cơ cấu kiểm soát nội bộ nhưng ngoài phạm vi của hệ thống kế toán. Chúng
gồm những vấn đề như quyền hạn đối với sự nhượng lại một phần hoạt động kinh
doanh, các chính sách tín dụng, những món tiền cho các chi nhánh vay, và các chính
sách kế toán đối với việc ghi sổ tài sản và thừa nhận một khoản phải thu. Các quyết
định cơ bản về chính sách phải luôn luôn được đánh giá một cách thận trọng như một
phần của công tác kiểm toán để xác định xem Ban quản trị có được Hội đồng quản trị
phê chuẩn để lập một vài quyết định nhất định, và để đảm bảo là các quyết định của
Ban quản trị đã được phản ánh một cách đúng đắn trên các báo cáo.
Một cách làm hữu ích mà nhiều công ty kiểm toán làm theo là ghi vào hồ sơ
thường trực những chính sách quan trọng nhất mà khách hàng chấp hành và tên của
người hoặc nhóm người được ủy quyền để thay đổi chính sách đó. Việc đưa vào hồ sơ

thường xuyên các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận đặc biệt hữu ích trong việc
giúp kiểm toán viên xác định liệu khách hàng đã có thay đổi các nguyên tắc kế toán
hay không.
2.1.1.3 Nhận diện các bên liên quan:
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

11


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Các nghiệp vụ kinh tế với các bên có liên quan rất quan trọng đối với KTV vì
chúng phải được tiết lộ trên các BCTC nếu chúng trọng yếu. Các nguyên tắc kế toán
đã được thừa nhận quy định sự tiết lộ bản chất của mối quan hệ giữa các thành phần
liên quan, sự mô tả các nghiệp vụ kinh tế, gồm cả số tiền và số tiền nợ hoặc bị nợ của
các bên có liên quan.
Theo CMKTVN 550- Các bên liên quan, các bên liên quan được hiểu là: các bộ
phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty
chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào đó mà công ty khách hàng có quan hệ và các
cá nhân tổ chức đó có khả năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới
các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách hàng.
Vì các nghiệp vụ kinh tế giữa các bên liên quan phải được tiết lộ nên điều quan
trọng là tất cả các bên liên quan phải được nhận diện và đưa vào trong hồ sơ thường
trực lúc bắt đầu hợp đồng. Việc phát hiện các nghiệp vụ kinh tế giữa các bên có liên
quan chưa được biết được khuyến khích. Các cách làm thông thường để nhận diện các
bên có liên quan bao gồm điều tra Ban quản trị, xem xét lại các tài liệu lưu trữ và kiểm
tra các danh sách cổ đông để nhận diện các cổ động chủ yếu.
2.1.1.4 Đánh giá nhu cầu chuyên gia bên ngoài:

Khi một KTV đứng trước các tình huống đòi hỏi kiến thức chuyên môn thì có thể
cần tham vấn các chuyên viên. Chẳng hạn như việc sử dụng chuyên viên về kim cương
để đánh giá chi phí thay thể của kim cương,… Một cách sử dụng chuyên gia thông
thường nữa là việc tham vấn của các luật sư đối với các văn bản hướng dẫn hợp pháp
về hợp đồng và quyền sở hữu.
KTV phải có một sự hiểu biết đầy đủ về công việc kinh doanh của khách hàng để
thừa nhận nhu cầu chuyên gia. Lập kế hoạch đúng đắn là điều cần thiết để đảm bảo
rằng chuyên gia đã có sẵn khi cần và rằng họ vừa có năng lực, và nếu cần, độc lập với
công ty khách hàng.
2.1.2 Thu thập thông tin về những nghĩa vụ pháp lý của khách hàng:
Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp cho KTV hiểu được về các mặt
hoạt động kinh doanh của khách hàng thì việc thu thập các thông tin về các nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng giúp cho KTV nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý
có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu
thập trong quá trình tiếp xúc với Ban giám đốc công ty khách hàng bao gồm bốn loại
sau:
• Giấy phép thành lập và điều lệ công ty
• Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của năm hiện
hành hay trong vài năm trước
• Biên bản các cuộc họp cổ đông
• Các hợp đồng và cam kết quan trọng
2.2 Các phương pháp thu thập thông tin
2.2.1 Trao đổi trực tiếp với khách hàng
Qua sự trao đổi với ban giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và cán bộ công
nhân viên của công ty khách hàng sẽ giúp KTV thu thập được nhiều thông tin về bộ
máy quản lý và tình hình hoạt động của công ty trong thời gian qua. Ngoài ra còn có
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

12



Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

thể trao đổi với các KTV nội bộ và xem xét các báo cáo nội bộ để có những cái nhìn
sâu hơn về các công tác quản lý và công tác kế toán của đơn vị.

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

13


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

2.2.2 Tham quan đơn vị
Để tận mắt quan sát về mọi hoạt động của khách hàng, KTV cần tham quan nhà
xưởng, cửa hàng, văn phòng làm việc….của đơn vị. Những điều “mắt thấy tai nghe”
bao giờ cũng hữu ích hơn. Nó sẽ mang lại cho KTV cơ hội:
• Tiếp cận và quan sát các thiết kế và vận hành của hệ thống KSNB
• Quan sát thực tế đối với các phương tiện kinh doanh, cách bố trí và sử dụng
chúng, qua đó bước đầu hình dung về hoạt động của các phân xưởng, cửa hàng,
về sản phẩm dở dang, về thiết bị,…từ đó KTV hiểu hơn về tình hình hoạt động
thực tế của khách hàng.
• Mang lại cơ hội gặp mặt các nhân vật chủ chốt cũng như cũng có những nhận
định ban đầu về phong cách quản lý của ban giám đốc, tính hệ thống trong việc
sắp đặt công việc…
2.2.3 Trao đổi với các đối tượng liên quan khác

 Trao đổi với KTV tiền nhiệm của đơn vị, xem xét hồ sơ kiểm toán năm
trước. Đây là cách thu thập thông tin nhanh chóng và hiệu quả tuy nhiên
thông tin thu thập được là gián tiếp và không mang tính cập nhật.
 Trao đổi với KTV nội bộ và xem xét BC kiểm toán nội bộ.
 Trao đổi với các đối tượng bên ngoài: các chuyên gia, luật sư của đơn vị, các
cơ quan chủ quản, khách hàng, nhà cung cấp…
3. Thực hiện thủ tục phân tích
Phân tích là một thủ tục quan trọng trong kiểm toán, đó là sự so sánh giữa những
thông tin khác nhau nhằm đánh giá về các mối quan hệ và xu hướng phát triển. Do rất
hiệu quả, thủ tục này được KTV sử dụng trong suốt quá trình kiểm toán. Trong giai
đoạn lập kế hoạch, KTV thực hiện phân tích sơ bộ BCTC nhằm định ra những hướng
đi trọng tâm cho cuộc kiểm toán.
3.1 Khái niệm
CMKT Việt Nam số 520 – Quy trình phân tích, nêu ra định nghĩa:
“Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỷ suất quan
trọng, qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu
thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự
kiến.”
Thủ tục phân tích được dùng để thu thập bằng chứng về những sai lệch trọng yếu
trong BCTC. Thủ tục phân tích không những không dừng lại ở việc tìm hiểu tình hình
của khách hàng mà còn dùng để phát hiện ra những số liệu có khả năng bị sai lệch.
3.2 Phân loại thủ tục phân tích
 Phân tích tính hợp lý: là quá trình tính toán nhằm đưa ra các ước tính của KTV

cho một số dư hay khoản mục trên BCTC, rồi so sánh số liệu ước tính với sổ sách của
đơn vị, từ đó tìm hiểu những chênh lệch bất thường

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

14



Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

 Phân tích xu hướng: là xem xét xu hướng biến động của số liệu theo thời gian
và phát hiện ra xu hướng bất thường( tăng hoặc giảm đột biến) mà không có lý do rõ
ràng
 Phân tích dự báo: việc phân tích này được áp dụng để ước tính về một số dư tài
khoản hay một loại hình nghiệp vụ
 Phân tích tỷ suất: bao gồm việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai hay nhiều
biến động của các khoản mục trên báo cáo tài chính. Phân tích tỷ suất rất có hiệu quả
bởi nó phản ánh một cách khái quát những mối quan hệ giữa nhiều khoản mục trên
BCTC. Mặt khác, nó giúp KTV so sánh tình hình tài chính của khách hàng thông qua
các tỷ số về tình hình tài chính của một công ty khác trong cùng lĩnh vực, ngành nghề
mà công ty này hoạt động có hiệu quả, hoặc so sánh với chỉ tiêu bình quân ngành để
đánh giá những thuận lợi cũng như khó khăn mà khách hàng đang gặp phải.
 Phân tích hồi quy: là phương pháp sử dụng số liệu của quá khứ, những dữ liệu
đã diễn ra theo thời gian hoặc diễn ra tại cùng một thời điểm để thiết lập mối quan hệ
giữa các hiện tượng và sự kiện có liên quan. Mối quan hệ này được biểu diễn dưới
dạng phương trình gọi là phương trình hồi quy.
3.3 Mục đích của thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch
Trong giai đoạn lập kế hoạch, phân tích chủ yếu được tiến hành đối với BCTC.
Ngoài việc bước đầu giúp KTV hiểu rõ hơn tình hình hoạt động kinh doanh của khách
hàng, phân tích còn giúp phát hiện những biến động bất thường qua đó giúp dự đoán
những khu vực có rủi ro cao. Theo chuẩn mực số 520 “Quy trình phân tích”, KTV nên
áp dụng thủ tục phân tích trong tiến trình lập kế hoạch vì:
 KTV phải áp dụng quy trình phân tích trong tiến trình lập kế hoạch kiểm toán
để tìm hiểu tình hình kinh doanh của đơn vị và xác định những vùng có thể có rủi ro.

Quy trình phân tích giúp KTV xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục
kiểm toán khác.
Ngoài ra, thông qua phân tích sơ bộ tình hình tài chính (nhất là khả năng thanh
toán), kiểm toán viên còn xem xét thêm liệu giả định hoạt động liên tục có thể bị vi
phạm hay không? Đánh giá ban đầu về giả định này sẽ là cơ sở để KTV quyết định có
thực hiện các thủ tục xác minh cần thiết hay không
3.4 Nội dung thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch.
KTV phải thu thập và nghiên cứu tài liệu, tham quan đơn vị, phỏng vấn các cá
nhân có liên quan và thực hiện phân tích sơ bộ báo cáo tài chính để đạt được những
hiểu biết đầy đủ về đơn vị. Sau đó, KTV tiến hành phân tích sơ bộ theo trình tự sau:
 Tiến hành lập bảng so sánh các số liệu từ báo cáo tài chính giữa năm nay với
năm trước để xác định những chênh lệch tuyệt đối và tương đối.
 Tính toán các tỷ số tài chính cơ bản như: Tỷ suất thanh toán nhanh; Lợi nhuận
ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE); Tỷ suất nợ v.v…
 Xem xét các mối quan hệ bất thường như việc vòng quay hàng tồn kho nhanh
nhưng tỷ lệ lãi gộp lại có xu hướng giảm.
 So sánh và ghi nhận các biến động tuyệt đối, ví dụ: Chênh lệch lớn hơn 10%
(Giữa số ước tính và số thực tế).

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

15


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

 So sánh và ghi nhận những biến động bất thường (Doanh thu hàng năm giảm,
năm nay lại tăng đột biến…)

Lưu ý, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, điều kiện tài chính và khả năng trả
nợ đến hạn của đơn vị phải được KTV chú trọng khi thực hiện thủ tục phân tích. Tình
trạng xấu đi của khả năng thanh khoản hay các tỷ số sinh lời của đơn vị có thể là một biểu
hiện của rủi ro tiềm tàng, dẫn đến rủi ro đơn vị sẽ trình bày sai lệch trọng yếu trên BCTC.
4. Đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Bước tiếp theo trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là đánh giá tính trọng yếu và
rủi ro nhằm đưa ra những định hướng cơ bản cho cuộc kiểm toán.
4.1 Tính trọng yếu
4.1.1 Khái niệm trọng yếu
CMKT Việt Nam số 320 – Tính trọng yếu kiểm toán, định nghĩa
“Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một
số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính
chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo
cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin
hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng,
một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng
yếu của thông tin phải xem xét cả trên phương diện định lượng và định tính.”
Nói cách khác, trọng yếu xét trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái
niệm chung chỉ rõ tầm cỡ (độ lớn) về mặt định lượng và tính hệ trọng (bản chất) về
mặt định tính của các sai phạm hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng nhóm có ảnh hưởng đến
tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và trong bối cảnh cụ
thể, việc sử dụng thông tin đó có thể dẫn đến đưa ra quyết định sai lầm. Trên góc độ
của người sử dụng thông tin, một cách đơn giản, trọng yếu được hiểu là một thông tin
quan trọng và cần được trình bày nếu có khả năng ảnh hưởng đến các quyết định của
họ.
4.1.2 Mục đích của việc đánh giá tính trọng yếu
Nghiên cứu trọng yếu rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm toán và thiết
kế phương pháp kiểm toán. KTV nghiên cứu về trọng yếu nhằm:
 Dự kiến hợp lý về tính trọng yếu để thu thập bằng chứng thích hợp

 Xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các phương pháp kiểm toán
 Xác định mức độ trung thực hợp lý của các thông tin trên BCTC
4.1.3 Phương pháp xác lập mức trọng yếu
Như đã trình bày ở trên, về mặt định lượng, trọng yếu có thể hiểu là số tiền sai
lệch tối đa có thể chấp nhận được của thông tin, nghĩa là nếu sai lệch vượt quá số tiền
đó sẽ làm người đọc hiểu sai về thông tin. Mức trọng yếu cần được xem xét ở mức độ
tổng thể BCTC và mức độ từng khoản mục như sau:
- Ở mức độ tổng thể của BCTC: KTV phải ước tính toàn bộ sai lệch có thể chấp
nhận được để đảm bảo rằng BCTC không có sai lệch trọng yếu. Mức trọng yếu tổng
thể thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm so với tài sản, doanh thu hoặc lợi
nhuận. Lợi nhuận thường được nhiều KTV lựa chọn vì đó là chỉ tiêu được đông đảo
người sử dụng BCTC quan tâm, nhất là cổ đông của các công ty. Tuy nhiên trong một
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

16


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

số trường hợp, tài sản hoặc doanh thu lại dễ áp dụng hơn, vì nhiều lí do, chẳng hạn
công ty không có lợi nhuận hoặc người sử dụng quan tâm nhiều hơn đến khả năng
thanh toán. Vì thế có nhiều KTV phối hợp các chỉ tiêu trên để xác lập mức trọng yếu
cho toàn bộ BCTC, ví dụ mức trọng yếu được tính bằng một tỷ lệ phần trăm số lớn
hơn giữa tài sản và doanh thu.
Trong thực tế, mỗi công ty kiểm toán sẽ có một phương pháp để xác định mức
trọng yếu riêng. Thông thường theo kinh nghiệm KTV có thể xác định mức trọng yếu
như sau (Gay & Simnett 2003, Auditing and Assurance Service):
Cơ sở xác định mức trọng yếu

Lợi nhuận sau thuế
Tổng doanh thu
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ xác định mức trọng yếu (%)
5 – 10
0,5 – 1
0,5 – 1
1–2

Hoặc có thể quy định mức trọng yếu theo những giới hạn, ví dụ:
Vị trí của
Khoản mục
Báo cáo kết quả
kinh doanh
Bảng cân đối
kế toán

Không trọng yếu

Có thể trọng yếu

<5% lợi nhuận
trước thuế

Từ 5 -10% lợi
nhuận trước thuế
Từ 0,5 – 1% tổng
tài sản


<0,5% tổng tài sản

Chắc chắn
trọng yếu
>10% lợi nhuận
trước thuế
>1% tổng tài sản

Đối với từng khoản mục, mức trọng yếu chính là sai lệch tối đa cho phép của
từng khoản mục. Số tiền này được tính dựa trên cơ sở mức trọng yếu tổng thể của
BCTC. Một số KTV xác lập mức trọng yếu cho từng khoản mục bằng cách phân bổ
mức trọng yếu tổng thể cho từng khoản mục. Cách này tuy tạo được hành lang an toàn
khá cao nhưng bị phê phán vì các sai lệch dự kiến không phải lúc nào cũng đồng thời
xảy ra ở mọi khoản mục và trong thực tế các sai lệch có thể bù trừ lẫn nhau khi tác
động đến các chỉ tiêu như tổng tài sản, lợi nhuận… Chúng ta biết răng khái niệm trọng
yếu gắn liền với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Khi phân bổ mức trọng yếu cho
từng khoản mục hoặc vấn đề đang được đánh giá, KTV thường quan tâm đến bản chất,
tức là nhân tố định tính, hơn là về mặt định lượng. Trường hợp sai phạm có giá trị thấp
nhưng bản chất sai phạm nghiêm trọng thì vẫn xem là trọng yếu. Chẳng hạn một sai
phạm ở một khoản mục nhưng có tác động dây chuyền và gây ảnh hưởng nghiệm
trọng đến BCTC, hay một sự mô tả không đúng đắn hay không chính xác về chính
sách kế toán của đơn vị như không thông báo về sự thay đổi cách tính khấu hao tài sản
cố định…làm cho người sử dụng BCTC hiểu sai về bản chất các thông tin của doanh
nghiệp. Các khoản mục có sai sót hệ trọng cũng xét trong yếu tố định tính của trọng
yếu như: các khoản mục, nghiệp vụ phát hiện có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh
lệch so với các kỳ trước, hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan; các khoản mục
có sai sót lặp đi, lặp lại, các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói
chung; hay các nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng tới kỳ sau, hoặc là đầu mối gây
hệ thống, liên quan đến nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác.

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

17


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Vì vậy trong thực tế các KTV thường sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để xác
lập mức trọng yếu ở từng khoản mục, ví dụ nhân mức trọng yếu tổng thể với một hệ số
(thường là 1,5-2) trước khi phân bổ hoặc có thể tính mức trọng yếu của khoản mục
bằng một tỷ lệ phần trăm của mức trọng yếu tổng thể…Dù áp dụng phương pháp nào
thì KTV cũng cần phải cân nhắc khi xác lập mức trọng yếu cho khoản mục, họ dựa
trên kinh nghiệm của mình về đơn vị cũng như đánh giá về khả năng xảy ra sai lệch và
chi phí để kiểm tra khoản mục. Nhìn chung việc xác lập mức trọng yếu ở hai mức độ
là vấn đề thuộc về xét đoán nghề nghiệp của KTV, nghĩa là trong từng trường hợp cụ
thể, dựa trên kinh nghiệm và sự xét đoán, KTV sẽ xác định và chịu trách nhiệm về
phán đoán của mình. Ngoài ra KTV cũng phải cân nhắc sự hữu hiệu và chi phí kiểm
toán, bởi vì thiết lập một mức trọng yếu thấp tuy sẽ giúp tăng khả năng phát hiện sai
lệch trọng yếu nhưng đồng thời làm cho chi phí kiểm toán tăng lên.
4.1.4 Quy trình đánh giá mức trọng yếu
Một cuộc kiểm toán được thực hiện nhằm phát hiện sự trình bày sai lệch trọng
yếu trên báo cáo tài chính, vì vậy tính trọng yếu theo kế hoạch phải được sử dụng như
là một cơ sở cho việc xác định khối lượng công việc sẽ thực hiện với toàn bộ BCTC.
Sau đó, các KTV phân bổ mức trọng yếu tổng thể cho số dư các tài khoản. Cụ thể trình
tự xác định tính trọng yếu gồm 5 bước sau:
Bước 1: Ước tính ban đầu về tính trọng yếu đối với toàn bộ BCTC. Mức ước
lượng đó chính là mức sai sót mà KTV tin rằng sai sót này sẽ không làm cho BCTC bị
sai lệch nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến việc sữ dụng thông tin của những người ra

quyết định. KTV đặt mức trọng yếu càng thấp đồng nghĩa với việc đòi hỏi sự chính
xác càng cao của số liệu trên BCTC và ngược lại
Bước 2: Phân bổ mức ước tính ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục
hay các bộ phận của BCTC, nghĩa là xác định mức sai sót trọng yếu của từng khoản
mục hay bộ phận và đó là sai sót chấp nhận được hay sai sót có thể bỏ qua. Việc phân
bổ này sẽ được thực hiện theo hai hướng sai phạm có thể xảy ra đó là khai khống (số
liệu sổ sách lớn hơn số liệu thực tế) và khai thiếu (số liệu sổ sách nhỏ hơn thực tế).
Bước 3: KTV áp dụng kỹ thuật lấy mẫu kiểm tra và ước tính mức sai sót của
từng khoản mục, gọi là sai sót dự kiến. KTV sẽ so sánh mức mức sai sót này với mức
sai sót chấp nhận được và đưa ra quyết định là có chấp nhận, hay không chấp nhận số
liệu sổ sách hoặc tiếp tục thu thập thêm bằng chứng kiểm toán.
Bước 4: KTV tổng hợp sai sót dự kiến của tất cả các khoản mục của BCTC.
Bước 5: KTV so sánh sai sót dự kiến của tất cả các khoản mục với ước tính ban
đầu về mức trọng yếu, hoặc với mức ước tính được điều chỉnh. Trên cơ sở kết quả so
sánh này, KTV sẽ đánh giá xem toàn bộ những sai sót đó có vượt qua giới hạn cho
phép không, và tùy trường hợp cụ thể, KTV sẽ yêu cầu đơn vị điều chỉnh số liệu hoặc
thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán hoặc đưa ra ý kiến về bản BCTC đó.
4.2 Rủi ro kiểm toán
4.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán
Đoạn 7 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ, định nghĩa “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra
những nhận xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai sót
trọng yếu”
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

18


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Như vậy rủi ro kiểm toán xảy ra khi BCTC cò chứa đựng những sai lệch trọng
yếu nhưng KTV lại nhận xét chúng đã được trình bày trung thực hợp lí. Rủi ro này
xuất phát từ các sai lệch tìm ẩn trong BCTC nhưng không được hệ thống KSNB của
đơn vị ngăn chặn, phát hiện và KTV cũng không tìm ra.
Mức độ rủi ro kiểm toán dự kiến cao hay thấp quyết định khối lượng công việc
kiểm toán phải tiến hành. Vì vậy, cần phải tiến hành nghiên cứu các thành phần của rủi
ro kiểm toán, xem xét tác động của thành phần này đến khối lượng công việc kiểm
toán cần phải tiến hành, cũng như đến trình tự và các thủ pháp kiểm toán thích hợp cần
phải tiến hành. Trong thực tế, rủi ro kiểm toán thường xẩy ra do giới hạn về quản lý và
giới hạn về chi phí kiểm toán. Trong mối quan hệ này rủi ro kiểm toán và chi phí có
mối quan hệ tỷ lệ nghịch

Mức rủi ro kiểm
toán

Rủi ro đạt tới

Hình 2: Đồ thị biểu hiện mối quan hệ giữa rủi ro và chi phí kiểm toán

4.2.2 Các bộ phận hợp thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro mong muốn
4.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng
“Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn vốn có do khả năng của từng nghiệp vụ, từng
chứng
(Chiriêng
phí) rẻ hoặc tính gộp,
khoản mục trong BCTC chứa đựngBằng
sai sót

trọngkiểm
yếu toán
khi tính
mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ” – theo đoạn 4 VSA 400.
Như vậy, rủi ro tiềm tàng là khả năng có những sai lệch trọng yếu trong BCTC
bắt nguồn từ hoạt động hay môi trường kinh doanh hoặc do bản chất của khoản mục
hoặc nghiệp vụ trước khi xem xét đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB. Bên cạnh các
nhân tố gây ra rủi ro tiềm tàng cao ảnh hưởng trực tiếp đối với một khoản mục, còn có
những nhân tố khác tác động đến rủi ro tiềm tàng của toàn bộ BCTC chứ không riêng
khoản mục nào. KTV không tạo ra và cũng không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng.
KTV chỉ có thể đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng có thể xảy ra bằng cách dựa vào
nhiều nguồn khác nhau như kết quả kiểm toán năm trước hoặc thông qua thu thập
thông tin về ngành nghề kinh doanh, chính sách kinh tế, tài chính kế toán của đơn vị
được kiểm toán…
4.2.2.2 Rủi ro kiểm soát
“Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng
khoản mục của BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống
KSNB không ngăn ngừa hết, hoặc không phát hiện được và sửa chữa kịp thời.” – theo
đoạn 5 VSA 400.
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

19


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Như vậy rủi ro kiểm soát là khả năng có những sai sót nghiêm trọng hoặc những
điểm bất thường mà hệ thống KSNB không phát hiện hoặc không ngăn chặn được.

KTV cần xem xét môi trường kiểm soát vì nó biểu hiện quan điểm , nhận thức cũng
như hành động của nhà quản lí đơn vị khi họ xác định phương hướng tổ chức đơn vị,
phân định trách nhiệm, quyền hạn của Ban Giám đốc và các bộ phận…
Sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, KTV cần đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm
soát đối với các cơ sở dẫn liệu trong BCTC. Sự đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát
cũng như rủi ro tiềm tàng sẽ ảnh hưởng đến nội dung, thời gian và phạm vi của các
phương pháp kiểm toán.
4.2.2.3 Rủi ro phát hiện
“Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng
khoản mục của BCTC khi tính riêng rẻ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán,
KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được.” – theo đoạn 6 VSA 400.
Rủi ro phát hiện là khả năng khi đã áp dụng các thủ tục kiểm toán nhưng KTV
vẫn không phát hiện được các sai lệch trọng yếu trong BCTC. Rủi ro phát hiện có
nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm
cơ bản đã được thực hiện. Trái với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV có trách
nhiệm thực hiện các thủ tục để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ để
quản lí và kiểm soát rủi ro phát hiện. Thông thường, mức rủi ro phát hiện sẽ giảm
xuống nếu KTV tăng các thử nghiệm chi tiết trên số dư hoặc nghiệp vụ, mở rộng phạm
vi kiểm tra hoặc tăng cường cỡ mẫu của các thử nghiệm. Tuy nhiên rủi ro phát hiện
vẫn có thể xảy ra cho dù KTV kiểm tra 100% số dư và nghiệp vụ,vì có thể KTV đã
chọn lựa và áp dụng các phương pháp kiểm toán không phù hợp, hoặc giải thích sai,
nhận định sai về kết quả kiểm tra.
4.3 Mối quan hệ giữa các thành phần của rủi ro kiểm toán
Do tồn tại độc lập với các thử nghiệm cơ bản của KTV nên dù có tiến hành cuộc
kiểm toán hay không thì rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát vẫn tồn tại trong hoạt
động kinh doanh của đơn vị, cũng như nằm trong bản chất của số dư tài khoản và các
loại nghiệp vụ. Ngược lại, rủi ro phát hiện có thể kiểm soát được bởi KTV thông qua
việc điều chỉnh nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản, tùy theo
tình hình của đơn vị, KTV sẽ tăng giảm khối lượng công việc kiểm toán của mình để
đạt được mục đích cuối cùng là rủi ro kiểm toán giảm xuống thấp đến mức chấp nhận

được với chi phí hợp lý.
Vào đầu thập niên 1980, chuẩn mực kiểm toán của một số quốc gia đã đưa ra mô
hình rủi ro kiểm toán và biểu thị bằng công thức sau đây:
AR = IR * CR * DR
Hoặc

(1)

DR = AR/(IR*CR)
(2)
Trong đó:
AR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
IR: Mức rủi ro tiềm tàng do KTV đánh giá
CR: Mức rủi ro kiểm soát do KTV đánh giá
DR: Mức rủi ro phát hiện

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

20


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

Mô hình (1) biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Mô hình này
được kiểm toán viên sử dụng để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện để có mức rủi ro kiểm
toán mong muốn. Hay nói cách khác, mô hình (1) dùng để đánh giá tính hợp lí của kế
hoạch kiểm toán đã được lập.
Mô hình (2) DR là đối tượng quan tâm của KTV. Thông qua việc xác định DR,

KTV sẽ xác định các thủ tục kiểm toán và số lượng bằng chứng cần thu thập. Mặc dù
đây là mô hình có tính chất giản đơn nhưng có ý nghĩa rất lớn cho KTV trong lập kế
hoạch và thực hiện kiểm toán sao cho hợp lí và đủ để duy trì rủi ro phát hiện ở mức
thấp cho phép.
Tuy được biểu thị bằng công thức nhưng KTV cần nhận thức rằng đây không
phải là một công thức toán học thuần túy mà nó được dùng để trợ giúp cho KTV khi
phán đoán và xác định mức độ sai lệch có thể chấp nhận được làm cơ sở thiết kế các
thủ tục và điều hành cuộc kiểm toán.
Khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán, KTV cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, KTV không thể giả sử rằng rủi ro tiềm tàng là bằng 0 để không cần đến
các bước thu thập bằng chứng kiểm toán.
AR = IR ( = 0) *CR*DR = 0
Thứ hai, KTV không thể đặt niềm tin tuyệt đối vào hệ thống kiểm soát nội bộ để
không cần đến các bước thu thập bằng chứng kiểm toán:
AR = IR*CR (=0)*DR =0
Thứ ba, KTV không thể được xem là đã thận trọng nghề nghiệp thích đáng nếu
như rủi ro của việc không phát hiện các sai phạm trọng yếu trong đối tượng kiểm toán
ở mức quá cao
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro còn được minh họa bằng bảng sau:
Ma trận rủi ro phát hiện
Đánh giá của KTV về rủi ro kiểm soát
Cao
Trung bình
Thấp
Đánh giá của
Cao
Thấp nhất
Thấp
Trung bình
KTV về rủi ro

Trung bình
Thấp
Trung bình
Cao
tiềm tàng
Thấp
Trung bình
Cao
Cao nhất
Hình 3: Ma trận rủi ro phát hiện
Trong bảng trên:
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được chia thành ba mức: thấp, trung bình và
cao.
Rủi ro phát hiện được chia ra làm năm mức: thấp nhất, thấp, trung bình, cao và
cao nhất. Tương ứng với mỗi mức độ đánh giá về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, thì
KTV sẽ đánh giá được rủi ro phát hiện sao cho mức rủi ro kiểm toán mong muốn ở
mức thấp nhất.
4.4 Trình tự đánh giá rủi ro kiểm toán
4.4.1 Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Hiện nay tại các Công ty kiểm toán, mức rủi ro kiểm toán mong muốn luôn được
xác định trước khi tiến hành kiểm toán theo mô hình sau:
DR= DAR / (CR*IR)
Trong đó:
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

21


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

DAR: Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Mức rủi ro kiểm toán mong muốn phụ thuộc vào mức độ quan tâm của người sử
dụng bên ngoài đến BCTC và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi
báo cáo kiểm toán được công bố. Việc xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn là
điểm khởi đầu cho việc xác định mức rủi ro phát hiện
4.4.2 Đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
 Rủi ro tiềm tàng
Đánh giá rủi ro tiềm tàng là công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Mức độ rủi ro tiềm tàng được xác định có ảnh hưởng đến các thủ tục
kiểm toán, khối lượng công việc, thời gian và các nguồn lực cần huy động để phục vụ
cho cuộc kiểm toán.
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, KTV dựa vào các yếu tố có thể ảnh hưởng sau:
Một là, bản chất kinh doanh của khách hàng: rủi ro tiềm tàng thường bị tăng lên
bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh. Những ngành nghề có đặc thù khác
biệt có thể tạo nên khó khăn cho KTV hoặc những khoản không chắc chắn do đó có
thể làm tăng những gian lận hoặc sai sót trên BCTC. Ví dụ: Khách hàng kinh doanh
trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ đặc biệt khó khăn trong hạch toán doanh thu, do đó việc
kiểm toán doanh thu sẽ khó khăn hơn đối với các xí nghiệp sản xuất thông thường
Hai là, tính chính trực của Ban Giám đốc. BGĐ không thể xem là trung thực trong
mọi trường hợp. Khi BGĐ bị kiểm soát bởi một hoặc một số ít cá nhân thiếu tính trung
thực thì khả năng các BCTC có sai phạm nghiêm trọng sẽ tăng lên rất cao, khi đó rủi ro
tiềm tàng đựoc đánh giá ở mức cao.
Ba là, động cơ của khách hàng. Trong nhiều trường hợp, BGĐ tin tưởng rằng họ
sẽ có lợi nếu báo cáo sai lệch các thông tin tài chính. Tức là BGĐ có động cơ không
tốt trong việc lập BCTC.
Bốn là, kết quả các lần kiểm toán trước. Đối với tài khoản được phát hiện có sai
sót trong các lần kiểm toán năm trước, rủi ro tiềm tàng được xác định ở mức cao. Bởi
các sai sót này có nhiều khả năng lặp lại trong lần kiểm toán lần này. Lý do là vì nhiều

sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị thường chậm chạp không tiến hành các
biện pháp sửa chữa chúng.
Năm là, hợp đồng kiểm toán năm đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn. Trong các
hợp đồng kiểm toán năm đầu, KTV thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về các sai
sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với hợp
đồng kiểm toán dài hạn.
Sáu là, các bên liên quan. Các nghiệp vụ giữa Công ty mẹ và Công ty con, và các
nghiệp vụ giữa ban quản trị với việc sát nhập là những ví dụ về các nghiệp vụ kinh tế
giữa các bên liên quan. Những nghiệp vụ này xảy ra giữa hai thành phần độc lập với
nhau, do đó khả năng tồn tại các báo cáo sai phạm giữa họ tăng, rủi ro tiềm tàng sẽ
tăng lên. Ví dụ như các giao dịch mua bán giữa công ty mẹ và công ty con làm tăng
một khoản doanh thu không có thật.
Bảy là, các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên. Các nghiệp vụ này có khả
năng bị vào số sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do khách hàng thiếu
kinh nghiệm trong hạch toán các nghiệp vụ đó. Do đó, rủi ro tiềm tàng đối với các tài
khoản chứa các nghiệp vụ này được đánh giá cao.
Tám là, các ước tính kế toán: Rủi ro tiềm tàng của các tài khoản phản ánh các
ước tính kế toán (dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn
SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

22


Bản thảo chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: TS Đoàn Thị Ngọc Trai

kho,…) thường được đánh giá là cao. Nguyên nhân là do việc vào sổ các khoản mục
này không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất các khoản mục, lý thuyết liên quan
mà còn cả kinh nghiệm và sự phán đoán chủ quan của người thực hiện.

Chín là, số lượng tiền của các số dư tài khoản. KTV thường đánh giá các tài
khoản có số dư bằng tiền lớn sẽ tồn tại rủi ro tiềm tàng cao hơn so với tài khoản có số
dư bằng tiền nhỏ.

SVTH: Trương Thị Mỹ Dung – Lớp 35K18

23


×