Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Hiện trạng hệ thống thủy lợi nội đồng vùng Đồng bằng Sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.51 KB, 15 trang )

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

CHUYÊN ĐỀ 2.2.2
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI
ĐỒNG VÙNG ĐBSH
Thực hiện: Nguyến Đức Việt – Phòng Quản lý và HĐH công trình thủy lợi

MỤC LỤC

Trang 1


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VÙNG NGHIÊN CỨU
1.1.

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định là 3 trong số 10 tỉnh thuộc ĐBSH trong đó
Thái Bình, Nam Định 2 tỉnh đồng bằng ven biển, nằm ở vị trí hạ lưu sông Hồng, ba
mặt giáp đất liền và sông, 1 mặt giáp biển. Địa hình ba tỉnh nhìn chung tương đối
bằng phẳng độ dốc nhỏ hơn 1% theo hướng Nội Bắc - Đông Nam, cao độ mặt đất
phổ biến từ (+1.0)m tới (+2.0)m. Địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Tỉnh Nam Định có thể chia làm 2 khu vực: vùng chiêm trũng (điểm thấp nhất là 3 m
dưới mực nước biển ở huyện Ý Yên), và đồng bằng ven biển phía bên ngoài đê biển.
Một vài đồi núi thấp nằm ở phía Nội Bắc của tỉnh (chỗ cao nhất là đỉnh núi Gôi 122
m so với mực nước biển). Đường bờ biển dài 72 km nhưng bị ngắt đoạn bởi 4 cửa


sông lớn: Ba Lạt (sông Hồng), Đáy, Ninh Cơ, Lạch Giang (sông Sò).
Hưng Yên là một trong 7 tỉnh trọng điểm kinh tế Bắc Bộ, liền kề thủ đô Hà
Nội và có vị trí địa lý khá thuận lợi nên Hưng Yên đã có những thay nhanh chóng, là
một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong cơ
cấu GDP của tỉnh. Trước những thay đổi lớn của thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế
của đất nước, Hưng Yên sẽ có ảnh hưởng lớn như: đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn. Điều đó cũng sẽ ảnh hưởng tới hệ thống công trình
thủy lợi của tỉnh nói riêng cũng như vùng đồng bằng nói chung.

Tỉnh

Diện tích đất
tự nhiên (ha)

Diện tích đất
nông nghiệp
(ha)

Diện tích đất
trồng lúa (ha)

Diện tích nuôi
trồng thủy
sản (ha)

Hưng Yên

92.309

60.993


46.240

4.541

Thái Bình

156.700

106.812

82.000

10.178

Nam Định

165.005

115.174

85.867

12.996

(Nguồn: Tổng cục Thống kê-2009)
1.2.

KHÍ HẬU
Cả 3 tỉnh đều có khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, đặc trưng của vùng đồng bằng

sông Hồng. Có 4 mùa trong năm (xuân, hạ, thu, đông). Mùa hè nóng, mưa nhiều;
mùa đông lạnh, khô. Nhiệt độ năm trung bình từ 23°C đến 24°C. Mùa đông nhiệt độ
trung bình từ 16°C đến 17°C; tháng lạnh nhất là tháng 1 và tháng 2. Mùa hè nhiệt độ
Trang 2


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

trung bình từ 26°C đến 28°C; tháng nóng nhất là tháng 7, tháng 8. Độ ẩm trung bình
năm từ 80 đến 85%; độ ẩm mức cao nhất 90% rơi vào tháng 3. Lượng mưa trung
bình từ 1.700 đến 1.800 mm và phân bố tương đối đều trên toàn tỉnh. Mùa mưa chính
từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm 80% lượng mưa hàng năm. Từ tháng 11 đến tháng 4,
lượng mưa rất thấp, có tháng hoàn toàn không có mưa.
Tỉnh Nam Định và Thái Bình thuộc vịnh Bắc Bộ và hàng năm chịu ảnh hưởng
của bão nhiệt đới hay áp suất thấp. Mỗi năm trung bình có 4 đến 6 cơn bão, chủ yếu
từ tháng 7 đến tháng 10. Năm 2005, Nam Định và Thái Bình cũng bị chịu thiệt hại do
cơn bão lớn nhất trong vòng 100 năm. Nhiều khu vực trong dịa bàn tỉnh bị ngập lụt
khi nhiều đoạn đê biển bị vỡ do bão gây ra.
1.3.

KINH TẾ - XÃ HỘI
Hiện tại tỉnh Thái Bình đang xây dựng các khu công nghiệp tập trung lớn như
khu công nghiệp Phúc Khánh, Nguyễn Đức Cảnh, Tiền Phong, Tiền Hải, Diêm Điền,
Cầu Nghìn...vv. Toàn tỉnh có 284 xã, phường, thị trấn, trong đó hiện có 162 làng
nghề đang sản xuất được công nhận đủ tiêu chuẩn. Với số dân trên 1,8 triệu người,
mật độ 1.192 người/km2 cao nhất vùng đồng bằng sông Hồng, song thu nhập bình
quân đầu người theo giá thực tế năm 2005 mới đạt khoảng 5,7 triệu đồng/người bằng
58% mức trung bình cả nước và 65% mức TB của vùng đồng bằng sông Hồng.

Nam Định nằm trong vùng ảnh hưởng của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải
Phòng – Hạ Long. Tỉnh có thể tận dụng lợi thế của mạng lưới giao thông, bao gồm
đường sắt xuyên quốc gia, quốc lộ số 1, 10, 21 và đường bờ biển dài 72 km, hệ thống
sông Hồng, sông Đào, sông Đáy và sông Ninh Cơ, nhiều cảng sông, cảng biển Thịnh
Long đang trong giai đoạn xây dựng. Đây cũng là điều kiện ưu đãi để mở rộng trao
đổi thương mại và xã hội trong phạm vi tỉnh, quốc gia và với các quốc gia khác,
nhằm nắm vị trí dẫn đầu trong việc hoạch định chính sách kinh tế và phát triển xã hội
khu vực Đồng bằng phía Nam sông Hồng. Nam Định có khoảng hơn 100 làng nghề,
trong số đó có rất nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ như làng chạm khắc gỗ La
Xuyên, làng đúc đồng Tống Xá (cả hai đều ở huyện Ý Yên), sản xuất và dệt lụa
Phương Đình (huyện Trúc Ninh) và trồng hoa ở Vi Khê (huyện Nam Trực).
Hưng Yên là một trong 7 tỉnh trọng điểm kinh tế Bắc Bộ, liền kề thủ đô Hà
Nội và có vị trí địa lý khá thuận lợi nên Hưng Yên đã có những thay đổi nhanh
chóng, là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng
trong cơ cấu GDP của tỉnh. Hưng Yên có vị trí nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ,
gần Hà Nội, Hải Phong, Quảng Ninh, nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh – Lào
Cai – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng, có điều
kiện khá thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Hưng Yên có khoảng 62 làng nghề
Trang 3


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

bao gồm các làng nghề truyền thống và cùng với sự phát triển chung đến nay đã hình
thành thêm những làng nghể mới. Làng nghề truyền thống gồm: Nghề làm Tương
Bần, làng nghề đúc đồng, làng nghề làm cày bừa, nghề làm hương xạ... Còn các làng
nghề mới như : gốm sứ, kim hoàn, mây tre đan xuất khẩu, chế biến nông sản ... tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận không nhỏ nhân dân, góp phần quan

trọng nâng cao đời sống, phát triển kinh tế ở địa phương.
Dân số

Diện tích

(nghìn người)

(nghìn ha)

Hưng Yên

1131.2

92,3

1,225

Thái Bình

1784

156,7

1,138

Nam Định

1826.3

165,3


1,105

Tên vùng, tỉnh

Mật độ
(người/km2)

(Nguồn Tổng cục Thống kê-2009)
Mật độ dân số trung bình Đồng bằng sông Hồng là 1,150 người/km2, Hà Nội
có mật độ dân số cao nhất (1,827 người/km2) ở và Ninh Bình có mật độ dân số thấp
nhất ở (674 người/km2) . Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số trong vùng giảm
mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao, gấp 5 lần so với mật độ trung bình của cả nước,
gấp gần 3 lần so với Đồng bằng sông Cửu Long, gấp 10 lần so với Miền núi và trung
du Bắc Bộ và gấp 17,6 lần so với Nội Nguyên. Đây là một thuận lợi cho các tỉnh
trong vì có nguồn lao động dồi dào với truyền thống kinh nghiệm sản xuất phong
phú, chất lượng lao động dẫn đầu cả nước.
Tốc độ tăng trưởng vùng đồng bằng sông Hồng trên 10% và đóng góp khoảng
20% cho GDP của cả nước. Đồng bằng sông Hồng cũng là nơi tập trung nhiều các
cảng biển, khu công nghiệp, nông nghiệp nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế và tốc độ tăng trưởng ngày càng tăng.


Công nghiệp
Công nghiệp trong vùng phát triển khá năng động và cân đối, quá trình công
nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra nhanh, quy mô lớn. Phát triển các ngành công
nghiệp mũi nhọn. Các khu công nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp chế biến, công
nghiệp xuất khẩu. Các ngành và sản phẩm chủ yếu hiện đang phát triển trên lưu vực
Trang 4



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

là: công nghiệp cơ khí; công nghiệp điện tử và sản xuất đồ điện dân dụng; công
nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy. Các ngành sản xuất bia nước giải khát, công nghiệp may
mặc, dệt và da giày, công nghiệp giấy.
Các khu công nghiệp tập trung đang hình thành và phát triển như: Khu Đông
Bắc Hà Nội, khu Nam Thăng Long, khu Bắc Thăng Long, khu Sóc Sơn, khu Hoà
Lạc, khu công nghiệp Đồ Sơn, khu Nomura - Hải Phòng, khu Đình Vũ, khu Minh
Đức. Tình hình phát triển công nghiệp của các địa phương trong vùng cũng không
đồng đều nhau, tỷ lệ đóng góp của GDP công nghiệp trong khu vực đồng bằng sông
Hồng như sau: Hà Nội 38%, Hải Phòng 17.3%, Hải Dương 14.8% còn lại đều dưới
10%.


Dịch vụ
Nhờ kinh tế phát triển mà hoạt động vận tải trở nên sôi động. Các tỉnh trung
vùng trở thành những đầu mối giao thông quan trọng. Hưng Yên, Thái Bình, Nam
Định có nhiều địa danh du lịch hấp dẫn, nổi tiếng như Quất Lâm, bãi biển Tiền Hải
đang được đầu tư và bắt đầu đi vào khi thác.



Tình hình sản xuất nông nghiệp
Về diện tích và tổng sản lượng lương thực, Đồng bằng sông Hồng chỉ đứng
sau Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao nên năng
xuất lúa rất cao. Hầu hết các tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng đều phát triển một số cây
ưa lạnh đem lại hiệu quả kinh tế lớn như các cây ngô đông, khoai Nội, su hào, bắp

cải, cà chua và trồng hoa xen canh. Hiện nay, vụ đông đang trở thành vụ chính của
một số địa phương trong vùng.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành trồng cây lương thực luôn giữ địa vị
hàng đầu. Diện tích cây lương thực là khoảng 350.000 ha, chiếm khoảng 4% diện
tích cây lương thực của cả nước.Trong các cây lương thực, lúa có ý nghĩa quan trọng
nhất cả về diện tích và sản lượng. Hàng năm, Ðồng bằng sông Hồng có hơn 1 triệu
ha đất gieo trồng lúa. Với con số này, lúa chiếm 88% diện tích cây lương thực của
vùng.
Cây lúa có mặt ở hầu hết các nơi, nhưng tập trung nhất và đạt năng suất cao
nhất là ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định. Thái Bình trở thành tỉnh dẫn đầu cả nước về
năng suất lúa (65 tạ/ha – năm)
Việc nuôi, trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn đã được chú ý phát
triển, nhưng thực tế chưa khai thác hết tiềm năng của vùng. Hiện nay Thái Bình và
Nam Định có 3 vạn ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 7 % diện tích
mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của cả nước.
Trang 5


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

Hiện nay việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Do nhu cầu của thị trường, nguồn nước và điều kiện thời tiết (úng, hạn) nên 1 số
vùng đất trũng và những diện tích đất khó khăn về nguồn nước được chuyển sang các
mô hình trang trại nuôi trồng thuỷ sản kết hợp chăn nuôi (Lúa - Cá - Vịt; Lúa - Cá Cây ăn quả); mô hình trồng rau an toàn (rau sạch); trồng hoa, cây cảnh ... Đây là một
hướng đi mới trong quá trình phát triển nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng
mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao thu nhập và đời sống của bà con nông dân.



Đánh giá tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đến phát triển
thuỷ lợi ba tỉnh cũng như vùng đồng bằng sông Hồng nói chung

Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh
tế. Phát triển và hiện đại hoá nông nghiệp là 1 trong những mục tiêu được để phát
triển nền kinh tế đất nước. Những năm gần đây tình hình chính trị, kinh tế thế giới có
nhiều biến động, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, những nhân tố này ảnh hưởng
lớn đến nền kinh tế đất nước nên đảm bảo an ninh lương thực phải được coi trọng,
phát triển nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng và phát triển bền vững có sức cạnh
tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới nên việc phát triển thuỷ lợi rất cần
thiết.
Đồng bằng sông Hồng có diện tích đất nông nghiệp khoảng 1,4 triệu ha được
phù sa bồi đắp bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, nguồn nước tương đối dồi
dào thuận lợi trong công tác tưới, tiêu với khoảng 500.000 ha tới tiêu bằng động lực,
phần diện tích còn lại được tưới tiêu tự chảy (60%).
Địa hình vùng đồng bằng sông Hồng tương đối bằng phẳng nên rất thuận lợi
cho quá trình đầu tư, xây dựng các hệ thống thuỷ lợi từ công trình đầu mối, hệ thông
kênh và các công trình mặt ruộng do mực nước ổn định, dễ bố trí và quy hoạch thuỷ
lợi
Vùng đồng bằng sông Hồng có hệ thống đê quốc gia kiên cố bảo vệ trung tâm
kinh tế, chính trị trọng điểm của cả nước, phía thượng lưu có hồ Hoà Bình (khả năng
điều tiết nước tốt) nên các hệ thống thuỷ lợi hoạt động ổn định và an toàn, ít bị thiên
tai bão lũ tàn phá.
Các cửa sông của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình (Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định) có hệ thống đê biển kiên cố, mặt cắt ở các cửa sông nhỏ (so với
đồng bằng sông Cửu Long) nên xây dựng các công trình ngăn mặn và vận hành các
công trình lấy nước tự chảy lợi dụng dâng nước thuỷ triều hoạt động rất có hiệu quả.
ĐBSH có trình độ dân trí cao, có điều kiện tiếp cận và trao đổi thông tin
nhanh, lực lượng cán bộ trong ngành có năng lực, trình độ khoa học, thường xuyên
được đào tạo nên trong quá trình quản lý và vận hành các hệ thống thuỷ lợi mang lại

Trang 6


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

hiệu quả cao, thuận lợi và đáp ứng được cho nhu cầu phát triển thuỷ lợi trong tương
lai.
Những năm gần đây vấn đề biến đổi khí hậu có ảnh hưởng nhiều tới các địa
phương trên cả nước, hạn hán lũ lụt xảy ra nhiều nơi. Tình hình xâm nhập mặn do
mực nước biển dâng cao sẽ làm tình hình xâm nhập mặn tiến sâu vào các vùng canh
tác nên ảnh hưởng rất nhiều đến các công trình ngăn mặn đã được xây dựng trước
đây ở cả hiện tại và trong tương lai. Đây là những vấn đề rất mới và đang được quan
tâm của các cấp các ngành nên trong thời gian tới việc phát triển hệ thống thuỷ lợi
phải có phương hướng phù hợp trong quy hoạch thuỷ lợi và công tác chuyển đổi cơ
cấu cây trồng
1.4.

THUỶ VĂN SÔNG NGÒI
Hệ thống sông ngòi tỉnh Nam Định bao gồm 530 km đường sông suối, với
mật độ sông là 0,33 km/km2. Riêng 4 sông lớn (sông Hồng, sông Đáy, sông Đào và
sông Ninh Cơ) đã có tổng chiều dài là 251 km. Nằm trong hệ thống sông lớn này là
hệ thống 21 kênh rạch được phân bố rộng rãi theo hình xương cá, tổng chiều dài là
279 km. Chế độ nước sông được phân biệt rõ rệt bởi mùa lũ và mùa kiệt.
Khu vực hạ lưu sông có chiều sâu tương đối nông và tốc độ chảy chậm. Vì
vậy vào mùa mưa, nhiều khu vực bị lụt và ngập úng.
Khu vực duyên hải tỉnh Nam Định bị ảnh hưởng bởi thủy triều, trung bình
thủy triều lên cao từ 1,6 – 1,7 m, cao nhất là 3,3 m, thấp nhất 0,1 m. Thủy triều gây ra
tình trạng nhiễm mặn và tăng mực nước ở các sông gần bờ biển, và đồng thời các

sông và hệ thống kênh thủy lợi khu vực xa bờ biển. Thủy triều cũng ảnh hưởng đến
dòng chảy sông Hồng và sông Đáy, gây ra sự bồi đắp phù sa của hai sông này. Nhiều
bãi bồi được hình thành như Cồn Lu, Cồn Ngạn (huyện Giao Thủy), hay Cồn Xanh
và Cồn Mờ (huyện Nghĩa Hưng).
Theo tính chất đất đai, có thể chia tỉnh Nam Định thành 2 khu vực. Khu vực
phía Bắc bao gồm huyện Ý Yên, Vụ Bản và Mỹ Lộc và thành phố Nam Định. Khu
vực phía Nam bao gồm huyện Trực Ninh, Nam Trực, Xuân Trường, Hải Hậu, Nghĩa
Hưng và Giao Thủy. Phần lớn đất đai là đất phù sa trẻ, chiếm 82% diện tích đất. Đất
nhiễm kiềm chiếm 14%, và các loại đất khác chiếm tỉ lệ nhỏ như đất cát, đất nhiễm
phèn, đất feralit. Nhìn chung, loại đất chính của tỉnh Nam Định là đất phù sa bồi đắp
từ sông ngòi. Chất lượng đất phù hợp trồng nhiều loại cây.
Sông ngòi Hưng Yên có thể chia thành 2 loại: các sông chính và các sông
trong đồng. Hưng Yên được bao quanh bởi 2 sông lớn là sông Hồng ở phía Tây và
sông Luộc ở phía Nam. Sông Luộc là phần lưu thứ hai bên bờ tả của sông Hồng ở
Trang 7


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

huyện Hưng Hà ( Thái Bình), và đổ vào sông Thái Bình ở làng Quý Cao – Tứ Kỳ Hải Dương. Ngoài ra còn có sông Đuống là con sông chuyển nước từ sông Hồng
sang sông Thái Bình, tuy không chảy qua tỉnh nhưng chảy qua Hải Dương sát tỉnh
Hưng Yên, đóng góp phần khá quan trọng trong chế độ dòng chảy sông ngòi cũng
như việc tưới tiêu trong tỉnh.
Các sông trong đồng đều thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải gồm: Kim
Sơn, Cửu An, Điện Biên, Tây Kẻ Sặt… là các trục tưới tiêu rất quan trọng trong hệ
thống tưới tiêu của tỉnh.

Trang 8



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG CÔNG TRÌNH HTTN NỘI ĐỒNG

2.1.

KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH NỘI ĐỒNG
Hệ thống thuỷ lợi nội đồng bao gồm: các công trình lấy nước vào ruộng và
ruộng lúa, những công trình có thể được thiết kế cùng kênh cấp 3 như: Cửa lấy nước,
hộp chia nước, ống lấy nước, hoặc những công trình do người dân tự tạo để lấy nước
tưới như: Lỗ lấy nước, xi phông di động làm bằng ống nhựa mềm, máng dẫn nước tự
tạo bằng thân cây...

Hình 1: Một số loại công trình tiêu biểu của hệ thống thủy nông nội đồng.
2.2.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG THUỶ NÔNG NỘI ĐỒNG ĐBSH
Mạng lưới sông của ĐBSH cùng hệ thống đê sông đê biển đã chia đồng bằng
thành 30 hệ thống thuỷ lợi độc lập với diện tích từ 5.000 đến 200.000 ha (xem hình
2). Do những đặc điểm về địa lý, địa hình và nguồn nước mà cấu trúc và nguyên tắc
hoạt động của các hệ thống thủy nông trong vùng ĐBSH cũng có những đặc thù khác
nhau.
Theo Cục Thuỷ lợi – Bộ NN và PTNT, với hàng vạn km kênh mương và trên
35.000 máy bơm nhỏ thì hiện nay của các hệ thống thuỷ lợi nội đồng trong các hệ
Trang 9



NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

thống thuỷ nông cũng đóng một vai trò hết sức quan trong trong sản xuất nông
nghiệp và đó cũng là nền tảng để hoàn thành được các tiêu chí của Nông Thôn Mới.
Tại vùng ĐBSH, có đặc trưng hình thái sản xuất nông nghiệp khác nhau như:
Khoái Châu - Hưng Yên là không úng trũng, không ảnh hưởng triều; Ý Yên - Nam
Định là vùng úng trũng, không ảnh hưởng triều; Thái Thuỵ - Thái Bình là vùng ảnh
hưởng triều. Do vậy, đặc trưng của hệ thống thuỷ nông nội đồng của từng khu vực
cũng có những điểm khác nhau bao gồm việc bố trí kênh mương, quản lý vận hành
tưới tiêu.

24

22

13

1

3 30
5
2

r
ve
Ri


16 My Duc
17 Thuy Nguyen
18 Tien Lang
19 Vinh Bao
20 An Thuy
21 Bac Duong
22 Song Cau
23 Nam Yen Dung
24 Soc Son
25 Lien Son
26 Nam Ninh B×
nh
27 Bac Ninh B×
nh
28 Yen Lap
29 Uong Bi
30 Dong Trieu

r
ive
dR
Re

Irrigaion Systems

nh
Bi
ai
Th


14
1 Bac Hung Hai
2 Nam Thanh
3 ChÝLinh
4 An Kim Hai
5 Kim Mon
6 Bac Thai Binh
7 Nam Thai Binh
8 Bac Nam Ha
9 Nam Ninh
10 Nghia Hung
11 Xuan Thuy
12 Hai Hau
13 Song Nhue
14 Phu Sa
15 Ba Vi

23

21

15

16

29
4

17


20
19 18

6
27

8

7
9

26

28

Eas
tern
Sea

25

11

N

12
10

0


Km

50

Hình 2: Các hệ thống thuỷ nông vùng ĐBSH
Do hạn chế về mặt thời gian và nhân lực nên việc khảo sát thực địa nội đồng
sẽ tiến hành cho 3 hệ thống thuỷ nông lớn là: (i) Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải,
(ii) Hệ thống thuỷ nông Bắc Nam Hà, (iii) Hệ thống thuỷ nông Bắc Thái Bình.
2.3.

KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC ĐỊA VÙNG NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu

2.3.1.
1.

Khảo sát, đo đạc hiện trạng các công trình trong hệ thống:
-

Xác định vị trí khu vực cần khảo sát đảm bảo tính đa dạng để đại diện tương
đối cho toàn hệ thống thuộc 3 tỉnh: Hưng Yên, Nam Định và Thái Bình.

-

Đo đạc các thông số và kích thước cơ bản.

-

Xác định các vấn đề về bờ thửa, hình thức lấy nước, năng suất, phương pháp
tưới.

Trang 10


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

2.

Do hệ thống kênh nội đồng không có tên như hệ thống kênh cấp, nên sau khi đi
khảo sát thực địa rất khó khăn khi hệ thống lại kênh và các thửa ruộng, đề xuất
được sử dụng mã số cho các tuyến kênh, thửa ruộng được khảo sát;

3.

Mã số của vị trí tuyến kênh, thửa ruộng phải đồng bộ cho tất cả các phiếu điều
tra thực địa nội đồng (NĐ);

4.

Việc thực hiện sơ họa phải thống nhất lấy điểm gốc có tên cụ thể trên hệ thống
tưới tiêu (ví dụ: cửa hoặc cống lấy nước lớn vào kênh nội đồng)

5.

Phỏng vấn cán bộ quản lý, các hộ nông dân ở các hợp tác xã trong địa bàn hệ
thống về công tác vận hành, quản lý hệ thống công trình.

6.


Nhận xét, đánh giá về hiện trạng hệ thống thủy nông nội đồng theo các tiêu chí:
-

Khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công trình tưới mặt ruộng.

-

Mức độ tiên tiến của các công trình.

-

Mức độ tiện lợi trong quản lý vận hành.
Kênh phân phối nước nội đồng

2.3.2.

Theo một số các quyết định thu thuỷ lợi phí của các tỉnh trong quá trình chờ
đợi thông tư hướng dẫn của Bộ NN& PTNT thì: kênh mương nội đồng là phần kênh
mương sau cống đầu kênh đến mặt ruộng của hộ nông dân và cống đầu kênh theo
Nghị định 115/2008/NĐ-CP là công trình dẫn nước hoặc tiêu nước cho một diện tích
hưởng lợi nhất định thuộc trách nhiệm quản lý của người hưởng lợi.
Kênh mương phân phối nước nội đồng phần lớn được quy hoạch và phát triển
trong thời kì hoàn chỉnh thuỷ nông năm 1973 – 1974, sau gần 30 năm phục vụ sản
xuất cho các ngành nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hiện trạng kênh mương vùng
ĐBSH có những đặc điểm sau:


Bố trí các tuyến kênh mương nội đồng:

Theo quy hoạch trước đây, ở mỗi lô ruộng phía đầu ruộng cao bố trí một kênh

tưới, phía thấp bố trí một kênh tiêu (gọi là kênh mặt ruộng). Giữa 2 kênh tưới và tiêu
là đường giao thông nội đồng (2 kênh 3 bơ). Cứ 3 - 4 thửa ruộng thì chung một bờ
vùng. Các bờ vùng cách nhau khoảng 100m.
Tuy nhiên, hiện nay một số hệ thống thủy lợi nội đồng (chủ yếu là các hệ
thống chưa được kiên cố hóa) đã không được điều tiết nước mặt ruộng theo như quy
hoạch ban đầu dẫn đến hầu hết các kênh tưới và tiêu đều trở thành “tưới tiêu kết
hợp”.

Trang 11


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

Hình 3: Sơ đồ bố trí hệ thống kênh tưới và tiêu theo quy hoạch
Tại những vùng sản xuất nông nghiệp mang tính chất tự phát như Hưng Yên
xen canh nhiều loại cây trồng ngô, đậu tương, cỏ ngọt… thì việc bố kênh mương
cũng đã bị người dân thay đổi để phù hợp với yêu cầu sản xuất của họ, nguyên nhân
là do yêu cầu sử dụng nước không đồng đều như các vùng trồng lúa tập trung.


Đầu tư kiên cố hoá kênh mương không đồng đều giữa các vùng:

Do nguồn ngân sách hạn chế, nên do nguồn kinh phí xây dựng, cải tạo các hệ
thống thủy lợi còn hạn chế nên ngân sách nhà nước mới chú trọng vào việc đầu tư
cho các công trình đầu mối mà chưa quan tâm đúng mức đến hệ thống thủy lợi nội
đồng. Hầu hết các dự án xây mới hoặc nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi, phần
vốn xây dựng, cải tạo hệ thống thủy lợi nội đồng là vốn đối ứng của địa phương nên
thường bị đầu tư nhỏ giọt, không đồng bộ hoặc không được thực hiện. Dẫn đến phát

huy hiệu quả của các công trình cải tạo nâng cấp thấp không được như mong muốn.
Một thực trạng là những hệ thống kênh mương nội đồng phục vụ cho những
khu vực sản xuất nông nghiệp theo hướng tự cung, tự cấp phần lớn vẫn là kênh đất,
nhưng với các khu sản xuất cây trồng theo hương sản xuất hàng hoá thì người dân tự
giác trích một phần lợi nhuận ra để xây dựng, kiên cố kênh mương nội đồng. Minh
hoạ rõ nét là tại 02 xã An Vĩ – huyện Khoái Châu và Mễ Sở - huyện Văn Giang tỉnh
Hưng Yên.
Tỉnh Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Đông Bắc Bộ. Do
có điều kiện thuận lợi về thời tiết, thổ nhưỡng chủ yếu là loại đất phù sa sông Hồng
Trang 12


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

được bồi: Màu nâu thẫm, đất trung tính, ít chua, đây là loại đất tốt nên thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp nhưng không đồng đều giữa các vùng.
Xã An Vĩ – huyện Khoái Châu – Tỉnh Hưng Yên 7509 nhân khẩu, 2009 hộ,
thu nhập bình quân đầu người năm 2010 là trên 16 triệu đồng, tỷ lệ phát triển dân số
0,7%, tỷ lệ hộ nghèo 12,2%; có cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất cây
lương thực như lúa, ngô và các cây ngắn ngày như rau, đậu, thực phẩm. Lợi ích thu
được từ sản xuất nông nghiệp trong năm 2010 là 41 tỷ 941 triệu đồng nên việc tạo
nguồn vốn đầu tư cho nâng cấp hệ thống thuỷ lợi nội đồng không nhiều.
Hiện nay trên toàn xã xã An Vĩ có 9,5 km kênh mương nội đồng tưới cho 302
ha trong đó diện tích trồng màu là 130 – 180 ha, hiện xã đã được kiên cố khoảng 2
km chiếm 21% bằng 2 nguồn là: trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và
vốn đối ứng của tỉnh.

Hình 4: Kênh lấy nước nội đồng xã An Vĩ – Khoái Châu – Hưng Yên

Ngược lại, xã Mễ Sở - huyện Văn Giang – Tỉnh Hưng Yên lại chú trọng khai
thác và phát huy được lợi thế sinh thái nông nghiệp trên địa bàn là nằm ở trung tâm
vùng châu thổ sông Hồng màu mỡ và trù phú nên trong những năm qua, xã Mễ Sở
(Văn Giang) tích cực vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trên
đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Đến nay, 100% diện tích đất nông
nghiệp của xã được chuyển đổi từ trồng lúa và cây màu có giá trị kinh tế thấp sang
trồng cây dược liệu, cây cảnh, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Năm 2005, giá trị sản
Trang 13


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

xuất nông nghiệp ước đạt 42 tỷ 620 triệu đồng, thu nhập bình quân đạt 95 triệu
đồng/1ha, đặc biệt một số diện tích trồng cam đường canh cho thu nhập trên 200
triệu đồng/ha/năm. Do đó, huy động được vốn đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi từ nhân
dân rất lớn. Từ kết quả của nâng cấp hệ thống thuỷ lợi nội đồng đến năm 2010, giá trị
sản xuất nông nghiệp tổng giá trị sản xuất đạt 131 tỷ đồng /năm, giá trị thu nhập đạt
120 triệu đồng /ha, hiện trạng hệ thống thuỷ lợi được kiên cố hoá trên 90%, cải tạo và
nâng cấp đường giao thông thôn xóm, đặc biệt các tuyến đường nội đồng đã tạo
thuận lợi cho nhân dân trong việc mua bán, tiêu thụ sản phẩm ngay tại chân ruộng.
Đây cũng là cơ sở tốt để thực hiện được chương trình Nông Thôn Mới trong những
năm tiếp theo.

Hình 5: Kênh gạch xây nội đồng xã Mễ Sở – Văn Giang – Hưng Yên


Kênh mương xuống cấp theo thời gian:


Hệ thống kênh mương nội đồng được xây dựng và phát triển từ những năm
1963, sau gần 40 năm hệ thống kê mương này đã xuống cấp nhiều cụ thể: mức độ bồi
lắng lòng kênh lớn, dọc theo bờ kênh (thường là một bên là bờ thửa hoặc bờ vùng và
một bên là đường giao thông nông thôn) bị sạt lở, méo mó.
Nguyên nhân ban đầu được xác định là của việc xuống cấp hệ thống kênh
mương nội đồng của ĐBSH là do hệ thống kênh chạy dọc theo sông Hồng nên lượng
Trang 14


NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG NỘI ĐỒNG VÙNG ĐBSH

06/ 2011

phù sa bồi tích nhiều, trong thời gian nông nhàn các máy bơm ngừng hoạt động nên
cỏ rác rác xuất hiện nhiều khiến mặt cắt lòng kênh bị thu hẹp hơn so với thiết kế, các
chỗ đoạn bờ kênh kết hợp bờ vùng thì việc thay đổi mặt cắt còn nghiêm trọng hơn do
người dân sau khi bổ bờ lấy nước xong thì đắp lại nhưng không được như cũ, qua
nhiều năm có những đoạn mặt cắt trung bình có chỗ chỉ đạt 30 – 50 % so với ban
đầu.
Tiến hành đi thực địa khảo sát hiện trạng kênh mương nội đồng cụ thể cho 3
vùng cho các kết quả sau:
Vùng không úng trũng, không ảnh hưởng triều: xã An Vĩ – huyện Khoái Châu
– tỉnh Hưng Yên
Nguồn nước cấp cho hệ thống thủy nông tại xã An Vĩ như sau: Phía tây xã lấy
từ kênh Tây, phía Đông từ kênh Đông của hệ thống Trạm bơm Cổ Đam và khu trung
tâm bơm nước từ sông Trục Hồ Sài Thị (là sông trục tiêu cho ¾ diện tích địa
phương).
Các xứ đồng có độ cao không đều, hệ thống kênh mương nội đồng chằng chịt.
Phần lớn hệ thống kênh mương nội đồng là kênh đất, chiều dài tuyến kênh nội đồng
dài trung bình từ 50 – 200m, lòng kênh chủ yếu là đất pha cát nhẹ nên tổn thất nước

lớn; sơ đồ bố trí các tuyến kênh đa dạng và phức tạp bởi việc phân bố các thửa ruộng,
các loại cây trồng xen kẽ, không có nhiều vùng chuyên canh.
Để làm rõ những tồn tại và khó khăn của hệ thống kênh mương nội đồng trên,
những người thực hiện chuyên đề chọn mương Cây Thị, một số kênh nội đồng lấy
nước từ kênh cấp II T9 và hệ thống mặt ruộng tại đó để khảo sát chi tiết.
Sơ đồ khảo sát tuyến kênh nội đồng xã An Vĩ – huyện Khoái Châu – Tỉnh
Hưng Yên:

1

1

Trang 15



×