Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Kiến thức và thực hành về chăm sóc trước, trong sinh của bà mẹ dân tộc thái tại huyện điện biên tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN NGỌC CHUNG

KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ CHĂM SÓC
TRƢỚC, TRONG SINH CỦA BÀ MẸ DÂN TỘC
THÁI TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG

THÁI BÌNH - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN NGỌC CHUNG

KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ CHĂM SÓC
TRƢỚC, TRONG SINH CỦA BÀ MẸ DÂN TỘC
THÁI TẠI HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 60 72 03 01



Hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Đức Thanh
2. TS. Nguyễn Thị Hiên

THÁI BÌNH - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này tôi đã
nhận được nhiều sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các cá nhân, thầy cô và
tập thể Khoa, Phòng, các Bộ môn Trường Đại học Y Dược Thái Bình và
Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Điện Biên, Trung tâm Y tế huyện Điện Biên.
Nhân dịp này tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng uỷ, Ban Giám hiệu,
Phòng Quản lý Đào tạo sau Đại học, và Khoa Y tế Công cộng Trường Đại
học Y Dược Thái Bình đã cho phép, tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và hoàn
thành nội dung, yêu cầu chương trình đạo tạo Cao học Y tế Công cộng.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đức Thanh,
TS. Nguyễn Thị Hiên là những thầy, cô đã trực tiếp hướng dẫn tôi từng bước
hoàn thành chương trình học tập và làm luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới Ban Giám đốc, các Khoa, Phòng, cán bộ
công nhân viên Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Điện Biên và Trung tâm Y tế
huyện Điện Biên đã giúp đỡ tôi trong công tác nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, người thân, bạn bè và
những đồng nghiệp đã tạo điều kiện, nâng đỡ, chia sẻ khó khăn cùng tôi, động
viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu được tiến hành nghiêm
túc, các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Thái Bình, tháng 5 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Chung


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS

Acquired Immunodeficiency Syndrome
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải

BPTT

Biện pháp tránh thai

CBYT

Cán bộ y tế

CĐTB

Cô đỡ thôn bản


CTVDS

Cộng tác viên dân số

CSSKSS

Chăm sóc sức khỏe sinh sản

SKSS

Sức khoẻ sinh sản

CSYT

Cơ sở y tế

HIV

Human Immunodeficiency Virus
Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người

KHHGĐ

Kế hoạch hoá gia đình

TYT

Trạm y tế

YTTB


Y tế thôn bản

UNFPA

WHO

United Nations Population Fund
Quỹ dân số Liên hợp quốc
World Health Organization
Tổ chức Y tế Thế giới


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3
1.1. Một số khái niệm .............................................................................................. 3
1.2. Thực trạng chăm sóc trước sinh và trong khi sinh ..................................... 4
1.2.1. Chăm sóc người mẹ .................................................................... 4
1.2.2. Chăm sóc trẻ sơ sinh ................................................................. 10
1.3. Kiến thức và thực hành của phụ nữ về chăm sóc trước và trong khi sinh .. 14
1.4. Một số đặc điểm văn hóa, tập quán, chăm sóc sức khỏe sinh sản đặc
trưng của phụ nữ dân tộc Thái .................................................................... 21
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........... 24
2.1. Đối tượng, địa bàn và thời gian nghiên cứu .............................................. 24
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................... 24
2.1.2. Địa bàn nghiên cứu ................................................................... 24
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ................................................................ 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 28

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu .................................................................. 28
2.2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu ................................................................ 28
2.2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................ 30
2.2.4. Phương pháp thu thập thông tin ................................................ 32
2.2.5. Mô ̣t số quy định khi đánh giá ................................................... 32
2.2.6. Xử lý số liệu ............................................................................. 33
2.2.7. Hạn chế sai số ........................................................................... 33
2.2.8. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ............................................. 34


Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 35
3.1. KIẾN THỨC CHĂM SÓC TRƯỚC VÀ TRONG SINH CỦA BÀ MẸ
DÂN TỘC THÁI NUÔI CON DƯỚI 12 THÁNG TUỔI ..................... 35
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học, y tế của đối tượng ............................ 35
3.1.2. Kiến thức chăm sóc trước và trong sinh của đối tượng ............. 38
3.2. THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRƯỚC VÀ TRONG SINH CỦA BÀ
MẸ DÂN TỘC THÁI NUÔI CON DƯỚI 12 THÁNG TUỔI ............. 49
Chƣơng 4. BÀN LUẬN ............................................................................. 56
4.1. KIẾN THỨC VỀ CHĂM SÓC TRƯỚC VÀ TRONG SINH CỦA
ĐỐI TƯỢNG ................................................................................................ 56
4.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học, y tế của đối tượng ............................ 56
4.1.2. Kiến thức về chăm sóc trước và trong sinh của đối tượng ......... 57
4.2. THỰC HÀNH CHĂM SÓC TRƯỚC VÀ TRONG SINH CỦA
ĐỐI TƯỢNG ................................................................................................ 64
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
KHUYẾN NGHỊ......................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 3.1.

Trình độ học vấn của các bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi ....... 36

Bảng 3.2.

Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi theo tôn giáo ................. 36

Bảng 3.3.

Nghề nghiệp của các bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi.............. 37

Bảng 3.4.

Số con hiện có của bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi ................. 37

Bảng 3.5.

Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi theo điều kiện kinh tế ... 38

Bảng 3.6.

Tỷ lệ bà mẹ được tiếp cận truyền thông về chăm sóc trước,
trong sinh ................................................................................. 38

Bảng 3.7.

Cách thức của bà mẹ tiếp cận thông tin truyền thông ................ 39


Bảng 3.8.

Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu có thai .......................................... 40

Bảng 3.9.

Tỷ lệ bà mẹ biế t về số lần cần khám thai trong một thai kỳ ....... 41

Bảng 3.10. Tỷ lệ bà mẹ biế t về các thời điểm khám thai ............................. 41
Bảng 3.11. Tỷ lệ bà mẹ biế t về số lần cần tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ
mang thai .................................................................................. 42
Bảng 3.12. Tỷ lệ bà mẹ biế t về uống viên sắt khi mang thai ....................... 42
Bảng 3.13. Tỷ lệ bà mẹ biế t về cách uống viên sắt khi mang thai ............... 43
Bảng 3.14. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu nguy hiểm trong thời gian mang tha
i 44
Bảng 3.15. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu nguy hiểm khi mang thai phải
chuyển đến cơ sở y tế ............................................................... 45
Bảng 3.16. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu chuyển dạ, chia theo vùng ........... 46
Bảng 3.17. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu nguy hiểm trong chuyển dạ

, chia

theo vùng ................................................................................. 48
Bảng 3.18. Tỷ lệ bà mẹ có khám thai trong lần mang thai gần nhất ............ 49
Bảng 3.19. Người khám thai cho bà mẹ trong các lần khám thai ................ 49
Bảng 3.20. Nội dung tư vấn của người khám thai cho các bà mẹ ................ 50
Bảng 3.21. Tỷ lệ bà mẹ có uống viên sắt trong lần mang thai vừa qua ........ 51
Bảng 3.22. Tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn ván ...................................... 52



Bảng 3.23. Nơi sinh con của các bà mẹ, chia theo các vùng ....................... 53
Bảng 3.24. Người quyết định nơi sinh của bà mẹ trong lần sinh gần đây nhất . 53
Bảng 3.25. Mối liên quan của việc sinh con tại cơ sở y tế và khu vực sinh
sống của bà mẹ ......................................................................... 54
Bảng 3.26. Tỷ lệ bà mẹ xảy ra bất thường khi sinh ..................................... 54
Bảng 3.27. Phân loại dấu hiệu bất thường trong lần sinh gần đây nhất ....... 55


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 12 tháng tuổi theo tuổi ....................... 35
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu chuyển dạ ................................... 46
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ bà mẹ biế t về dấu hiệu nguy hiểm trong chuyển dạ ........ 47
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ bà mẹ được tiêm phòng uốn ván ...................................... 51
Biểu đồ 3.5. Nơi sinh con của các bà mẹ ...................................................... 52


-1-

ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm sức khỏe sinh sản (SKSS) lần đầu tiên được đưa ra trong
Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển diễn
ra tại Cai-rô, Ai-Cập năm 1994, theo đó sức khoẻ sinh sản: “Sức khoẻ sinh
sản là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, không chỉ đơn
thuần là không có bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản. Điều này cũng
hàm ý là mọi người, kể cả nam và nữ, đều có quyền được nhận thông tin và
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các biện pháp kế hoạch hoá gia đình
an toàn, có hiệu quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, đảm bảo
cho người phụ nữ trải qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các

cặp vợ chồng cơ may tốt nhất để sinh được đứa con lành mạnh”.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra khuyến cáo để có những đứa trẻ
khỏe mạnh, thông minh thì các bà mẹ phải được chăm sóc sức khỏe liên tục
từ khi có ý định mang thai đến khi đứa trẻ chào đời. Sức khỏe, bệnh tật của bà
mẹ trong thời kỳ mang thai, thời kỳ cho con bú đều ảnh hưởng đến sự phát
triển và sức khỏe của đứa trẻ. Trong những năm gần đây, nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho mọi người đã và đang nhận được nhiều sự
quan tâm của Chính phủ các nước trên Thế giới cũng như của Việt Nam. Năm
2009 Bộ Y tế đã ban hành “Hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản” (gọi tắt là Hướng dẫn quốc gia) áp dụng cho tất cả các cơ sở y
tế trong đó có các trạm y tế (TYT) xã. Nội dung của Hướng dẫn Quốc gia tập
trung vào các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh sản trong đó có nội dung chủ
yếu về chăm sóc trước và trong sinh [4].
Theo số liệu công bố của Bộ Y tế trong Niên giám thống kê y tế năm
2013, tỉnh Điện Biên có tỷ lệ phụ nữ khám thai 3 lần trở lên năm 2012 mới
chỉ ở mức 50,7%. Tỷ lệ đẻ do cán bộ y tế đỡ mới chiếm 73%; số tai biến sản
khoa năm 2013 đứng thứ 2 vùng Trung du và miền núi phía Bắc 53 ca mắc


-2-

trong đó có 5 ca tử vong [2]. Việc tỷ lệ phụ nữ khám thai đầy đủ 3 lần chưa
cao cũng được đề cập trong một nghiên cứu khác tiến hành tại Hòa Bình năm
2005 [30].
Huyện Điện Biên là một huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Điện Biên.
Huyện còn gặp nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế, văn hóa. Đặc biệt, huyện
là nơi có nhiều đồng bào dân tộc Thái sinh sống. Trong công tác chăm sóc sức
khỏe cho người dân nói chung, dân tộc Thái nói riêng, chính vì thế còn gặp
rất nhiều khó khăn và kết quả thu được cũng còn nhiều hạn chế.
Trong bối cảnh trên, một câu hỏi đặt ra là: với điều kiện còn nhiều khó

khăn như hiện tại thì đặc điểm nhân khẩu học, y tế, kiến thức và thực hành
chăm sóc trước và trong sinh của của phụ nữ dân tộc Thái trên địa bàn huyện
Điện Biên hiện nay như thế nào? Tuy nhiên, những nghiên cứu có giá trị về
nội dung này hiện còn rất thiếu để các nhà quản lý của địa phương có cơ sở
hoạch định chính sách phù hợp và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe bà
mẹ trẻ em nói chung, chăm sóc bà mẹ trước và trong sinh nói riêng hiện nay.
Từ thực trạng trên chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục tiêu sau:
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả kiến thức về chăm sóc trước và trong sinh của các bà mẹ dân
tộc Thái có con dưới 12 tháng tuổi trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên năm 2015.
2. Mô tả thực hành về chăm sóc trước và trong sinh của các bà mẹ dân
tộc Thái có con dưới 12 tháng tuổi trên địa bàn nghiên cứu.


-3-

Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
Trong mỗi lần mang thai và sinh nở, người phụ nữ phải đối mặt với
nhiều nguy cơ liên quan tới những tai biến đột ngột, nguy hiểm và khó lường
trước. Những tai biến này có thể dẫn tới thương tật thậm chí tử vong cho bà
mẹ và thai nhi. Thai nghén với người phụ nữ là một hiện tượng sinh lý mang
nhiều tính chất đặc biệt rất dễ chuyển thành bệnh lý, vì thế chăm sóc bà mẹ
trong quá trình thai nghén là một công việc quan trọng. Quá trình này, theo
quy định của Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
sinh sản [4] gồm 3 thời kỳ: thời kỳ trước sinh, thời kỳ trong sinh và thời kỳ
sau sinh.
Làm mẹ an toàn (LMAT): được hiểu là tất cả phụ nữ đều được nhận sự

chăm sóc cần thiết để được hoàn toàn khoẻ mạnh trong suốt thời gian mang
thai, khi sinh đẻ và sau đẻ , bao gồm cả viê ̣c điều trị cấp cứu sản khoa khi có
tai biến xảy ra.
Tỷ suất chết của người mẹ trong thời gian thai sản [1]:
Tỷ suất chết của người mẹ trong thời gian thai sản
chết mẹ” ) là một trong những chỉ tiêu phản ánh mức độ chế

(gọi tắt là “tỷ suất
t theo nguyên

nhân chế t , phục vụ đánh giá kế t quả chăm sóc sức khoẻ phụ nữ trong quá
trình thai sản nói riêng và các chương trình bảo vệ bà mẹ

, trẻ sơ sinh nói

chung.
Số phụ nữ chết do những nguyên nhân liên quan đến mang thai và s inh
đẻ (không do những nguyên nhân tiǹ h cờ như số t rét , tai na ̣n, tự tử...), đã xảy
ra trong thời gian từ khi mang thai cho đế n 42 ngày sau đẻ tính bình quân trên
100.000 trẻ em sinh ra sống trong kỳ nghiên cứu (thường là mô ̣t năm lịch ).


-4-

Kế hoạch hóa gia đình : Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), kế hoạch hóa gia đình là nỗ lực có ý thức của các cặp vợ chồng để
điều chỉnh số con và khoảng cách sinh con theo ý muốn.
1.2. Thực trạng chăm sóc trƣớc sinh và trong khi sinh
1.2.1. Chăm sóc người mẹ
Ở các nước đang phát triển, mang thai và sinh đẻ là những nguyên nhân

hàng đầu gây tử vong, bệnh tật và tàn tật ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ (1549). Tử vong trong nhóm tuổi này chiếm ít nhất (18%) tổng số gánh nặng bệnh
tật toàn cầu, cao hơn bất kỳ vấn đề sức khỏe đơn lẻ nào khác. Trong bản báo
cáo “Ước lượng tử vong mẹ năm 2005” của Tổ chức Y tế Thế giới và Ngân
hàng Thế giới đã chỉ ra rằng, trung bình cứ mỗi phút trôi qua thì có một phụ
nữ tử vong do các nguyên nhân liên quan đến thai sản [29], [58], [59]. Người
ta cũng thấy rằng: Phụ nữ mang thai nhớ lại qua việc tập trung nhiều hơn vào
các thủ thuật cụ thể và ít về nhớ hơn về các mối liên quan khác so với phụ nữ
sau sinh [53].
Trong báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới về tình hình sức khỏe năm
2005 [58], tai biến sản khoa băng huyết ở châu Phi và châu Á ở mức rất cao
với tỷ lệ là 33,9% và 30,8% theo thứ tự. Tại các khu vực đang phát triển tỷ
suất tử vong mẹ (MMR) vẫn cao hơn tỷ lệ chung trên thế giới (MMR=450).
Tỷ suất tử vong mẹ tại khu vực Đông Nam Á (MMR=300) thấp hơn so với tỷ
suất chung của khu vực các nước đang phát triển [59].
Tỷ suất tử vong mẹ có sự khác biệt rõ ràng giữa các nước giàu và nước
nghèo, và giữa các châu lục với nhau. Tỷ suất tử vong mẹ ở các nước phát
triển là 9/100.000, đối lập sâu sắc với tỷ suất tử vong mẹ lên đến 450/100.000
tại các nước đang phát triển [15], [59]. Có tới 99% số các trường hợp tử vong
mẹ xảy ra ở các nước đang phát triển, nhiều nhất ở khu vực châu Phi và Nam


-5-

Á. Ngay trong cùng một châu lục, sự khác biệt về tỷ suất tử vong mẹ cũng khá
rõ rệt. Tại khu vực châu Á, tỷ suất tử vong mẹ cao nhất thuộc về khu vực Nam
Á (MMR=490), trong khi tại khu vực Đông Á con số này chỉ là MMR=50.
Công bố của Liên Hợp Quốc cũng chỉ ra, một phụ nữ 15 tuổi có nguy cơ tử
vong do biến chứng liên quan đến thai sản cao nhất ở Nigeria (1/7), và nguy
cơ thấp nhất ở Ireland (1/48.000) [59].
Các số liệu thống kê đã chỉ ra rằng tỷ suất tử vong mẹ tính chung trên

toàn cầu giảm chậm đồng thời cho thấy tỷ lệ giảm này chủ yếu chỉ diễn ra ở
các khu vực đã có sẵn mức độ tử vong mẹ tương đối thấp, như khu vực Đông
Á (MMR năm 1990 và 2005 lần lượt là 95 và 50), trong khi đó tỷ lệ tử vong
mẹ giảm rất chậm ở những khu vực mà trước đó tỷ lệ tử vong đã cao sẵn,
chẳng hạn như khu vực Cận Sahara (MMR năm 1990 và 2005 lần lượt là 920
và 900) [59].
Các nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tử vong mẹ là các tai biến sản khoa
trong giai đoạn thai sản (thời kỳ mang thai, chuyển dạ và sau sinh), do can
thiệp sản khoa, chẩn đoán sai, điều trị không đúng. Cụ thể như băng huyết,
nhiễm trùng, tiền sản giật/sản giật, đẻ khó, nạo hút thai không an toàn, chửa
ngoài tử cung, tắc mạch ối và các trường hợp tử vong có liên quan đến gây mê
do mổ lấy thai… trong đó nguyên nhân gây tử vong mẹ nhiều nhất là băng
huyết. Đây là nguyên nhân chính gây ra tử vong mẹ ở các nước đang phát
triển, chiếm hơn 25% tổng số ca tử vong. Nhiễm khuẩn sau đẻ là nguyên nhân
quan trọng xếp thứ 2 của chết mẹ ở các nước đang phát triển, chiếm đến 20%
tổng số ca chết mẹ [14], [15].
Tử vong mẹ do nguyên nhân gián tiếp là những trường hợp tử vong do
những bệnh hiện tại hoặc đã mắc từ trước và phát triển nặng lên trong quá
trình mang thai mà không phải do nguyên nhân sản khoa trực tiếp mà do hậu
quả của việc mang thai. Ví dụ như bệnh gan, thiếu máu, sốt rét, bệnh tim, lao,


-6-

AIDS và uốn ván. Các nguyên nhân gián tiếp này chiếm khoảng 20% các
trường hợp tử vong mẹ trên thế giới. Bên cạnh đó, các yếu tố góp phần tác
động đến tử vong mẹ là các thực hành tìm kiếm sự chăm sóc trong thời kỳ
mang thai, sinh đẻ và giai đoạn sau sinh như chậm trễ đến các cơ sở chăm sóc
thích hợp, chậm trễ trong việc chẩn đoán, điều trị ở cơ sở y tế, sự sẵn có và
chất lượng chăm sóc tại cơ sở y tế mà người phụ nữ có thể tiếp cận. Như vậy,

trình độ kỹ thuật, điều kiện cơ sở vật chất, dịch vụ chăm sóc y tế thiếu thốn,
lạc hậu cùng với các thói quen và kiến thức hạn chế của các bà mẹ trong khi
mang thai và khi sinh là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sức
khỏe bà mẹ [13], [15].
Bùi Đình Long tiến hành nghiên cứu [18] tìm hiểu tỷ lệ, các nguyên
nhân tử vong ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và tử vong mẹ ở Nghệ An 2 năm
2009 - 2010 về tử vong trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) cho thấy: tỷ lệ tử
vong của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ/tổng số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là
0,13%; tỷ lệ tử vong của phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ/tổng dân số là 0,03%
Qua điều tra có 11 nguyên nhân, cao nhất là ung thư chiếm 29,88%; Thứ hai
là tai nạn giao thông và lao động 22,51%; Thứ ba là suy kiệt 15,54%; Nguyên
nhân do thai nghén chiếm 3%; nhiễm trùng 1,19%. Về tử vong mẹ: Tỷ lệ tử
vong mẹ là 3,98%. Nguyên nhân tử vong mẹ: Qua điều tra có 8 nguyên nhân,
chảy máu sau đẻ, sau mổ chiếm 35%; Suy tim, nhiễm HIV/AIDS đều 15%;
Nhiễm trùng 10%; Rau bong non, suy tim và ngộ độc thuốc nam đều 5%. Lý
do tử vong mẹ không nhìn từ góc độ nguyên nhân y học: Cấp cứu, điều trị
chậm chiếm 50%; Khó xác định 25% (những ca như tắc ối, rau bong non);
Thiếu máu truyền cho bệnh nhân 10%; Đẻ tại nhà, chẩn đoán và điều trị sai và
ngộ độc thuốc nam đều 5%. Theo nghiên cứu Lưu Thị Hồng [15], tỷ suất tử
vong mẹ của nhóm kết thúc thai nghén tại nhà rất cao (156/100.000 ca sinh


-7-

sống) và cao gấp 5 lần so với nhóm kết thúc thai nghén tại trạm y tế và bệnh
viện (32/100.000 ca sinh sống).
Kết quả điều tra thực hành chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ 1549 tuổi ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai cho thấy phụ nữ đã đi khám thai từ 3 lần
trở lên thấp, chỉ có 41,3% và có tới một phần tư số phụ nữ mang thai lần gần
đây nhất không đi khám thai. Hầu hết phụ nữ được phỏng vấn cho biết nhân
viên y tế của các cơ sở y tế ở tỉnh, huyện và xã đã khám thai cho họ trong lần

mang thai gần nhất (91,2%). Trong số 63 trường hợp không sinh tại cơ sở y tế,
chiếm 67,7% số phụ nữ cho biết họ có sử dụng “gói đẻ sạch” hoặc “túi đỡ đẻ”.
Tỷ lệ phụ nữ không sử dụng những hỗ trợ này chiếm 23,7%. Việc không sử
dụng gói đẻ sạch khi sinh tại nhà dễ dẫn tới nhiễm trùng khi sinh, nguy cơ cao
ảnh hưởng tới sức khỏe cả mẹ và con [27]
Tại Việt Nam, công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và bảo vệ, chăm sóc
trẻ em ở nước ta trong những thập kỷ qua đã đạt được nhiều tiến bộ đáng
khích lệ, đã được Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Trong những thành tựu,
tiến bộ đó có sự đóng góp rất to lớn và có ý nghĩa quyết định của những
người làm công tác DS - KHHGĐ và bảo vệ chăm sóc trẻ em ở cấp cơ sở, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ chuyên trách dân số và đội ngũ cộng tác viên dân số
thôn/bản [19]. Công tác an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm qua được
Đảng, Nhà nước và Chính phủ tập trung quan tâm, chỉ đạo các cấp, các ngành
thực hiện nên đời sống dân cư nhìn chung tương đối ổn định. Thực hiện Nghị
định số 103/2012/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định mức lương tối thiểu
đối với người lao động và Nghị định số 66/2013/NĐ-CP của Chính phủ về
việc tăng mức lương tối thiểu đối với khu vực Nhà nước, đời sống người làm
công ăn lương được cải thiện hơn.
Các yếu tố như: Thu nhập thấp, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết về


-8-

bệnh, có tiền sử mắc nhiễm khuẩn đường sinh dục dưới, hành vi tình dục
không an toàn, nghiên cứu của nhiều tác giả cũng nhận thấy có sự liên quan
với mắc nhiễm khuẩn đường sinh dục dưới. Theo Trịnh Hữu Vách (2013) tỷ
lệ mắc bệnh ở nhóm có thu nhập thấp, trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết
về bệnh, có tiền sử mắc bệnh nhiễm khuẩn đường sinh dục, hành vi tình dục
không an toàn, cao hơn so với nhóm khác [42].
Truyền thông đóng vai trò hết sức quan trọng và cần thiết trong thay

đổi hành vi. Nhờ truyền thông có thể nâng cao kiến thức dẫn đến thay đổi thái
độ và chuyển đổi thành hành vi của đối tượng. Để đạt được hiệu quả cao trong
truyền thông, tùy theo từng lĩnh vực can thiệp mà đối tượng cũng như nội
dung và phương pháp truyền thông cần được thiết kế cho phù hợp. Hiện nay
các nguồn thông tin về chăm sóc sức khỏe cho người dân chủ yếu là vô tuyến
và đài. Việc tuyên truyền giáo dục SKSS và đặc biệt là truyền thông thay đổi
hành vi cho người dân nói chung, đối tượng vị thành niên và thanh niên nói
riêng, là rất quan trọng [38], [46], [50].
WHO cũng đưa ra một số giải pháp khuyến cáo áp dụng trong đó
phải kể đến việc giáo dục, tư vấn cho người bệnh về các yếu tố nguy cơ để
phòng tránh và tư vấn thay đổi hành vi nguy cơ. Cung cấp và khuyến khích
sử dụng bao cao su. Tư vấn để giảm số bạn tình và ngăn ngừa quan hệ tình
dục sớm ở vị thành niên làm giảm nguy cơ nhiễm khuẩn lây truyền qua
đường tình dục. Cải thiện thông tin cho phát triển chính sách và chương
trình thông qua việc giám sát, theo dõi và đánh giá, để đảm bảo rằng các
hoạt động được thực hiện như kế hoạch, về thời gian và nguồn lực trong
phạm vi ngân sách [60]. Kết hợp chặt chẽ với các chương trình giáo dục, tư
vấn với các chương trình khác, bao gồm các chương trình về SKSS,
HIV/AIDS, SKSS vị thành niên và lĩnh vực cung cấp dịch vụ sức khỏe tư
nhân, sự tham gia của cộng đồng trong tuyên truyền vận động có vai trò


-9-

quan trọng, góp phần tăng hiệu quả và giảm chi phí trong quá trình đạt
được mục tiêu của chương trình [52], [55], [57], [60].
Vai trò của truyền thông trực tiếp trong cung cấp thông tin về chăm sóc
SKSS cũng như các thông tin về các BPTT cho nhóm phụ nữ nói chung, phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ nói riêng, đã được chứng minh có hiệu quả trong một
số tài liệu và nghiên cứu khác. Bên cạnh đó phải kể đến vai trò của truyền

thông lồng ghép vào các hoạt đông chăm sóc sức khỏe khác cũng đã mang lại
hiệu quả rất đáng khích lệ [28].
Lĩnh vực truyền thông, giáo dục về chăm sóc SKSS chưa đặt vấn đề
tiếp cận giới trong việc cung cấp thông tin, dịch vụ và bình đẳng đối với
việc ra quyết định về SKSS. Các chương trình về SKSS đã được triển khai
từ nhiều năm, nhưng thường tập trung các hoạt động vào đối tượng nữ. Các
biện pháp tránh thai tuy đã được tuyên truyền và hướng dẫn sử dụng nhưng
đối tượng chính hướng tới vẫn là phụ nữ khiến cho mọi người cả nam và
nữ đều quan niệm rằng đây là vấn để chỉ của riêng phụ nữ. Vì vậy tất cả
gánh nặng trách nhiệm trong kế hoạch hoá gia đình vẫn đặt lên vai người
phụ nữ như đẻ nhiều, đẻ dày, thực hiện các biện pháp tránh thai, vỡ kế
hoạch, không có con, con suy dinh dưỡng, con hư... Vô hình chung nam
giới đã bị đặt ra ngoài, không thu hút được sự tham gia và chia sẻ của họ.
Chính vì thế, việc cung cấp bình đẳng các thông tin về giới và SKSS cùng
với những nỗ lực trong tuyên truyền tới các cặp vợ chồng sẽ khuyến khích
sự trao đổi thông tin trong gia đình, từ đó thúc đẩy sự tham gia của nam
giới vào các hành vi SKSS, góp phần cải thiện tình trạng bình đẳng trong
gia đình [39]. Trong việc khám thai, nhân viên y tế thôn bản có vai trò
quan trọng trong việc tuyên truyền vận động đối với phụ nữ [6], [31]. Mặc
dầu nhu cầu đầu tư cho y tế lớn, yêu cầu của nhân dân ngày càng cao
nhưng nguồn lực đầu tư cho y tế vẫn còn hạn chế [5].
Kết quả rà soát tại 17 tỉnh cho thấy tỷ suất tử vong mẹ của nhóm phụ nữ


-10-

sinh con thứ 3 trở lên (283/100.000 ca sinh sống) cao gấp 4 lần nhóm sinh 1-2
con; ở nhóm kết thúc thai nghén tại nhà rất cao (156/100.000 ca sinh sống) và
cao gấp 5 lần so với nhóm kết thúc thai nghén tại trạm y tế và bệnh viện
(32/100.000 ca sinh sống) [41].

Hồi cứu số liệu tại 21 xã ở huyện Bắc Hà từ năm 2005 đến hết 6 tháng
đầu năm 2007 cho thấy tỷ lệ đẻ tại nhà năm 2005 là 71,2%, năm 2006 là
60,4% và 6 tháng đầu năm 2007 là 64,2%. Tỷ lệ phụ nữ đẻ tại nhà đều có xu
hướng giảm từ 2005 đến 2007, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Kết quả điều tra về tỷ lệ đẻ tại nhà nêu trên khá phù hợp
với kết quả chung của cộng đồng 21 xã. Tập quán sinh con tại nhà ở các tỉnh
miền núi còn cao, nhất là đối với đồng bào Mông. “Đi khám thai đối với họ
còn là một việc hết sức khó khăn do họ còn cảm thấy xấu hổ nhiều, thậm chí
mang thai họ còn rất xấu hổ nên có khi hỏi có thai họ cũng bảo là không có”
(Nhân viên y tế xã) [27].
1.2.2. Chăm sóc trẻ sơ sinh
Sức khỏe trẻ sơ sinh liên quan chặt chẽ đến sức khỏe bà mẹ, nhiều
trường hợp tử vong sơ sinh sớm liên quan đến việc chăm sóc trong đẻ. Một số
yếu tố dẫn đến tử vong mẹ cũng có thể là nguyên nhân gây hại cho thai nhi
hoặc sơ sinh. Chuyển dạ tắc nghẽn và kéo dài ở bà mẹ dẫn đến ngạt sơ sinh
hoặc thai chết trong tử cung. Sản giật và chảy máu trước đẻ cũng là những
nguyên nhân đe dọa đến sự sống của thai nhi. Các nhiễm khuẩn trong quá
trình mang thai hoặc khi sinh có thể dẫn đến nhiễm khuẩn thai nhi hoặc sơ
sinh. Vì vậy, một số các can thiệp thiết yếu để giảm tử vong mẹ là cũng để
giảm tử vong sơ sinh [56].
Theo ước tính của WHO, năm 2000 trên toàn thế giới có hơn 4 triệu
trường hợp tử vong sơ sinh, trong đó có trên 2,5 triệu trường hợp tử vong sơ
sinh ở châu Á [41]. Tại 12 nước khu vực Đông và Đông Nam Á, ước tính mỗi


-11-

năm có khoảng 647.000 trẻ tử vong trong giai đoạn sơ sinh [41]. Một nửa
trong số đó là tử vong trong vòng 24h đầu và 75% xẩy ra trong tuần đầu sau
sinh. Tổng số tử vong sơ sinh chiếm đến 2/3 số tử vong trẻ dưới 1 tuổi. Cũng

tương tự như nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, ở phần lớn các
nước trong khu vực Đông và Đông Nam Á, tỷ lệ giảm tử vong sơ sinh cũng
xảy ra rất chậm trong khi tỷ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng tuổi giảm một cách
đáng kể. Vì thế để đạt được mục tiêu thiên niên kỷ cũng vẫn là điều khó khăn
với nhiều nước trong khu vực [56]. Bên cạnh đó, chỉ ở một số ít nước đang
phát triển có các hệ thống đăng ký khai sinh là có đủ thông tin cung cấp cho
việc ước lượng chính xác tử vong sơ sinh, hoặc những thành tố trước, sau của
nó. Ở những nước không có đủ thông tin cho việc ước lượng tử vong sơ sinh
thì con số báo cáo thường thấp hơn con số thực tế dẫn đến việc không đánh giá
đúng tầm quan trọng của tử vong sơ sinh và thiếu sự quan tâm thích đáng [41].
Các nguyên nhân tử vong thời kỳ sơ sinh ở khu vực các nước đang phát triển
thường được đo lường một cách nghèo nàn, nên các nguyên nhân thường được
xác định chỉ tập trung vào ngạt khi sinh, các nhiễm khuẩn nặng, các biến chứng
của đẻ non và uốn ván [41] bên ca ̣nh đó phải kể đế n kiế n thức về chăm sóc trẻ nói
chung, trẻ sơ sinh nói riêng còn có những hạn chế[25].
Dịch vụ làm mẹ an toàn
Theo tác giả Bùi Thị Thu Hà [10] về vấn đề đào tạo Kiến thức, thực
hành về làm mẹ an toàn của cô đỡ thôn bản người dân tộc thiểu số (CĐTB) 18
tháng tại 3 tỉnh Hà Giang, Ninh Thuận và Kon Tum, theo đó sau 1 năm kết
thúc đào tạo trở về địa phương thực hiện nhiệm vụ, kiến thức và kỹ năng của
CĐTB về LMAT tương đối tốt, tuy nhiên tỷ lệ trả lời đúng tất cả các câu hỏi
cũng như thực hiện đúng hoàn toàn các kỹ năng còn chưa thực sự cao. Trong
khi đó tập quán của các vùng dân tộc có ảnh hưởng, có thể là tích cực hoặc tiêu
cực, tới việc chăm sóc người mẹ và trẻ sơ sinh. Người Dao có tập quán kiêng
kỵ khi phụ nữ mang thai, đó là khi có thai được 3-4 tháng, người phụ nữ phải


-12-

chủ động kiêng “ăn nằm” với chồng. Nếu lúc này còn sinh hoạt vợ chồng thì

cái thai trong bụng dễ bị tổn thương, không lành lặn, dễ bị sảy thai. Trong thời
kỳ mang thai, mỗi khi ra ngoài trời, dù trời râm mát, người phụ nữ vẫn phải đội
nón, nếu không đội nón thì Ngọc Hoàng sẽ nhìn thấy “người bẩn” sẽ trị tội làm
cho sảy thai. Đây là những kiêng kỵ tốt, giúp người phụ nữ khi mang thai tránh
được nắng, mưa làm ảnh hưởng đến sức khoẻ. Kiêng kỵ này vẫn được áp dụng
cho đến ngày nay, không những người Dao áp dụng mà các dân tộc khác cũng
áp dụng cho dù quan niệm khác nhau. Người phụ nữ khi có thai kiêng không
được trèo cây, hái quả vì họ quan niệm làm như thế sẽ gây động thai. Đây là
kiêng kỵ tốt, người phụ nữ có thai không nên leo trèo vì có thể bị ngã dễ gây
động thai, sảy thai. Trong lúc có thai, người phụ nữ phải kiêng ăn rất nhiều loại
thức ăn: kiêng ăn các loại thịt bị hổ vồ, kiêng ăn thịt diều hâu vì họ quan niệm
nếu ăn các loại thịt này thì cả mẹ và con sẽ bị bệnh phong. Kiêng ăn thịt gà
rừng vì sợ con hay chạy nhảy đi lang thang. Kiêng ăn thịt ếch rừng vì sợ con
hay khóc nhiều. Kiêng ăn các loại nhộng ong, nhộng tằm vì sợ con chỉ biết rú ở
nhà. Kiêng ăn rau cải vì sợ con hay đái dầm. Kiêng uống các loại thuốc từ cây
có gai vì sợ con bị mụn mọc, ngứa ngáy quanh năm. Thực chất người mẹ phải
kiêng vì bảo vệ thai nhi là chính, các loại thức ăn trên không gây hại gì nếu đó
không phải là thức ăn bị ôi thiu. Sau khi đẻ, người mẹ cũng vẫn phải kiêng ăn
thịt hươu, nai, khỉ, gấu, trâu, bò trong 30 ngày. Thịt gà trống cũng phải kiêng.
Một số người phụ nữ Dao còn kiêng ăn các loại cá như cá chép, cá diếc, cá
chuối, cá trắm, cá chày vì cho rằng rất độc cho sản phụ. Ngoài ra, họ còn kiêng
ăn rau có dây leo như bầu, bí vì sợ rau thai ra không sạch. Do quan niệm nặng
nề, nên người phụ nữ phải kiêng khem ăn uống quá mức làm ảnh hưởng đến
sức khoẻ của mẹ và trẻ sơ sinh [12].
Việc kiểm soát các tai biến sản khoa ở Việt Nam đã nhận được sự quan
tâm hàng đầu trong các hoạt động y tế nói chung và chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe bà mẹ và trẻ em nói riêng. Điều lạc quan là tuy tai biến sản khoa là


-13-


những tai biến nặng có thể gây tử vong cho bà mẹ và trẻ sơ sinh nhưng chúng
có thể phòng ngừa được. Mặc dù vậy, theo Niên giám Thống kê Y tế 2013
[2], số tai biến sản khoa và tỷ lệ tử vong do tai biến sản khoa ở Việt Nam hiện
còn khá lớn. Số trường hợp tử vong trong tổng số mắc của 5 loại tai biến sản
khoa như sau: Băng huyết: 89/5033, Sản giật: 18/708, Uốn ván sơ sinh: 15/28,
Vỡ tử cung: 7/59 và Nhiễm trùng hậu sản: 12/616.
Lê Anh Tuấn (2010) [37] tiến hành nghiên cứu về tỷ lệ chết/mắc do 5 tai
biến sản khoa trong giai đoạn 5 năm gần đây và phân bố theo 8 vùng sinh thái
trên toàn quốc. Theo đó, tỷ lệ mắc/chết do 5 tai biến sản khoa trong 5 năm, giai
đoạn 2004-2008 là tương đối thấp và dao động trong khoảng 3%. Tỷ lệ
chết/mắc do 5 tai biến sản khoa rất khác nhau cho các vùng sinh thái, cao ở
vùng Tây Bắc, Đông Bắc và vùng Tây Nguyên. Tỷ lệ chết/mắc do uốn ván vẫn
còn cao, dao động từ 33,3%-73,5% và tỷ lệ chết/mắc do các tai biến sản khoa
khác vẫn được duy trì ở mức thấp trừ vùng Tây Bắc.
Chăm sóc sau sinh cho sản phụ giữ một vai trò hết sức quan trọng, tuy
nhiên chưa được thực hiện như mong đợi, nhất là đối với phụ nữ ở các vùng
khó khăn, vùng núi cao và dân tộc thiểu số [8], [9], [11], [22]. Nghiên cứu của
Trần Thị Khuyên (2013) [17] về kiến thức, thái độ và thực hành về làm mẹ an
toàn của các bà mẹ tại thị xã Lai Châu đưa ra kết quả: 72% bà mẹ ở xã đạt
chuẩn quốc gia và 25% ở xã không đạt chuẩn quốc gia cho là trong thời gian
mang thai nên khám thai từ 3-4 lần trở lên; 3,7% bà mẹ xã đạt chuẩn và 12% ở
xã không đạt chuẩn cho rằng không cần tiêm phòng; 85,7% bà mẹ xã đạt chuẩn
và 1% ở xã không đạt chuẩn có kiến thức khi có thai phải ăn đủ chất; 77,7% bà
mẹ xã đạt chuẩn và 22% ở xã không chuẩn cho là khi có thai phải ăn đủ bữa.
73,2% bà mẹ xã đạt chuẩn và 20% xã không chuẩn nhận thức đúng là không
nên có thai quá sớm hoặc quá muộn, 46% bà mẹ xã đạt chuẩn và 4% xã không
chuẩn cho là nhiều hơn 4 con trở lên sẽ có nhiều nguy cơ khi mang thai. 62,7%
bà mẹ xã đạt chuẩn và 23% bà mẹ xã không đạt chuẩn có thực hành khám thai



-14-

3- 4 lần trở lên. Đặc biệt 55% bà mẹ xã không đạt chuẩn không khám thai khi
mang thai. 4,5% bà mẹ xã đạt chuẩn và 10% bà mẹ xã không đạt chuẩn không
tiêm phòng uốn ván khi mang thai. Có 12% bà mẹ xã đạt chuẩn và 76% bà mẹ
xã không đạt chuẩn không uống viên sắt. Có 46% bà mẹ xã không đạt chuẩn
sinh con tại nhà do người nhà đỡ hoặc tự đỡ.
Để trẻ sơ sinh có sức khỏe tốt cần được thực hiện chăm sóc ngay thời kỳ
mang thai. Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân trước đây rất phổ
biến do tình trạng suy dinh dưỡng bào thai kéo dài. Ngày nay, nhờ có cán bộ y
tế hướng dẫn nên tình trạng kiêng khem quá mức đã được hạn chế, người phụ
nữ khi có thai đã biết cách ăn uống hợp lý để đảm bảo sức khoẻ cho bản thân
và thai nhi. Trên đây là những kiêng kỵ với người phụ nữ mang thai và sau khi
sinh. Nhưng theo quan niệm của người Dao thì trong quá trình này thì không
chỉ riêng người phụ nữ phải kiêng cữ mà mọi người trong nhà, nhất là người
chồng cũng phải tuân thủ những điều kiêng kỵ thì người phụ nữ mang thai mới
được an toàn [12].
1.3. Kiến thức và thực hành của phụ nữ về chăm sóc trƣớc và trong khi sinh
Theo thống kê của WHO, ở các nước đang phát triển, có tới một phần ba
phụ nữ có thai không được chăm sóc y tế khi mang thai, 60% cuộc sinh đẻ
không được thực hiện ở cơ sở y tế, và chỉ 60% các cuộc đẻ được cán bộ y tế đỡ
[58]. Tại Bangladesh, theo kết quả điều tra cơ bản, đa số phụ nữ đã sinh tại nhà
(84%) [49]. Tại Nepal, có những vùng có tới 90% số ca sinh tại nhà [54]. Vấn
đề làm mẹ an toàn là một trong những nội dung được các nhà hoạch định chính
sách và chuyên môn quan tâm và đề xuất nhiều giải pháp từ thập kỷ trước. Mục
tiêu của làm mẹ an toàn là làm giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật của bà mẹ và trẻ
sơ sinh. Vấn đề giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ sơ sinh cũng đã được thế giới
công nhận là một trong 6 mục tiêu phát triển của thế kỷ 21. Sáng kiến làm mẹ
an toàn đã được hơn 100 quốc gia và các tổ chức quốc tế chọn làm chương



-15-

trình hành động. Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu về sức khoẻ bà mẹ
có liên quan đến thai nghén và sinh đẻ cho thấy, tỷ lệ được chăm sóc trước,
trong và sau khi sinh khác nhau tuỳ theo từng vùng, từng nước. Một nghiên
cứu cho thấy: Nhận thức nguy cơ trong thai kỳ ảnh hưởng đến trạng thái tình
cảm của phụ nữ và có ảnh hưởng đến việc ra quyết định về việc mang thai và
sinh con [48].
Việt Nam xác định việc chăm sóc trước sinh là một trong những nhiệm
vụ cơ bản của y tế cơ sở. Chiến lược Quốc gia về chăm sóc SKSS giai đoạn
2010-2020 [7] trong đó có: tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt
15% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020. Nâng cao sức khỏe bà mẹ, thu hẹp
đáng kể sự khác biệt về các chỉ số sức khỏe bà mẹ giữa các vùng, miền. Giảm
tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống 58,3/100.000 trẻ đẻ sống vào
năm 2015 và xuống dưới 52/100.000 vào năm 2020.
Một nghiên cứu cho thấy, 94% phụ nữ ở khu vực thành thị đã sinh con
tại CSYT, tỷ lệ này gấp 1,4 lần so với những phụ nữ sống ở vùng nông thôn
và gấp tới 3 lần so với những vùng sâu, vùng xa [51].
Kết quả phỏng vấn kiến thức và thực hành về làm mẹ an toàn 240 bà
mẹ sinh con tại nhà ở Nepal năm 2006 cho thấy, có 140 bà mẹ (58,3%) chủ
định sinh ở nhà và 100 (41,7%) không chủ định sinh ở nhà nhưng do một số
lý do đã khiến họ phải thực hiện cuộc sinh đẻ tại nhà. Trong số 240 ca sinh,
chỉ có 6,2% được đỡ bởi CBYT trong khi đó có 38 (15,8%) bà mẹ đã sinh
một mình. 57,9% trẻ sơ sinh được bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh và 85,4%
được bú trong vòng 24 giờ [54].
Một nghiên cứu tương tự tại Nigeria được thực hiện vào năm 2008 cho
thấy, trong số 300 bà mẹ sinh tại nhà được phỏng vấn, 66,7% trường hợp chủ
định sinh tại nhà và 33,3% còn lại không chủ định. 13,4% cuộc sinh được



×