Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần của việt nam và hoa kỳ dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.22 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NHẬT LINH

CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÀI CHÍNH TRONG
MUA BÁN, SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN CỦA
VIỆT NAM VÀ HOA KỲ DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN
Khái quát về công ty cổ phần
Khái niệm công ty cổ phần
Đặc điểm công ty cổ phần

5
5
6



1.1.2.1.
1.1.2.2.
1.1.2.3.

Về vốn điều lệ của công ty cổ phần
Về cấu trúc vốn mở của công ty cổ phần
Về cổ đông và phạm vi trách nhiệm của cổ đông đối với nghĩa
vụ của công ty cổ phần
1.1.2.4. Về khả năng huy động vốn linh hoạt của công ty cổ phần
Khái quát về mua bán, sáp nhập công ty cổ phần

6
7

9

1.2.3.
1.2.4.

Khái niệm mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Đặc điểm của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
1.2.2.1. Chủ thể của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
1.2.2.2. Đối tượng của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
1.2.2.3. Hình thức thực hiện mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
1.2.2.4. Thủ tục pháp lý cần thực hiện
1.2.2.5. Hệ quả của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Vai trò của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Sự hình thành và phát triển của hoạt động mua bán, sáp nhập


1.3.
1.3.1.
1.3.2.

Khái quát về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
32
Khái niệm tài chính trong công ty cổ phần
32
Khái niệm và đặc điểm về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần 35

1.1.
1.1.1.
1.1.2.

1.2.
1.2.1.
1.2.2.

7
8
9

19
20
21
23
24
26
28


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TÀI CHÍNH TRONG MUA BÁN, SÁP
NHẬP CÔNG TY CỔ PHẦN CỦA MỸ VÀ VIỆT NAM
2.1.
2.1.1.

Quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
tại Việt Nam
Các quy định pháp luật về định giá công ty cổ phần
37


2.1.2.
2.1.3.

2.1.4.

Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài chính với bên thứ ba phát sinh trước giao
dịch mua bán, sáp nhập
45
Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài chính với nhà nước phát sinh sau giao
dịch mua bán, sáp nhập
47
2.1.3.1. Nghĩa vụ thuế thu nhập phát sinh từ giao dịch mua bán công ty cổ
phần
47
2.1.3.2. Nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng phát sinh từ giao dịch sáp nhập công ty
cổ phần
56

2.2.


Đánh giá các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty
cổ phần tại Việt Nam
57
Quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần tại

2.2.1.

Mỹ
Các quy định pháp luật về định giá công ty cổ phần

2.2.2.
2.2.3.

2.2.4.

59
59

Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài chính với bên thứ ba phát sinh trước giao
dịch mua bán, sáp nhập
61
Các quy định pháp luật về nghĩa vụ tài chính với nhà nước phát sinh sau giao
dịch mua bán, sáp nhập
63
2.2.3.1. Nghĩa vụ thuế thu nhập phát sinh từ giao dịch mua bán, sáp nhập
63
2.2.3.2. Nghĩa vụ thuế bán hàng phát sinh từ giao dịch mua bán, sáp nhập
67
2.2.3.3. Nghĩa vụ thuế khác phát sinh từ giao dịch mua bán, sáp nhập

69
Đánh giá các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty
cổ phần tại Mỹ
70

Chương 3: NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ TÀI CHÍNH TRONG MUA BÁN, SÁP NHẬP CÔNG
TY CỔ PHẦN CỦA HAI NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO
VIỆT NAM
3.1. Những điểm tương đồng giữa các quy định pháp luật về tài chính trong mua
bán, sáp nhập công ty cổ phần của hai nước
71
3.1.1. Những điểm tương đồng
71
3.1.2. Nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng
75
3.2.

Những điểm khác biệt giữa các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán,
sáp nhập công ty cổ phần của hai nước
76
3.2.1. Những điểm khác biệt
76


3.2.2. Nguyên nhân dẫn đến những sự khác biệt
3.3.

81


Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật
về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
83


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong bức tranh kinh tế toàn cầu hiện nay, hoạt động mua bán, sáp

nhập doanh nghiệp là một phần không thể thiếu trong nền kinh tế mỗi quốc gia.
Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp vào thời gian đầu được ghi nhận
chủ yếu bắt nguồn từ Mỹ và những cải tiến mới nhất của hoạt động này đều
được áp dụng tại Mỹ, sau đó mới được du nhập sang các quốc gia khác hoặc
các khu vực khác. Tại Việt Nam, trước những năm 90 của thế kỉ XX, gần như
không có dữ liệu về sự xuất hiện các thương vụ mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp. Luật Công ty 1990 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt
động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Đến năm 2006, cùng với sự kiện Việt
Nam gia nhập WTO, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật đầu tư 2005
đã góp phần tạo môi trường đầu tư rộng mở cho tất cả các thành phần kinh tế.
Trong bối cảnh đó, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã từng bước sử dụng
hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp như một công cụ chiến lược đầu tư
để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh. Đặc biệt với loại hình công ty
cổ phần – loại hình công ty khá phổ biến hiện nay, hoạt động mua bán, sáp
nhập diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, ngoài vấn đề lợi ích kinh doanh
thu được, một vấn đề cũng được các bên hết sức quan tâm khi tham gia vào các
giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói

riêng là quyền, nghĩa vụ của các bên phát sinh sau khi giao dịch mua bán, sáp
nhập được hoàn tất. Trong đó, nghĩa vụ tài chính là vấn đề được lưu tâm hơn cả
bởi nó tiềm ẩn rủi ro cho các bên trong việc nhận chuyển giao các nghĩa vụ tài
chính khi kết thúc giao dịch, đặc biệt là với bên mua, bên nhận sáp nhập. Vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Các quy định pháp luật về tài chính trong mua
bán, sáp nhập công ty cổ phần của Việt Nam và Mỹ dưới góc độ so sánh”,
qua đó tìm hiểu được các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp


2

nhập công ty cổ phần tại Mỹ và Việt Nam, tìm ra những điểm tương đồng và
khác biệt giữa pháp luật hai nước, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài này hiện nay mang tính cấp thiết, không
những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
mua bán, sáp nhập công ty cổ phần tại Việt Nam.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có một số tác giả có các công trình nghiên cứu

về hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp như: Cẩm nang mua bán và sáp
nhập tại Việt Nam của Mạng Mua bán và sáp nhập Việt Nam, M&A – Sáp
nhập và mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam – Hướng dẫn cơ bản dành cho bên
bán của hai tác giả Phạm Trí Hùng và Đặng Thế Đức, Pháp luật về mua bán
doanh nghiệp ở Việt Nam – Luận văn tiến sỹ của tác giả Trần Thị Bảo Ánh,
Pháp luật về mua bán công ty ở Việt Nam – Luận văn thạc sĩ Vũ Phương
Đông...Tuy nhiên, những công trình này chỉ đề cập đến các quy định pháp luật
về mua bán, sáp nhập nói chung mà chưa đề cập đến các vấn đề tài chính phát
sinh trong giao dịch mua bán, sáp nhập công ty cổ phần. Bên cạnh đó, cũng

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về so sánh các quy
định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần của Mỹ và
Việt Nam trong thời gian gần đây.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật
về hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần tại Mỹ và Việt Nam.

-

Phạm vi nghiên cứu: Với tính chất là luận văn thạc sĩ luật học, luận
văn đặt trọng tâm nghiên cứu các vấn đề về tài chính trong mua bán,
sáp nhập công ty cổ phần dưới góc độ khoa học pháp lý. Các quy định
pháp luật có liên quan đến các vấn đề pháp lý phát sinh trong giao dịch
mua bán, sáp nhập công ty cổ phần sẽ được tác giả dẫn chiếu trong nội


3

dung luận văn để có cái nhìn tổng thể, chính xác hơn về vấn đề này
theo pháp luật của hai nước.
4.

Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu một cách
có hệ thống pháp luật Mỹ và Việt Nam về tài chính trong mua bán, sáp nhập

công ty cổ phần, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định
pháp luật của hai nước để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5.
-

-

6.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
Công ty cổ phần là gì? Mua bán, sáp nhập công ty cổ phần là gì?
Các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty
cổ phần tại Việt Nam như thế nào? Các vấn đề về tài chính trong mua
bán, sáp nhập công ty cổ phần tại Mỹ được pháp luật Mỹ điều chỉnh
như thế nào? Đánh giá các quy định này như thế nào?
Những điểm tương đồng, những điểm khác biệt giữa các quy định
pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần của hai
nước là gì? Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm nào trong việc
hoàn thiện các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp
nhập công ty cổ phần?

Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, tác giả sử dụng kết hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh luật học.
Phương pháp tổng hợp, phân tích được sử dụng chủ yếu tại chương
một và chương hai của của luận văn. Qua việc thu thập các tài liệu thứ cấp, so
sánh, tổng hợp các quan điểm, ý kiến khác nhau về mua bán, sáp nhập công ty



4

cổ phần; và qua việc thu thập để phân tích các quy định pháp luật về tài chính
trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần của Mỹ và Việt Nam.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng tại chương ba để đưa ra
những điểm tương đồng, khác biệt trong quy định của pháp luật hai nước về
các vấn đề tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần và rút ra bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam.
7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đây về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời với quá
trình nghiên cứu độc lập và nghiêm túc, luận văn đã (i) chỉ ra được những đặc
trưng pháp lý cơ bản của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần cũng
như của những vấn đề tài chính phát sinh trong các giao dịch này theo pháp luật
Việt Nam và trong tương quan so sánh với pháp luật Mỹ; (ii) đề xuất một số bài
học kinh nghiệm mà pháp luật Việt Nam có thể học hỏi để hoàn thiện hơn từ
những phân tích, so sánh trong việc điều chỉnh về vấn đề này với pháp luật Mỹ.
8.

Kết cấu của luận văn
Nội dung luận văn gồm phần mở đầu; 03 chương; kết luận, danh mục
các văn bản pháp luật được dẫn chiếu và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Khái quát về mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Chương 2: Các quy định pháp luật về tài chính trong mua bán, sáp
nhập công ty cổ phần của Mỹ và Việt Nam
Chương 3: Những điểm tương đồng và khác biệt trong quy định pháp
luật về tài chính trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần của hai

nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


5

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP
CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1.

Khái quát về công ty cổ phần

1.1.1.

Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần được biết đến là loại hình công ty đối vốn điển hình

và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trên thế giới, những ghi chép đầu tiên
về công ty cổ phần được tìm thấy tại Trung Quốc trong thời kỳ những năm 960
– 1279 sau Công nguyên. Sau đó, vào những năm 1250, tại Pháp, 96 cổ phần
của công ty Bazacle Milling đã được đem ra giao dịch trên thị trường với mức
giá trị phụ thuộc vào lợi nhuận thu được của các nhà máy thuộc sở hữu xã
hội.Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của công ty cổ phần trong lịch
sử hình thành và phát triển của loại hình công ty này. Công ty cổ phần phát
triển mạnh mẽ nhất trong thời kì nền kinh tế tư bản, khi mà đa số các hoạt động
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư
mới có thể hoạt động hiệu quả. Công ty cổ phần với đặc tính linh hoạt trong
quá trình huy động vốn, đã trở thành sự lựa chọn không thể tốt hơn để giải
quyết vấn đề về vốn cho các công ty tại thời điểm đó. Trong tiến trình lịch sử
phát triển của công ty cổ phần, không thể không nhắc đến sự phát triển và bùng

nổ mạnh mẽ của loại hình công ty này tại Mỹ trong khoảng thế kỉ XVII1. Năm
1989, số lượng các công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 31,7% trong tổng số các xí
nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp.Hiện
nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công nghiệp,
dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau của nền kinh tế tại nước này.
Tại Mỹ, công ty cổ phần được hiểu là một dạng công ty trách nhiệm hữu hạn,
một pháp nhân tồn tại độc lập với các chủ sở hữu công ty.2 Vốn của công ty
1

2

/>Bryan A.Garner (1999), “Black’s Law Dictionary”, West group, St.Paul, Minn.


6

được chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được công ty phát
hành để huy động vốn từ các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Với tốc
độ tăng trưởng mạnh mẽ của mình, công ty cổ phần đã được các nhà kinh
doanh vận dụng tối đa, hiệu quả, linh hoạt và vai trò của loại hình công ty này
được thừa nhận rộng rãi.
Ở Việt Nam, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường,
mô hình công ty cổ phần đã từng bước được hình thành, phát triển từ những
năm đầu của thế kỉ XIX, khi đất nước bắt đầu hoạt động theo cơ chế kinh tế thị
trường. Công ty cổ phần tại Việt Nam thường được hiểu là một loại hình doanh
nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông và chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp.
Công ty cổ phần chính thức được thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam
lần đầu tiên tại Luật Công ty 1990 và sau đó các quy định pháp luật về công ty

cổ phần được tiếp tục kế thừa và từng bước hoàn thiện trong các quy định của
Luật doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014.
1.1.2.

Đặc điểm công ty cổ phần

1.1.2.1. Về vốn điều lệ của công ty cổ phần
Vốn điều lệ được hiểu là số vốn do các cổ đông góp vào công ty, được
ghi vào điều lệ công ty. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Đây là một điểm đặc thù của công ty cổ phần
bởi không có loại hình doanh nghiệp nào (bao gồm cả công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh…) có vốn điều lệ được chia thành các phần bằng nhau
để tạo ra tính linh hoạt trong việc huy động và chuyển nhượng vốn như trường
hợp công ty cổ phần. Việc sở hữu cổ phần của một công ty là căn cứ pháp lý
chứng minh tư cách cổ đông công ty của người sở hữu cổ phần và là cơ sở đầy
đủ nhất xác định quyền và nghĩa vụ của cổ đông đối với công ty đó.


7

1.1.2.2. Về cấu trúc vốn mở của công ty cổ phần
Công ty cổ phần có cấu trúc vốn mở, bởi hai lý do. Một là, các cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần trừ một số trường hợp bị pháp
luật cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng. Mức độ tự do chuyển nhượng cổ phần
phụ thuộc vào từng loại cổ phần mà công ty phát hành. Với tính tự do chuyển
nhượng cổ phần này, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà
hầu như không ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như hình thức tổ chức của công
ty, đặc biệt ở những quốc gia pháp luật thừa nhận công ty cổ phần một cổ đông.
Số lượng cổ đông thay đổi chỉ làm cho một công ty cổ phần trở thành công ty
đại chúng hoặc công ty phi đại chúng nhưng về bản chất, công ty đó vẫn là

công ty cổ phần với nghĩa vụ công bố thông tin lớn hay nhỏ tùy thuộc vào quy
mô của công ty. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa công ty cổ phần và công ty
trách nhiệm hữu hạn vì công ty trách nhiệm hữu hạn có thể phải đăng ký thay
đổi hình thức tổ chức từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc ngược lại do thành
viên công ty thực hiện quyền chuyển nhượng phần vốn mà mình sở hữu trong
công ty. Hai là, khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất linh hoạt vì
công ty có thể gọi vốn bằng cách phát hành cả cổ phiếu và trái phiếu trong khi
công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được quyền phát hành trái phiếu; còn các loại
công ty khác (ví dụ ở Việt Nam: công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân)
không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào.

1.1.2.3. Về cổ đông và phạm vi trách nhiệm của cổ đông đối với nghĩa vụ
của công ty cổ phần


8

Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp không bị hạn chế số lượng
thành viên tối đa, vì vậy loại công ty này thường có số cổ đông lớn và dễ thay
đổi. Điều này xuất phát từ bản chất của công ty cổ phần là loại hình công ty đối
vốn, cần có sự liên kết của nhiều thành viên. Hơn nữa, do sự đa dạng hoá các
loại cổ phần với các quyền và mức độ quyền khác nhau cho phép công ty cổ
phần tạo được cấu trúc vốn mở. Với cấu trúc vốn linh hoạt, việc chuyển
nhượng cổ phần cũng trở nên dễ dàng hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể tham gia vào công ty, rút khỏi công ty hay chuyển nhượng cổ phần cho
cổ đông khác. Ngoài ra, khác với chủ các doanh nghiệp tư nhân và thành viên
hợp danh của công ty hợp danh (phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp), cổ đông của công ty cổ phần
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình đối với các

khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
1.1.2.4. Về khả năng huy động vốn linh hoạt của công ty cổ phần
Trong quá trình hoạt động và kinh doanh, vốn là vấn đề rất quan trọng
và huy động vốn là một yếu tố mang tính quyết định ảnh hưởng lớn đến cơ hội
và hiệu quả kinh doanh của mỗi công ty. Mỗi loại hình doanh nghiệp có thể
huy động vốn theo những cách khác nhau phù hợp với đặc thù của từng loại
doanh nghiệp, ví dụ: công ty trách nhiệm hữu hạn có thể huy động thêm vốn từ
các thành viên hiện hữu và/hoặc từ những người không phải là thành viên của
công ty nếu các thành viên công ty chấp thuận. Công ty trách nhiệm hữu hạn
cũng có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn nếu thỏa mãn những điều
kiện luật định; công ty hợp danh có thể huy động vốn bằng cách tiếp nhận thêm
thành viên mới … Riêng công ty cổ phần, có nhiều sự lựa chọn hơn trong huy
động vốn so với các loại hình doanh nghiệp khác thông qua một trong những
hình thức sau: (i) chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu, hoặc chào bán cổ


9

phần riêng lẻ; (ii) phát hành trái phiếu; (iii) chào bán chứng khoán ra công
chúng (nếu công ty cổ phần đáp ứng các điều kiện luật định).

1.2.

Khái quát về mua bán, sáp nhập công ty cổ phần

1.2.1.

Khái niệm mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, thường được nhắc đến với tên gọi


“M&A” là một hiện tượng phổ biến và tất yếu trong nền kinh tế thị trường vì
các doanh nghiệp luôn luôn mong muốn cải thiện năng lực cạnh tranh nhằm
chiếm lĩnh thị phần và chi phối thị trường. Ở mỗi quốc gia, các doanh nghiệp
có cách tiếp cận về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp khác nhau. Không chỉ đơn
thuần là mua bán tài sản, chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, hay thỏa
thuận việc sáp nhập thông qua hợp đồng, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
thường được tiếp cận như một phương thức nhằm chi phối các quyết định trong
quản lý điều hành, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng thị phần
để chiếm lĩnh thị trường. Hoạt động này cần phải được kiểm soát nhằm đảm
bảo việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp không gây ảnh hưởng tiêu cực hoặc
hạn chế tự do cạnh tranh trên thị trường. Với cách tiếp cận như vậy, hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến hệ quả của việc mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp là khả năng chi phối, kiểm soát doanh nghiệp và vị trí cũng như
thị phần của doanh nghiệp hậu mua bán, sáp nhập. Khi đề cập đến mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp, một số nước thường

sử dụng cụm từ Mergers and

Acquisitions (viết tắt là M&A) để hàm chỉ các hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp. Mua bán và sáp nhập doanh nghiệp tuy đều thể hiện “sự quan
tâm” của các nhà đầu tư tới doanh nghiệp (quan tâm về yếu tố tài sản, yếu tố
quản lý và quy mô hoạt động của doanh nghiệp), nhưng hoạt động mua bán và
sáp nhập doanh nghiệp cũng có những điểm khác nhau. Cụ thể, trên thế giới,


10

sáp nhập doanh nghiệp được hiểu là sự kết hợp của hai doanh nghiệp, trong đó
doanh nghiệp bị sáp nhập chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của mình
sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại, trong khi doanh

nghiệp nhận sáp nhập tiếp nhận trách nhiệm, tài sản của doanh nghiệp bị sáp
nhập và tiếp tục tồn tại sau khi giao dịch sáp nhập hoàn tất3. Khác với sáp nhập,
mua bán doanh nghiệp lại nhấn mạnh vào việc nhà đầu tư giành quyền kiểm
soát hoạt động quản lý và kinh doanh của một doanh nghiệp khác thông qua
việc sở hữu lượng vốn đủ lớn của doanh nghiệp bị mua để giành quyền kiểm
soát doanh nghiệp đó. Nói cách khác, mua bán doanh nghiệp là hoạt động với
mục đích giành quyền sở hữu hoặc mục tiêu kiểm soát công ty. Tuy nhiên, mua
bán và sáp nhập doanh nghiệp đều dẫn đến một hệ quả chung là quy mô hoạt
động của bên mua và bên nhận sáp nhập sẽ được mở rộng sau khi quá trình
mua và nhận sáp nhập được hoàn thành.
Tại Mỹ, thuật ngữ “mua bán, sáp nhập” được dùng để đề cập đến
chiến lược hoạt động của công ty và cách sử dụng các biện pháp giải quyết việc
kết hợp hoạt động kinh doanh của các công ty khác nhau. Giao dịch mua bán,
sáp nhập là công cụ hỗ trợ các công ty về tài chính hoặc hỗ trợ công ty tăng
trưởng và phát triển nhanh chóng mà không cần thành lập thêm một công ty
khác để thực hiện hoạt động kinh doanh. Cách hiểu về mua bán, sáp nhập của
Mỹ cũng tương tự như cách hiểu của nhiều nước trên thế giới.
Mua bán doanh nghiệp ở Mỹ được thực hiện dưới ba hình thức4. Một
là thông qua giao dịch “thanh lý và bán” (liquidation-and-sale). Trong giao dịch
này, người quản lý và cổ đông công ty mục tiêu thống nhất giải tán công ty và
chia tài sản công ty cho cổ đông tương ứng với tỷ lệ sở hữu của họ trong công
ty. Tiếp đó, từng cổ đông sẽ bán tài sản mà họ được chia cho công ty nhận mua
3

Daniel Lee, Matthew Swartz (2007), “The Corporate, Securities, and M & A Lawyer's Job: A
Survival Guide”, ABA Book Publishing [Page 22]
4

Paul Pignataro (2015), “Mergers, Acquisitions, Divestitures, and other Restructurings”, John
Wiley & Sons, Inc. [Page 58]



11

để đổi lấy tiền mặt hoặc tài sản theo sự thỏa thuận của các bên. Hai là thông
qua giao dịch “bán và thanh lý” (sale-and-liquidation). Trong giao dịch này
người quản lý và cổ đông công ty mục tiêu sẽ bỏ phiếu thông qua việc bán toàn
bộ tài sản của công ty lấy tiền mặt và giải tán công ty. Tiền thu được sẽ chia
cho cổ đông theo tỷ lệ sở hữu của các cổ đông trong công ty. Hình thức này
tương tự hình thức thứ nhất, chỉ khác về trật tự các bước bán - thanh lý thay vì
thanh lý - bán. Ba là “bán cổ phần” (stock sale), ở đó, công ty nhận mua đứng
ra mua cổ phần trực tiếp từ cá nhân các cổ đông công ty mục tiêu thông qua
việc chào mua công khai (để mua từ những cổ đông muốn bán) hoặc bằng cách
đàm phán riêng với từng cổ đông (giá mua có thể khác nhau giữa các cổ đông).
Kết quả là công ty nhận mua có thể mua toàn bộ cổ phần hoặc phần lớn cổ
phần của công ty mục tiêu. Công ty mua, nếu muốn, có thể đi tiếp bước nữa sau
khi mua cổ phần của công ty mục tiêu là giải tán công ty mục tiêu và chuyển
toàn bộ tài sản đã thanh lý của công ty mục tiêu sang công ty mua (nếu đã mua
hết cổ phần của công ty bán) hoặc chia tài sản thanh lý đó cho mình và cho các
cổ đông còn lại của công ty mục tiêu (nếu không mua hết cổ phần của công ty
mục tiêu). Hình thức này khác hai hình thức đầu ở chỗ đối tượng giao dịch là
cổ phần thay vì tài sản nhưng điểm chung của cả ba hình thức là ở chỗ đều có
hoạt động thanh lý tài sản (trừ khi trong hình thức thứ ba, bên mua không muốn
thanh lý công ty mục tiêu).
Căn cứ vào ý nguyện của các bên trong giao dịch mua bán doanh
nghiệp, hoạt động mua bán doanh nghiệp tại Mỹ được chia thành hai loại là
giao dịch mua bán “thiện chí” (friendly acquisition) và giao dịch thôn tính
(hostile acquisition)5. Giao dịch mua bán kiểu thiện chí là loại hình giao dịch
mua bán doanh nghiệp, trong đó, đội ngũ cán bộ quản lý của công ty mục tiêu
chấp thuận giao dịch mua bán và mong muốn đạt được kết quả cũng như lợi ích

5

Paul Pignataro (2015), “Mergers, Acquisitions, Divestitures, and other Restructurings”, John Wiley
& Sons Inc., [Page46]


12

tốt đẹp từ giao dịch đó. Đối với loại hình giao dịch này, (i) việc mua bán được
hình thành từ lời đề nghị mua lại công khai của bên mua và nhận được sự chấp
thuận bán của chủ sở hữu doanh nghiệp mục tiêu, và (ii) giao dịch được thực
hiện bằng một thỏa thuận giữa đại diện lãnh đạo của hai bên công ty. Ngược
lại, hoạt động mua bán doanh nghiệp kiểu thôn tính là loại giao dịch không
nhận được sự đồng thuận của đội ngũ cán bộ quản lý công ty mục tiêu đối với
việc bán doanh nghiệp, vì vậy, bên mua phải tiến hành nhiều biện pháp mang
tính chất thôn tính để có được doanh nghiệp mục tiêu. Thôn tính được hiểu là
hành động nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh hoặc để nắm quyền điều hành khi
ban lãnh đạo của công ty bị thôn tính không đồng ý.
Sáp nhập doanh nghiệp ở Mỹ được thực hiện dưới hai hình thức. Một
là thông qua giao dịch “mua cổ phần và thanh lý”. Trong giao dịch này, công ty
nhận mua đứng ra mua toàn bộ cổ phần của công ty mục tiêu và thanh toán
bằng cổ phần của công ty mình, sau đó có thể thanh lý công ty mục tiêu. Hai là
thông qua giao dịch “mua tài sản và thanh lý”. Trong giao dịch này công ty
nhận mua đứng ra mua toàn bộ tài sản của công ty mục tiêu và thanh toán bằng
cổ phần của công ty mình. Tiếp đó, công ty nhận mua thanh lý công ty mục tiêu
và trao cổ phần của công ty mình cho cổ đông cũ của công ty mục tiêu.
Như vậy, sáp nhập doanh nghiệp giống với mua bán doanh nghiệp ở
chỗ thực chất cả hai đều là giao dịch mua bán hoặc tài sản, hoặc cổ phần của
công ty mục tiêu, chỉ khác là thay vì thanh toán tiền mua tài sản hoặc cổ phần
của công ty mục tiêu bằng tiền mặt thì trong sáp nhập, bên công ty nhận mua sẽ

thanh toán bằng cổ phần của chính công ty mình.
Trong hệ thống pháp luật Mỹ, hoạt động mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp được quy định ở nhiều văn bản khác nhau như Luật Công ty (ở Mỹ mỗi
bang đều có luật công ty riêng), Luật Chứng khoán, Luật Chống độc quyền...


13

6

Tuy nhiên, xét về bản chất, các quy định này đều dẫn đến một cách hiểu chung

về hoạt động mua bán, sáp nhập như sau: (1) Sáp nhập là việc một công ty
chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của mình sang bên nhận sáp nhập;
(2) mua bán là hoạt động mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phần, phần vốn góp
hoặc mua toàn bộ tài sản của một doanh nghiệp để giành quyền kiểm soát
doanh nghiệp đó. Mặc dù vậy, các hoạt động này bị giới hạn bởi các quy định
về chống độc quyền trên thị trường, ví dụ như theo quy định tại Điều 7 của Đạo
luật Clayton (1914), không người nào được tiến hành hoạt động mua lại doanh
nghiệp trực tiếp hay gián tiếp thông qua việc mua lại một phần hay toàn bộ cổ
phần hay tài sản của người khác nếu hoạt động mua lại đó có thể làm suy giảm
sự cạnh tranh hoặc có khả năng dẫn đến sự thống lĩnh thị trường.
Tại Việt Nam, cách hiểu về thuật ngữ “mua bán, sáp nhập” còn chưa
có sự đồng thuận. Đối với mua bán, do cách dịch thuật ngữ “acquisition” sang
tiếng Việt khác nhau, có tác giả dịch là mua bán, có tác giả dịch là mua lại
nhưng về nội hàm của thuật ngữ “mua bán” hoặc “mua lại” doanh nghiệp dưới
góc độ pháp lý đều là việc bên bán doanh nghiệp chuyển một phần hoặc toàn
bộ quyền sở hữu doanh nghiệp cho bên mua thông qua các hình thức mua bán
cổ phần, phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp để kiểm soát được hoạt
động doanh nghiệp mục tiêu; hoặc mua bán tài sản doanh nghiệp. Tuy nhiên,

các nhà khoa học hiện có những ý kiến khác nhau khi giải thích về thuật ngữ
mua bán, mua lại, thôn tính doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng, pháp luật Việt
Nam có lẽ nên thay đổi thuật ngữ mua lại/mua bán doanh nghiệp bằng thuật
ngữ thâu tóm doanh nghiệp thì khái niệm sẽ được mở rộng hơn. Thâu tóm
doanh nghiệp rộng hơn mua bán/mua lại doanh nghiệp vì thâu tóm doanh
nghiệp có thể không sử dụng hình thức thanh toán bằng tiền mặt hay mua nợ

6

/>

14

mà còn thông qua hình thức lôi kéo cổ đông bất mãn hoặc hoán đổi cổ phần7.
Quan điểm này có phần mâu thuẫn với cách hiểu về các loại hình giao dịch
mua bán doanh nghiệp tại một số nước, bao gồm giao dịch mua bán thiện chí
và giao dịch thôn tính. Do đó, nếu nói thâu tóm doanh nghiệp rộng hơn mua
bán doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến sự khác nhau trong cách hiểu về thuật ngữ
thâu tóm và thôn tính doanh nghiệp, trong khi về bản chất, đây không phải là
hai khái niệm hoàn toàn khác biệt. Bên cạnh đó, khái niệm mua lại và mua bán
doanh nghiệp cũng đang có nhiều cách hiểu khác nhau với các hướng tiếp cận
khác nhau, cụ thể có tác giả cho rằng mua lại doanh nghiệp chủ yếu liên quan
đến mua cổ phần, phần vốn góp của nhóm cổ đông đa số để giành quyền kiểm
soát doanh nghiệp, nhưng có ý kiến lại cho rằng mua bán doanh nghiệp là thuật
ngữ kinh tế, quản trị và tài chính dùng để chỉ chung các giao dịch mua bán toàn
bộ tài sản và toàn bộ doanh nghiệp8. Về phương diện pháp lý, giao dịch mua
bán doanh nghiệp đã được pháp luật Việt Nam bước đầu ghi nhận tại một số
văn bản pháp luật sau:
Luật Cạnh tranh (2004) quy định tại Điều 17.3 về mua lại doanh
nghiệp như sau: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ

hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ
hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.” Theo Điều 34 Nghị định
116/2005/NĐ-CP, việc kiểm soát hoặc chi phối toàn bộ hoặc một phần ngành
nghề của doanh nghiệp theo quy định này được hiểu là trường hợp một doanh
nghiệp giành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp khác đủ chiếm được
trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị hoặc ở
mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp bị kiểm
soát đủ để doanh nghiệp kiểm soát chi phối các chính sách tài chính và hoạt
7

“Hoạt động sáp nhập và mua lại – Cơ sở lý luận, kinh nghiệp quốc tế và kiến nghị chính sách cho
Việt Nam”, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2009 [tr22]
8
Phạm Trí Hùng, Đặng Thế Đức (2011), “M&A – Sáp nhập và mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam –
Hướng dẫn cơ bản dành cho bên bán”, Nxb Lao động – Xã hội [tr28]


15

động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát. Như vậy, việc mua tài sản chỉ được
coi là mua lại doanh nghiệp khi hoạt động này dẫn đến việc bên mua chiếm
được đủ số phiếu biểu quyết để nắm quyền kiểm soát, chi phối các chính sách
và hoạt động của doanh nghiệp bị mua lại.
Điều 4.3 Thông tư số 04/2010/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung bởi
Thông tư 36/2015/TT-NHNN) quy định về khái niệm mua lại tổ chức tín dụng
như sau: “Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (sau đây
gọi là tổ chức tín dụng mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của tổ chức tín dụng khác (tổ chức tín dụng bị mua lại)”. Như vậy,
khác với Pháp luật cạnh tranh, Thông tư 04/TT-NHNN không thừa nhận việc

mua lại một phần tài sản mà chỉ thừa nhận việc mua lại toàn bộ tài sản của tổ
chức tín dung mục tiêu. Bên cạnh đó, định nghĩa về mua lại tổ chức tín dụng
của Thông tư 04/TT-NHNN cũng khác với thông lệ ở nhiều nước trong đó có
Mỹ khi coi việc chuyển giao toàn bộ quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp
pháp của tổ chức tín dụng mục tiêu sang tổ chức tín dụng mua là đương nhiên,
đi kèm với giao dịch mua lại. Ở nhiều quốc gia phát triển, các quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp mục tiêu có chuyển sang doanh nghiệp mua hay không là
do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp.
Khác với mua bán doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp lại được pháp
luật Việt Nam quy định khá nhất quán giữa Luật Cạnh tranh (2004) và Luật
Doanh nghiệp (2014). Theo đó, sáp nhập được hiểu là việc một hoặc một số
doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình sang một số doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Ngoài ra, căn cứ vào quy định của pháp luật Việt Nam về
sáp nhập thì có thể hiểu rằng, luật doanh nghiệp chỉ quy định hình thức sáp
nhập doanh nghiệp mà trong đó các bên có sự thoả thuận nhất trí về việc sáp
nhập. Như vậy, hai hay nhiều doanh nghiệp muốn thực hiện sáp nhập thì họ


16

phải có thoả thuận sáp nhập được chấp thuận từ cả hai phía. Hiện pháp luật
Việt Nam chưa quy định về sáp nhập doanh nghiệp do ý chí của một bên chủ
thể. Quy định này của pháp luật đã dẫn đến thực tế là nếu một công ty muốn
sáp nhập mà không đạt được thoả thuận nhất trí từ công ty mục tiêu thì họ sẽ
phải thực hiện phương thức mua lại công ty trước sau đó tiến hành sáp nhập.
Bên cạnh đó, cũng giống như pháp luật Mỹ, Luật Cạnh tranh của Việt Nam
cũng cấm các giao dịch mua bán, sáp nhập nếu thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia giao dịch chiếm trên 50% trên thị trường liên quan trừ một số
trường hợp theo quy định pháp luật.

Quan niệm về hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần chưa thực
sự phổ biến và được hiểu một cách nhất quán tại hầu hết các nước trên thế giới.
Xét về mặt bản chất, mua bán, sáp nhập công ty cổ phần cũng là hoạt động mua
bán, sáp nhập doanh nghiệp nói chung, chỉ có điều các bên trong giao dịch là
các doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Có thể căn cứ
vào đặc trưng của hoạt động mua bán, sáp nhập cũng như của công ty cổ phần
để đưa ra khái niệm đối với hoạt động này. Với cách tiếp cận đó, mua bán, sáp
nhập công ty cổ phần có thể được hiểu là hoạt động giành quyền kiểm soát
công ty cổ phần thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ cổ phần, tài sản
của công ty đó. Như vậy, nguyên tắc cơ bản của mua bán, sáp nhập công ty cổ
phần là phải tạo ra những giá trị mới cho các cổ đông mà việc duy trì tình trạng
cũ không đạt được. Hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần không chỉ
làm thay đổi tình trạng sở hữu của cổ đông đối với cổ phần hoặc tài sản công ty
mà còn làm thay đổi cả hoạt động kinh doanh, quản trị/điều hành của công ty
cổ phần đó.
a.

Mua bán công ty cổ phần


17

Dựa vào khái niệm mua bán doanh nghiệp và đặc trưng của công ty cổ
phần, mua bán công ty cổ phần được hiểu là hoạt động mua bán, chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ cổ phần, tài sản của một công ty cổ phần để
nhằm chi phối hay kiểm soát hoạt động kinh doanh của công ty đó. Trong xu
thế phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, hoạt động mua bán công ty
cổ phần đang dần chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động mua bán công ty nói
chung. Tuy nhiên, tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Mỹ, đều
không có quy định riêng điều chỉnh hoạt động mua bán công ty cổ phần mà chỉ

quy định điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung.
Tại Việt Nam, như đã luận bàn ở trên về khái niệm mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp, hiện nay Luật Doanh nghiệp mới chỉ có các quy định về bán
doanh nghiệp tư nhân còn hoạt động mua bán công ty cổ phần chưa được quy
định. Tuy nhiên, (1) Điều 17.3 Luật Cạnh tranh đã quy định về khái niệm hoạt
động mua lại doanh nghiệp là việc mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc mua bán
doanh nghiệp nói chung (chứ không chỉ mua bán doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân) và mua bán công ty cổ phần nói riêng; (2) Điều 4.3
Thông tư số 04/2010/TT-NHNN cũng đã quy định về hoạt động mua lại tổ
chức tín dụng là việc mua lại toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của tổ chức tín dụng khác. Đây có thể được coi là một cơ sở pháp lý cho
hoạt động mua lại công ty cổ phần, bởi lẽ, tổ chức tín dụng trước tiên cũng là
một loại hình doanh nghiệp, chịu sự điều chỉnh của pháp luật doanh nghiệp bên
cạnh sự điều chỉnh của pháp luật về tổ chức tín dụng và tổ chức tín dụng có thể
là doanh nghiệp được thành lập dưới mô hình công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng... Thực tế
cho thấy, các tổ chức tín dụng chủ yếu tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần
bởi hoạt động của các tổ chức tín dụng yêu cầu lượng vốn lớn và cần sự huy


18

động vốn linh hoạt. Do vậy, công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phù hợp
và được lựa chọn nhiều hơn cả để áp dụng cho loại hình hoạt động của tổ chức
tín dụng. Bên cạnh đó, hiện nay, tại Việt Nam, ngoài một số tổ chức tín dụng
do nhà nước là chủ sở hữu (Ngân hàng NN0&PTNT Việt Nam, Ngân hàng
chính sách Việt Nam…) và tổ chức tín dụng là ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam, tất cả các tổ chức tín dụng khác hầu hết đều đang hoạt động dưới hình

thức công ty cổ phần. Vì lẽ đó, hoạt động mua bán công ty cổ phần có thể được
hiểu và áp dụng tương tự như quy định về mua lại tổ chức tín dụng trong
Thông tư 04/2010/TT-NHNN thay vì quy định về mua bán doanh nghiệp trong
Luật Cạnh tranh. Do đó, có thể căn cứ quy định Thông tư 04/2010/TT-NHNN
để khẳng định rằng, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận việc mua bán công ty cổ
phần thông qua việc mua lại toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của công ty đó. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn, hoạt động mua
bán công ty cổ phần tại Việt Nam sẽ được nghiên cứu và phân tích trên cơ sở
pháp lý này.
b.

Sáp nhập công ty cổ phần
Cũng tương tự như với hoạt động mua bán công ty cổ phần, hầu hết

các nước không có quy định riêng đối với hoạt động sáp nhập công ty cổ phần.
Hiện nay, mặc dù chưa có một cách hiểu thống nhất về hoạt động sáp nhập
công ty cổ phần nhưng trên cơ sở bản chất của hoạt động sáp nhập doanh
nghiệp cũng như các điểm đặc thù của công ty cổ phần, sáp nhập công ty cổ
phần có thể được hiểu là việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của công ty cổ phần bị sáp nhập sang công ty nhận sáp nhập. Theo
đó, công ty bị sáp nhập sẽ chấm dứt tồn tại và toàn bộ quyền, nghĩa vụ của
công ty bị sáp nhập được chuyển sang công ty nhận sáp nhập. Tuy nhiên, các
cổ đông của công ty bị sáp nhập có thể tiếp tục là cổ đông của công ty nhận sáp
nhập sau khi quá trình sáp nhập hoàn tất theo thỏa thuận sáp nhập với quyền và


19

nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ cổ phần của mình được hoán đổi. Do đó, hệ quả
pháp lý của sáp nhập công ty cổ phần khác với mua bán công ty cổ phần, đó là,

công ty bị mua lại vẫn tiếp tục hoạt động sau khi tiến hành giao dịch mua bán
nhưng công ty bị sáp nhập sẽ bị chấm dứt sự tồn tại sau khi hoàn thành quá
trình sáp nhập với bên nhận sáp nhập. Ngoài ra, bên nhận sáp nhập công ty cổ
phần sẽ trở thành bên thế quyền và nghĩa vụ đối với các quyền và nghĩa vụ của
bên bị sáp nhập với bên thứ ba
1.2.2.

Đặc điểm của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần

1.2.2.1. Chủ thể của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Chủ thể của mua bán, sáp nhập công ty cổ phần gồm (i) bên bán, bên
bị sáp nhập là chủ sở hữu của công ty cổ phần (gọi chung là chủ thể có quyền
bán công ty), và (ii) bên mua là tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua lại, nhận sáp
nhập công ty cổ phần (gọi chung là chủ thể mua lại, nhận sáp nhập công ty).
-

Chủ thể có quyền bán công ty
Hoạt động mua bán công ty cổ phần có thể được thực hiện thông qua

hình thức chuyển nhượng toàn bộ tài sản của công ty, hoặc mua bán toàn bộ
hoặc một phần cổ phần của công ty để để nắm quyền quản lý, chi phối công ty
cổ phần đó. Theo đó, trong trường hợp mua bán tài sản của công ty thì chủ thể
bán được xác định là công ty cổ phần mục tiêu được mua lại và khi đó, việc
quyết định bán công ty phụ thuộc vào quyết định hợp lệ của chủ sở hữu công
ty, chính là các cổ đông của công ty. Trường hợp mua bán công ty thông qua
chuyển nhượng cổ phần, chủ thể tham gia hoạt động mua bán công ty cổ phần
với tư cách là bên bán được xác định là các cổ đông của công ty, những người
là chủ sở hữu hợp pháp của những cổ phần đó. Do đó, có thể nhận định rằng,
chủ sở hữu công ty cổ phần là chủ thể có quyền bán công ty cổ phần.
-


Chủ thể mua lại, nhận sáp nhập công ty


20

Bên mua, bên nhận sáp nhập trong quan hệ mua bán, sáp nhập công ty
cổ phần chủ yếu là các công ty, tổ chức đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định
của pháp luật, đang hoạt động ổn định và có khả năng tài chính đủ mạnh để
thực hiện việc mua lại công ty mục tiêu, và số lượng chủ thể là cá nhân thường
không nhiều. Tuy nhiên, tại một số quốc gia, pháp luật có quy định xác định
chủ thể mua lại, nhận sáp nhập công ty cổ phần. Đây được xem là cơ sở pháp lý
giúp các bên có nhu cầu mua, nhận sáp nhập công ty cổ phần xem xét họ có
được quyền mua lại, nhận sáp nhập công ty cổ phần hay không, nhằm hạn chế
việc đầu tư không khả thi. Ngoài ra, các quy định về chủ thể mua bán, sáp nhập
công ty cổ phần này cũng là một trong những căn cứ để xem xét điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng mua bán, sáp nhập công ty cổ phần.
1.2.2.2. Đối tượng của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần
Đối tượng của hoạt động mua bán, sáp nhập công ty cổ phần là cái mà
các chủ thể hướng tới khi thực hiện giao dịch. Cụ thể trong hoạt động sáp nhập,
mua bán toàn bộ công ty cổ phần, đối tượng được xác định là công ty cổ phần.
Công ty cổ phần với tính chất là đối tượng của các hoạt động này được coi như
một bộ máy đang vận hành mà người mua công ty có thể tiếp tục sử dụng khai
thác để mang lại lợi nhuận nhanh nhất. Như vậy, công ty cổ phần được bán sẽ
bao gồm toàn bộ các tài sản hữu hình, vô hình, người lao động, khách hàng…
Với hoạt động mua bán một phần công ty cổ phần, đối tượng chỉ là cổ phần,
phần tài sản của công ty mà các bên hướng tới để mua lại để nắm quyền kiểm
soát, quản lý đối với công ty cổ phần mục tiêu được mua lại.

1.2.2.3. Hình thức thực hiện mua bán, sáp nhập công ty cổ phần

a.

Đối với hoạt động mua bán công ty cổ phần


21

Mua bán công ty cổ phần có thể được thực hiện thông qua các hình
thức phổ biến sau:


Mua bán công ty cổ phần theo hình thức thứ nhất là mua bán toàn bộ
tài sản của công ty cổ phần mục tiêu. Cách hiểu về thuật ngữ “tài sản”
ở đây khác với cách hiểu về “tài sản” theo định nghĩa mua lại tổ chức
tín dụng tại Thông tư 04/TT-NHNN của Việt Nam ở chỗ tài sản không
phải là cổ phần mà là máy móc, thiết bị, nhà xưởng, đất đai, uy tín
kinh doanh và các tài sản vô hình khác (bí quyết kỹ thuật...). Qua hình
thức mua tài sản của công ty cổ phần mục tiêu, bên mua giành quyền
sở hữu công ty cổ phần mục tiêu hay không sẽ tùy thuộc vào đối tượng
được mua bán trong hợp đồng mua bán là một phần hoặc toàn bộ tài
sản của công ty mục tiêu. Khi mua tài sản của công ty cổ phần, bên
mua không phải đối mặt với sự phản kháng từ cổ đông nhỏ (từ chối
bán lại cổ phiếu) như trường hợp mua cổ phần. Tuy nhiên, việc bán lại
tài sản của công ty cổ phần mục tiêu phải được thông qua môt cách
hợp lệ tại đại hội đồng cổ đông của công ty. Khác với hình thức mua
bán toàn bộ hoặc một phần cổ phần của cổ đông công ty cổ phần mục
tiêu, với hình thức mua bán này, quyền và nghĩa vụ của bên bán với
bên thứ ba liên quan đến tài sản không đương nhiên chuyển sang bên
mua mà phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên. Ngoài ra, với trường
hợp mua lại toàn bộ tài sản của công ty, thu nhập từ việc chuyển

nhượng toàn bộ tài sản sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ cổ
phần nắm giữ và khi hoàn tất giao dịch, bên mua sẽ trở thành chủ sở
hữu mới và duy nhất của công ty bị mua lại.



Mua bán công ty cổ phần theo hình thức thứ hai là mua toàn bộ hoặc
một phần cổ phần của cổ đông công ty cổ phần mục tiêu nhằm sở hữu
một tỷ lệ cổ phần đủ để kiểm soát được hoạt động kinh doanh của


×