Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật hòa giải thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO THỊ HÒA

PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO THỊ HÒA

PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Vinh



HÀ NỘI, NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và
hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt
khóa học cũng như trong thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Tiến sĩ Lê Đình Vinh – người thầy kính mến đã hết lòng giúp đỡ,
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả


Cao Thị Hòa

năm 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Giáo viên hướng dẫn là TS. Lê Đình Vinh. Các nội dung nghiên cứu và
kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau
có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số
nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và
cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian
lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả
luận văn của mình.
Hà Nội, ngày
Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn

TS. Lê Đình Vinh

tháng

năm 2016

Tác giả

Cao Thị Hòa


CÁC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

AAA

:

American Arbitration Association
(Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ)

ARD

:

Alternative Dispute Resolution (Phương thức giải quyết
tranh chấp thay thế)

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng Dân sự

HKIAC

:

Hong Kong International Arbitration Center
(Trung tâm trọng tài Hồng Kông)

ICC

:


International Chamber of Commercial
(Phòng thương mại quốc tế)

KLRCA

:

Kuala Lumpur Regional Centre for Arbitration
(Trung tâm trọng tài Malaysia)

LTTTM

:

Luật Trọng tài Thương mại

PLTTGQCVAKT

:

Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các Vụ án Kinh tế

PLTTTM

:

Pháp lệnh trọng tài thương mại

SMC


:

Singapore Mediation Center
(Trung tâm hòa giải Singapore)

TTP

:

Trans-pacific Partnership agreement
(Hiệp định đối tác chiến lược kinh tế xuyên Thái Bình
Dương)

UNCITRAL

:

United Nations Commission on International Law (Ủy
ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp Quốc)

VIAC

:

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

WTO

:


World Trade Organization
(Tổ chức thương mại thế giới)


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
VÀ PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI ............................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hòa giải thương mại……………….7
1.1.1.

Khái niệm tranh chấp thương mại: ............................................... 7

1.1.2.

Khái niệm hòa giải ........................................................................ 8

1.1.3.

Khái niệm hòa giải thương mại ................................................... 15

1.1.4.

Phân loại hòa giải thương mại .................................................... 16

1.1.5.

Vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại ...... 19


1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của pháp luật hòa giải thương mại ……..21
1.2.1.

Khái niệm pháp luật về hòa giải thương mại ............................... 21

1.2.2.

Đặc điểm của pháp luật về hòa giải thương mại ......................... 23

1.2.3.

Vai trò của pháp luật về hòa giải thương mại ............................. 23

1.3. Sự hình thành và phát triển của chế định pháp luật về hòa giải thương
mại ở Việt Nam……………………………………………………………....25
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về hòa giải thương mại………………………….29
1.4.1.

Mô hình hòa giải thương mại ...................................................... 29

1.4.2.

Về nguyên tắc hòa giải thương mại ............................................. 32

1.4.3.

Về trình tự, thủ tục hòa giải thương mại ..................................... 36

1.4.4.


Về việc thi hành kết quả hòa giải thành ...................................... 38

CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH .............................................................................. 42
2.1. Quy định về hòa giải thương mại tại tòa án và thực tiễn thi hành……..42
2.1.1.

Mô hình hòa giải thương mại tại tòa án ...................................... 42

2.1.2.

Nguyên tắc và phạm vi của hòa giải trong tố tụng tòa án ........... 43

2.1.3.

Thủ tục tiến hành hòa giải thương mại tại tòa án ........................ 46

2.1.4.

Thi hành Quyết định công nhận sự Thỏa thuận của các đương

sự................................... ................................................................................ 49
2.1.5.

Thực tiễn hoạt động hòa giải thương mại tại tòa án.................... 50


2.2. Quy định về hòa giải thương mại ngoài tòa án và thực tiễn thi
hành..…………………………………………………………………………54
2.2.1.


Quy định hiện hành về hòa giải thương mại ngoài tòa án ........... 54

2.2.2.

Mô hình hòa giải thương mại ngoài tòa án điển hình ở Việt Nam

hiện nay............................................................................................................58
2.2.3.

Trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải thương mại .......................... 60

2.2.4.

Thi hành kết quả hòa giải thành ngoài tòa án ............................. 64

2.2.5.

Thực tiễn hoạt động hòa giải thương mại ngoài tòa án ............... 65

CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM ................................................................................................... 71
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt
Nam………………………………………………………………………….71
3.2. Quan điểm hoàn thiện chế định hòa giải thương mại………………….72
3.2.1.

Về hoàn thiện chế định hòa giải thương mại tại tòa án ............... 72

3.2.1.


Về hoàn thiện chế định hòa giải thương mại ngoài tòa án .......... 74

3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định về hòa giải thương mại………………..75
KẾT LUẬN ................................................................................................... 83


1

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Đề tài
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích việc giải

quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài theo tinh
thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong những năm qua, cùng với công
cuộc cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, việc hoàn
thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải,
trọng tài đã đạt được những kết quả nhất định.
Luật Trọng tài Thương mại được Quốc hội khóa XII thông qua ngày
17/6/2010 với nhiều quy định mới, phù hợp với thông lệ quốc tế đã thúc đẩy
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở Việt Nam, góp phần
giảm áp lực cho hoạt động xét xử của tòa án. Luật hòa giải cơ sở được Quốc
hội khóa XIII thông qua ngày 20/6/2013 đã tạo cơ chế pháp lý để ngăn ngừa
kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã
hội trong cộng đồng dân cư, giảm bớt các vụ việc tranh chấp phải chuyển đến
Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, hình
thức hòa giải cơ sở chỉ áp dụng trong việc giải quyết những vướng mắc, tranh

chấp nhỏ phát sinh trong đời sống hàng ngày ở các khu dân cư, không áp
dụng cho các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
Thực tiễn hoạt động kinh doanh, thương mại thời gian gần đây cho thấy
các tranh chấp thương mại đang diễn ra rất đa dạng, phức tạp; nhu cầu giải
quyết tranh chấp thương mại là rất lớn. Trên thực tế, khi có tranh chấp phát
sinh, nhiều doanh nghiệp, thương nhân đã tìm cách tự hòa giải với nhau thay
vì đưa ra tòa án hoặc trọng tài. Tuy nhiên, hoạt động hòa giải thương mại
trong thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả do chủ yếu còn mang tính
tự phát, chưa tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Mặt khác, còn thiếu một
đội ngũ hòa giải viên chuyên nghiệp, có kỹ năng và kinh nghiệm hòa giải.


2

Nền kinh tế nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển mạnh
mẽ, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thông thoáng nhưng mức độ
cạnh tranh cũng rất gay gắt. Các tranh chấp kinh tế, thương mại vì thế cũng
phát sinh ngày càng nhiều và tính chất, mức độ ngày càng phức tạp, đòi hỏi
phải có những cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và thông lệ quốc tế. Trong khi ở nhiều quốc gia, phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đã trở nên phổ biến thì ở Việt
Nam dường như còn khá mới mẻ. Cơ chế pháp lý để thúc đẩy và đảm bảo sự
phát triển của hòa giải thương mại cũng vẫn còn rất sơ khai. Do vậy, việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về hòa giải thương mại,
thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt
Nam đang là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giải
quyết nhiệm vụ nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật hòa giải thương
mại ở Việt Nam” làm Đề tài Luận văn thạc sỹ của mình.
1. Tình hình nghiên cứu Đề tài

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến Đề tài
pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt Nam là tương đối đa dạng, phong
phú. Rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố trong thời gian qua,
trong đó phải kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:
-

Cung Mỹ Anh, Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo

quy định của Bộ luật tố tụng dân sự - Những vướng mắc và giải pháp khắc
phục, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2008.
-

Nguyễn Thị An Na, Hòa giải – Phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại ngoài tố tụng tư pháp, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường ĐH
Luật Hà Nội, năm 2010.


3

-

Ngô Thị An, Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại ngoài thủ

tục tố tụng tư pháp, thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sỹ luật
học, Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2012;
-

Lê Thị Tâm, So sách phương thức hòa giải với thủ tục hòa giải trong


giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
ĐH Luật Hà Nội, năm 2014.
-

Phạm Lê Mai Ly, Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương

mại ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2014.
-

Võ Hương Giang, Pháp luật điều chỉnh hoạt động hòa giải tư pháp

trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu đề cập ở trên, một số
công trình chỉ tập trung vào hòa giải trong tố tụng (tòa án và trọng tài) mà
không nghiên cứu chuyên sâu về hòa giải thương mại với tính chất là một chế
định độc lập. Mặt khác, đa phần các nghiên cứu thường tiếp cận phương thức
hòa giải thương mại từ góc độ luật thực định, trong khi có rất nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng cơ chế hòa giải thương mại đang cần được tiếp tục
nghiên cứu, làm rõ để cập nhật trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung, pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại nói riêng ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu có đề cập đến hòa giải thương
mại với tính chất là một chế định độc lập nhưng các nội dung nghiên cứu đó
đều không còn tính thời sự, thiếu tính cập nhật, đặc biệt là trong bối cảnh một
loạt các quy định mới của Bộ luật tố tụng dân sự vừa có hiệu lực thi hành. Do
vậy, trong Luận văn này, trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên
cứu trước đó, tác giả sẽ tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu vào các vấn đề,
các khía cạnh còn bỏ ngỏ hoặc còn chưa được luận giải thấu đáo, đồng thời,
phân tích, so sánh và cập nhật các quy định mới liên quan đến vấn đề này. Từ



4

đó, góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn
của của Đề tài dưới góc độ khoa học pháp lý.
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hệ thống lý luận pháp lý và luật
thực định liên quan đến phương thức hòa giải thương mại, tập trung vào các
chế định chủ yếu sau đây: mô hình tổ chức hòa giải thương mại; quy chế hòa
giải viên; nguyên tắc tiến hành hòa giải thương mại; trình tự thủ tục tiến hành
hòa giải thương mại; cơ chế công nhận và thi hành kết quả hòa giải thương
mại.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào hệ thống khoa học
pháp lý, các quy định pháp luật của Việt Nam về hòa giải thương mại, có
tham chiếu đến pháp luật của một số nước và các tổ chức quốc tế liên quan
trong lĩnh vực này.
3. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được thực hiện với mục đích nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm
một số vấn đề lý luận pháp lý về hòa giải thương mại vốn chưa được đề cập
hoặc chưa được giải quyết thấu đáo ở các công trình nghiên cứu trước đó, đặc
biệt là từ kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới nơi mà cơ chế hòa
giải thương mại đã phát triển. Luận văn cũng tập trung nghiên cứu, đánh giá
thực trạng pháp luật hiện hành về hòa giải thương mại cũng như tình hình
thực hiện trên thực tế, phân tích những mặt tích cực cũng như những mặt còn
hạn chế trong các quy định của pháp luật, kết quả thực hiện, tồn tại và nguyên
nhân. Từ các kết quả nghiên cứu nêu trên, Luận văn đề xuất phương hướng và
các giải pháp nhăm góp phần hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại ở
Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài



5

Trong quá trình nghiên cứu Đề tài, tác giả đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu trong lĩnh vực khoa học pháp lý, như: Phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lê nin, với hạt nhân là phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử.
Ngoài ra, tác giả bám sát các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về cải cách tư pháp,
mà trọng tâm là Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị và các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII, IX, X, XI, XII và Hiến pháp năm 2013.
Các số liệu thống kê sử dụng trong Luận văn được tác giả trích dẫn từ
các nguồn có sẵn với giả định rằng các nguồn đó là chính xác và tin cậy. Do
thời gian nghiên cứu có hạn nên tác giả không có điều kiện kiểm chứng.
Ngoài ra, mố số ví dụ minh họa về hòa giải thương mại trong Luận văn được
tác giả khái quát và tổng hợp từ thực tiễn lĩnh vực công tác của mình.
5. Những đóng góp mới của Luận văn
So với các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài pháp luật về hòa
giải thương mại ở Việt Nam, Luận văn có một số đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, Luận văn đã luận giải và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý
luận về hòa giải thương mại. Trong đó, làm rõ sự khác biệt giữa “hòa giải”
với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập và “hòa giải”
với tính chất là một thủ tục trong tố tụng tòa án hoặc trọng tài.
Thứ hai, Luận văn đã nêu bật được vai trò, ý nghĩa của phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải. Từ đó, khẳng định đây
là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, ít tốn kém phù hợp với



6

tính chất, đặc thù của việc giải quyết các tranh chấp thương mại, đặc biệt
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ ba, Luận văn đã xây dựng được khung lý thuyết cho việc nghiên
cứu các vấn đề lý luận và luật thực định liên quan đến hòa giải tranh chấp
thương mại, bao gồm các thành tố: mô hình tổ chức hòa giải thương mại; quy
chế hòa giải viên; nguyên tắc tiến hành hòa giải thương mại; trình tự thủ tục
tiến hành hòa giải thương mại; cơ chế công nhận và thi hành kết quả hòa giải
thương mại.
Thứ tư, Luận văn đã phân tích và đánh giá thực trạng của việc áp dụng
các quy định về hòa giải thương mại thông qua việc tổng hợp, hệ thống hóa
các quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam về hòa giải thương mại và
thống kê các vụ tranh chấp thương mại được giải quyết thông qua hòa giải.
Thứ năm, Luận văn đã đề xuất các phương hướng, giải pháp kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về hòa giải thương mại ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện này. Trong đó có nhiều kiến nghị có giá trị khoa học và thực tiễn,
mang tính khả thi cao.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 03 chương chính như sau:
-

Chương I: Những vấn đề lý luận về hòa giải thương mại và pháp luật

hòa giải thương mại ở Việt Nam
-


Chương II: Pháp luật hòa giải thương mại ở Việt Nam và thực tiễn thi

hành
-

Chương III: Hoàn thiện pháp luật hòa giải thương mại ở Việt Nam


7

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI THƯƠNG
MẠI VÀ PHÁP LUẬT HÒA GIẢI THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hòa giải thương mại
Trong các từ điển pháp luật, từ điển kinh tế cũng như trong sách báo

khoa học pháp lý, kể cả các giáo trình luật chuyên ngành hiện nay đều chưa
có sự giải thích đầy đủ về khái niệm hòa giải thương mại. Về bản chất, hòa
giải thương mại là một phương thức để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Vì vậy, để có một khái niệm đầy đủ
về hòa giải thương mại, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “tranh chấp
thương mại” và khái niệm “hòa giải”.
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại:
Tranh chấp thương mại được hiểu là các xung đột, mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và lợi ích phát sinh trong quá trình các bên thực hiện các hoạt
động thương mại của mình.
Hoạt động thương mại được liệt kê tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương
mại năm 2005 như sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến

thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011, nay được thay thế bởi Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016 đã quy
định theo hướng liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, gồm có: Tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; Cung
ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua;
Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có
giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác; Tranh


8

chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa công ty với các
thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan
đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; Các tranh chấp khác về kinh
doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Xuất phát từ khái niệm “hoạt động thương mại” nói trên, có thể hiểu
tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi. Việc giải quyết tranh chấp thương mại phải đáp ứng
được các yêu cầu cơ bản sau: Thứ nhất, tranh chấp phải được giải quyết một
cách nhanh chóng với thủ tục đơn giản, gọn nhẹ để không ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh, bởi vì hoạt động thương mại diễn ra thường xuyên,
liên tục, nếu như tranh chấp kéo dài không được giải quyết sẽ làm cho việc

sản xuất, kinh doanh bị gián đoạn, ngưng trệ, gây thiệt hại không nhỏ cho
các bên tranh chấp. Thứ hai, chi phí giải quyết tranh chấp không được quá
cao, bởi mối quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh doanh là lợi nhuận, họ
không thể chấp nhận một cơ chế giải quyết tranh chấp quá tốn kém. Thứ ba,
cơ chế giải quyết tranh chấp phải đảm bảo giữ được bí mật kinh doanh của
các thương nhân. Thứ tư, duy trì được mối quan hệ bạn hàng, đối tác lâu dài
giữa các bên tranh chấp.
Những yêu cầu nói trên cũng là yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết
tranh chấp nói chung. Tuy nhiên, trong giải quyết các tranh chấp thương mại,
các yêu cầu này phải được đáp ứng ở một mức độ cao hơn, do đặc thù của
các quan hệ thương mại.
1.1.2. Khái niệm hòa giải
Thuật ngữ “hòa giải” đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội loài người.
Nó được sử dụng để miêu tả quá trình dàn xếp tranh chấp, bất đồng giữa các


9

bên, có thể là giữa tổ chức, cá nhân với nhau hoặc thậm chí có thể là giữ các
nhóm lợi ích, giữa các cộng đồng dân cư hoặc thậm chí giữa các quốc gia có
chủ quyền.
Theo Từ điển luật học của Black (Black’s Law Dictionany), hòa giải
(conciliation) được định nghĩa là “Sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải;
hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm
thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ. Việc giải quyết
tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải (bên trung lập)”1.
Ở Việt Nam cho đến nay cũng tồn tại nhiều khái niệm về hòa giải.
Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam Viện Khoa học xã hội xuất bản năm 2006, khái niệm hòa giải được diễn giải
là “thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách
ổn thỏa”. Trong cuốn Thuật ngữ pháp lý dùng trong hoạt động của Quốc hội

và Hội đồng nhân dân do các tác giả Nguyễn Duy Lãm, Nguyên Thành chủ
biên, xuất bản năm 2004, có đưa ra định nghĩa hòa giải là “giải quyết các
tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc dàn xếp,
thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên
tranh chấp)”.
Về tổng quát, hòa giải được hiểu là một phương thức để giải quyết
tranh chấp, là quá trình mà tại đó hòa giải viên tạo điều kiện giao tiếp và
đàm phán giữa các bên để hỗ trợ các bên đó trong việc cố gắng đạt được
một thỏa thuận tự nguyện về việc giải quyết tranh chấp của họ. Trong quá
trình hòa giải, vai trò của hòa giải viên là bên thứ ba trung lập, không can
thiệp sâu vào những mâu thuẫn bất đồng của các bên. Hòa giải viên chỉ dừng
lại ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp mang tính
thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi xem xét,
nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ.

1

Black’s Law Dictionary with pronounciation, West Pub.Co (1983)


10

Hiện nay, trên thế giới có hai thuật ngữ: trung gian (mediation) và hòa
giải (conciliation) để chỉ các biện pháp giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng có
sự tham gia của một bên thứ ba độc lập nhằm thúc đẩy, hỗ trợ các bên đạt
được sự đồng thuận trong giải quyết mâu thuẫn. Đây đều là biện pháp giải
quyết tranh chấp trong đó các bên thương lượng, tìm kiếm giải pháp cho
xung đột của họ với sự hỗ trợ của một bên thứ ba trung lập. Cả hai phương
thức giải quyết tranh chấp này đều là quá trình đòi hỏi các yêu cầu nghiêm
túc về bảo mật, trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp các bên luôn có

khả năng kiểm soát sự việc và kết quả. Điểm khác biệt rõ nét nhất giữa trung
gian và hòa giải là ở vai trò của bên thứ ba và quy trình tiến hành giải quyết
tranh chấp2. Cụ thể:
-

Vai trò của bên thứ ba:
Ở phương thức trung gian, người trung gian có vai trò tạo điều kiện,

hỗ trợ, thúc đẩy các bên để các bên hiểu vấn đề xung đột giữa họ, xác định
quyền lợi mà mỗi bên hướng tới và tìm kiếm một giải pháp hài hòa. Các bên
tranh chấp đóng vai trò trung tâm còn người trung gian hòa giải đóng vai trò
hỗ trợ.
Trong hoạt động hòa giải, hòa giải viên đóng một vai trò sâu hơn trong
việc giải thích các khía cạnh pháp lý của vấn đề, nêu những lời khuyên với
các bên và đề xuất giải pháp.
-

Về quy trình: Phương thức hòa giải thường được tiến hành theo quy

trình không chặt chẽ và bài bản như phương thức trung gian. Ví dụ, trong
phương thức hòa giải, hòa giải viên thường gặp gỡ các bên một cách riêng
rẽ, còn với phương thức trung gian, quy trình thường linh hoạt hơn, tùy từng
trường hợp cụ thể mà người trung gian có thể gặp gỡ cả hai bên cùng lúc
hoặc gặp riêng từng bên.
2

Linda C. Reif, Conciliation as a Mechanism for the Resolution of International Economic and Business
Disputes, 14 Fordham Int'l L.J. , 584-85 (Hòa giải một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
quốc tế, Tạp chí luật quốc tế Fordham (14), (2005)) tr. 584-85



11

Như vậy, xét về mặt lý thuyết, hòa giải và trung gian là hai phương
thức giải quyết tranh chấp khác nhau nhưng trong nghiên cứu khoa học,
nhiều khi các học giả không thể tách biệt rõ ràng được hai phương thức này.
Trong phần lớn các trường hợp, thuật ngữ trung gian (mediation) và hòa giải
(conciliation) được sử dụng thay thế cho nhau mà ít có sự phân biệt3. Về mặt
pháp luật, cũng không có sự phân biệt đặc điểm và giá trị pháp lý của hai
phương thức này. Thực tế, pháp luật của hầu hết các nước như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Anh… đều coi cả hai phương thức này là
những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế cho tố tụng tòa án
(Alternative Dispute Resolution – ADR). Luật mẫu về hòa giải của
UNCITRAL cũng không phân biệt trung gian hòa giải và hòa giải. Điều 1(3)
Luật mẫu của UNCITRAL về hòa giải định nghĩa: “Hòa giải là một trình tự
được hiểu là trình tự hòa giải, trung gian hoặc một thể hiện tương tự mà các
bên yêu cầu bên thứ ba (hòa giải viên) trợ giúp các bên đạt được thỏa thuận
giải quyết tranh chấp; hòa giải viên không có thẩm quyền ép các bên tuân
theo một giải pháp nào”4. Ở Việt Nam, sự phân biệt giữa trung gian và hòa
giải không thực sự rõ nét và khái niệm hòa giải được hiểu là bao gồm cả hoạt
động hòa giải và trung gian.
Nhìn chung, hoạt động hòa giải thường có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, hoạt động hòa giải luôn có sự tham gia của bên thứ ba - bên
trung lập - để giúp các bên tranh chấp giải quyết xung đột của họ: bên thứ
ba được gọi là hòa giải viên, là người độc lập, khách quan, không thiên vị
đối với bất cứ bên tranh chấp nào trong khi tiến hành hòa giải.
Thứ hai, hòa giải thường là phương thức giải quyết tranh chấp có tính
chất tự nguyện, trừ một số trường hợp hòa giải bắt buộc tùy thuộc dạng

3


David J.A. Cairns, Mediating International Commercial Disputes: Differences in U.S. and European
approaches, 60 Disp. Resol. J. 62, 65 (2005), (Trung gian trong giải quyết thương mại quốc tế: cách tiếp cận
khác biệt giữa Mỹ và Châu Âu, Tạp chí giải quyết tranh chấp, năm 2005, (62) tr. 65).
4
UNCITRAL Model Law on Conciliation, supra note 1, at art. 1(3). [Luật mẫu của Ủy ban Liên hợp quốc về
hòa giải, điều 1.(3)]


12

tranh chấp và quy định của pháp luật. Tính chất tự nguyện thể hiện ở việc:
(1) các bên có quyền lựa chọn hoặc không lựa chọn giải quyết tranh chấp
bằng phương thức hòa giải; (2) các bên có thể chủ động đề xuất quy trình
hòa giải để hòa giải viên áp dụng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
mình; (3) các bên có thể theo đuổi đến cùng quá trình hòa giải cho đến khi
kết thúc hoặc có quyền quyết định ngừng tham gia hòa giải ở bất kỳ bước
nào nếu thấy phương thức này không hiệu quả hoặc các bên muốn lựa chọn
phương thức khác.
Hoà giải sẽ là phương thức bắt buộc khi các bên thoả thuận trong hợp
đồng, hòa giải còn là thủ tục bắt buộc trong một số trường hợp pháp luật có
quy định hoặc do quyết định của Toà án, để giải quyết tranh chấp các bên
trước hết phải hòa giải, cho dù có mong muốn hoặc đồng ý hay không. Tuy
nhiên, trong quá trình hòa giải bắt buộc, các bên vẫn có quyền đưa ra quyết
định cho tranh chấp của họ. Hòa giải bắt buộc thường được quy định trong
các trường hợp sau: (1) Hòa giải là thủ tục mà tòa án phải tiến hành trước khi
xét xử vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, theo đó trình tự
thủ tục hòa giải, nguyên tắc tiến hành hòa giải và việc công nhận kết quả hòa
giải thành đều được quy định rõ ràng; (2) Hòa giải đối với một số loại tranh
chấp phát sinh trong các lĩnh vực chuyên ngành, theo đó các bên phải thực

hiện việc hòa giải trước khi tòa án thụ lý giải quyết (như đối với tranh chấp
về đất đai).
Thứ ba, các bên tranh chấp tham dự quá trình hòa giải để đạt được
một thỏa thuận cho việc giải quyết tranh chấp và xây dựng quyết định của
chính mình: Tùy thuộc mô hình hòa giải và phương pháp mà từng hòa giải
viên áp dụng, hòa giải viên có thể cung cấp những nhận định, đánh giá về
nội dung vụ tranh chấp cũng như ý kiến tư vấn về cách thức giải quyết vụ
tranh chấp. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, những nhận định và ý kiến của hòa
giải viên chỉ có tính chất tham khảo và không có tính chất ràng buộc đối với
các bên tranh chấp. Hòa giải viên không có quyền quyết định về vụ việc và


13

không được áp đặt giải pháp mà chỉ có vai trò giúp các bên giao tiếp, thỏa
thuận để tìm ra giải pháp giải quyết tranh chấp của họ. Trong quá trình đó,
các bên có toàn quyền trong việc kiểm soát sự việc, loại bỏ những vấn đề mà
họ không đồng ý, thiết lập những giải pháp và tạo thêm những thỏa thuận
mới phù hợp với họ. Đặc điểm này khác biệt với phương thức giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án hay Trọng tài nơi mà thẩm phán/trọng tài viên là
người quyết định giải pháp cho tranh chấp.
Thứ tư, hòa giải thiết lập một môi trường giao tiếp an toàn, thân thiện
giữa các bên tranh chấp: hoạt động hòa giải ngày nay được chi phối bởi học
thuyết “win-win solution”5, theo đó việc hòa giải không phải là phân định
đúng sai, kết quả hòa giải cũng không xác định bên thắng, bên thua mà cả
hai bên đều thắng. Hòa giải viên không xoáy sâu vào những vấn đề xẩy ra
trong quá khứ, mà đặt lợi ích của các bên, tương lai của các bên lên hàng đầu
tuân theo các quy tắc hòa giải. Cách giải quyết như vậy khiến các bên gần
gũi, dễ trình bày quan điểm và cùng hướng tới tương lai. Chính vì bản chất
không có kẻ thua, người thắng mà các bên tranh chấp sau khi hòa giải thành

công vẫn là các đối tác đáng bình thường của nhau. Đặc điểm này khác với
việc giải quyết tranh chấp bằng tòa án, trọng tài vì thẩm phán/trọng tài viên
quan tâm nhiều đến các điều luật điều chỉnh mối quan hệ cụ thể, đến hành vi
đúng/sai của các bên.
Thứ năm, hòa giải có thể là một quá trình độc lập hoặc một phần của
thủ tục tố tụng tại tòa án hoặc trọng tài.
Hoà giải có thể là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập
ngoài toà án hoặc trọng tài, được thực hiện thông qua hoạt động của Hòa giải
viên độc lập hoặc Hòa giải viên thuộc các Tổ chức trung gian hòa giải,
Trung tâm hòa giải, Tổ hoà giải ở cơ sở...

5

Center for Democracy and Governance, Bureau for Global Programs, Field Support, and Research, U.S.
Agency for International Development, Washington, D.C. 20523-3100, Alternative Dispute Resolution
Practitioners’ Guide (Technical Publication Series, March 1998), tr.6.


14

Hòa giải cũng có thể là một thủ tục trong tố tụng tòa án, được tiến
hành trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án. Nếu thông qua hoà giải, các
đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì toà án lập
biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, quyết định này có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp các đương
sự không thể thoả thuận được với nhau thì toà án lập biên bản hoà giải không
thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Một thủ tục hòa giải tương tự
như vậy cũng thường gặp trong tố tụng trọng tài. Chỉ khác là hiện nay chưa
có cơ chế để thi hành các thỏa thuận hòa giải thành trong tố tụng trọng tài.
Do vậy, khi các đương sự đạt được hòa giải với nhau thì thông thường họ sẽ

làm thủ tục rút lại đơn kiện trọng tài. Nếu không thì các trọng tài sẽ đưa các
nội dung hòa giải đó vào trong phán quyết trọng tài để đảm bảo rằng chúng
sẽ được thực thi.
Thứ sáu, hòa giải không bắt buộc phải tiến hành công khai: Khi tham
gia vào quá trình hòa giải, các bên phải ký cam kết không tiết lộ những
thông tin có được từ quá trình hòa giải. Nếu việc hòa giải không thành và các
bên phải sử dụng trọng tài hay tòa án để tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp thì
những thông tin có được trong quá trình hòa giải sẽ không thể trở thành bằng
chứng để chống lại một trong các bên. Bản thân hòa giải viên cũng phải cam
kết giữ bí mật tất cả những thông tin do các bên cung cấp trong quá trình hòa
giải. Nếu việc hòa giải không thành và các bên phải sử dụng trọng tài hay tòa
án để tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp thì các bên cũng không được yêu cầu
triệu tập hòa giải viên với tư cách nhân chứng cho vụ tranh chấp.
Thứ bảy, hòa giải không làm ảnh hưởng đến việc các bên sử dụng các
phương thức giải quyết tranh chấp khác. Tùy thuộc vào yêu cầu của bản quy
tắc hòa giải của từng trung tâm hòa giải, nhìn chung, việc sử dụng phương
thức hòa giải không làm ảnh hưởng đến việc các bên sử dụng các phương
thức giải quyết tranh chấp khác như trọng tài hay tòa án. Các bên có thể tiến


15

hành hòa giải song song với quá trình tố tụng trọng tài hay tòa án. Đây cũng
chính là một điểm hấp dẫn thể hiện sự linh hoạt của phương thức này.
1.1.3. Khái niệm hòa giải thương mại
Từ việc phân tích nội hàm các khái niệm “tranh chấp thương mại” và
“hòa giải” cùng các đặc điểm của chúng, có thể rút ra khái niệm về hòa giải
thương mại như sau: “Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết
tranh chấp với sự giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập. Các bên tranh chấp
tự nguyện thỏa thuận giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về

quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt
động kinh doanh thương mại, phù hợp với quy định của pháp luật, truyền
thống đạo đức xã hội”.
Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành phương thức hòa giải
thương mại bắt nguồn từ quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt trong tất cả
vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế
thị trường. Quan điểm của nhiều nước trên thế giới cho rằng pháp luật dân sự
cũng như luật thương mại thuộc “luật tư”, nghĩa là những ngành luật điều
chỉnh chủ yếu mối quan hệ giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau. Trong mối
quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau thì yếu tố thiện chí, tình cảm là quan
trọng hàng đầu. Do những mối quan hệ đã được xây dựng và duy trì từ lâu
nên các bên đối tác dễ chia sẻ lợi ích cũng như thua thiệt với nhau, ngay cả
trong hoàn cảnh có tranh chấp. Trong nền kinh tế thị trường, việc xử lý các
mối quan hệ tranh chấp giữa các thương nhân không chỉ được thực hiện theo
các quy định của pháp luật mà còn cần đến cả các thói quen, thông lệ và tập
quán thương mại.
Hòa giải với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp thân
thiện do các bên tự nguyện lựa chọn đã được áp dụng từ lâu trên thế giới.
Nhiều quốc gia đã có những động thái tích cực nhằm khuyến khích việc sử
dụng phương thức hòa giải trong giải quyết tranh chấp thương mại thông qua
việc sáng tạo hoặc công nhận các mô hình tổ chức hòa giải, thiết lập cơ chế


16

pháp lý linh hoạt cho việc lựa chọn và tiến hành hòa giải, đồng thời công nhận
và cho thi hành kết quả hòa giải giữa các bên tranh chấp.
1.1.4. Phân loại hòa giải thương mại
Theo thông lệ, người ta thường dựa vào tiêu chí chủ thể thực hiện hòa
giải để phân chia hòa giải thành hai hình thức là hòa giải công và hòa giải tư.

Hòa giải công do các cơ quan nhà nước, chủ yếu là tòa án đứng ra thực hiện.
Hòa giải tư thường do các tổ chức trọng tài thương mại hoặc các tổ chức hòa
giải thương mại chuyên nghiệp tiến hành. Ngoài ra, trong hòa giải tư, các bên
cũng có thể yêu cầu các cá nhân (thường là chuyên gia về hòa giải hoặc về
lĩnh vực đang có tranh chấp) đứng ra hòa giải. Tại Việt Nam, với các quy định
hiện nay, hòa giải có thể được chia thành hai loại là hòa giải ngoài tòa án và
hòa giải tại tòa án.


Hòa giải thương mại ngoài tòa án
Hòa giải thương mại ngoài tòa án thường do các tổ chức trọng tài

thương mại thực hiện hoặc do các tổ chức làm dịch vụ hòa giải chuyên nghiệp
hoặc do một bên thứ ba (tổ chức, cá nhân) làm trung gian hòa giải theo yêu
cầu của các bên tranh chấp. Tại các tổ chức trọng tài lớn trên thế giới đều có
các trung tâm hòa giải trực thuộc, như Trung tâm hòa giải của CIETAC
(Trung Quốc), Trung tâm hòa giải Delhi (Ấn Độ), Trung tâm hòa giải Hồng
Kông, Trung tâm hòa giải Indonesia, Trung tâm hòa giải Malaysia, Trung tâm
hòa giải Philippine, Trung tâm hòa giải Singapore, Trung tâm hòa giải Thái
Lan…Bên cạnh đó, các tổ chức trọng tài này đều ban hành các quy tắc hòa
giải và tổ chức việc hòa giải nhằm giúp các bên giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng và hiệu quả.
Tại Việt Nam, hoạt động hòa giải thương mại ngoài tòa án còn khá xa
lạ với các doanh nghiệp. Mô hình trung tâm hòa giải thương mại chuyên
nghiệp mới được ra đời kể từ khi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) ban hành Bộ Quy tắc hoà giải, có hiệu lực từ ngày 10/9/2007. Quy tắc
hòa giải này áp dụng cho việc hoà giải tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan


17


tới quan hệ pháp lý trong hoạt động thương mại, khi các bên quyết định tiến
hành hoà giải tranh chấp thông qua VIAC. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang trình
Chính phủ xem xét ban hành dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại. Nếu
được ban hành thì đây sẽ là văn bản pháp lý đầu tiên ở Việt Nam điều chỉnh
mô hình hoạt động hòa giải thương mại độc lập ngoài tòa án.
Quy trình hòa giải ngoài tòa án thường bắt đầu bằng việc hai bên tranh
chấp cùng đề nghị hòa giải viên hoặc một tổ chức hòa giải độc lập đứng ra
giải quyết tranh chấp. Một bên cũng có thể đơn phương liên hệ với hòa giải
viên hoặc với tổ chức hòa giải để yêu cầu tiến hành hoà giải, khi đó hòa giải
viên hoặc tổ chức hòa giải sẽ liên hệ và thuyết phục phía bên kia tham gia hòa
giải. Việc hòa giải chỉ được thực hiện sau khi có sự đồng ý của cả hai bên
tranh chấp. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên sẽ áp dụng các kỹ năng,
kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn của mình nhằm giúp các bên thảo luận
và thương lượng với nhau để tìm ra giải pháp cuối cùng cho vụ tranh chấp.
Trong trường hợp các bên đạt được thỏa thuận, hòa giải viên sẽ giúp các bên
soạn thảo thỏa thuận hòa giải một cách chi tiết, đồng thời, có thể tham gia làm
chứng cho thỏa thuận đó. Bản thỏa thuận này có giá trị pháp lý như một hợp
đồng. Một trong các bên hoặc bản thân hòa giải viên có quyền chấm dứt hòa
giải vào bất cứ giai đoạn nào của quá trình hòa giải khi thấy việc hòa giải
không mang lại hiệu quả.
Hòa giải ngoài tòa án còn bao gồm cả hoạt động hòa giải do trọng tài
viên tiến hành trong thủ tục tố tụng trọng tài được quy định tại Luật Trọng tài
thương mại 2010. Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định cụ thể
quy trình hòa giải tại trọng tài, việc hòa giải sẽ được các Trung tâm trọng tài
thực hiện theo quy trình phù hợp, linh hoạt tạo điều kiện để các bên đương sự
có thể thỏa thuận được với nhau. Tại điều 9 Luật Trọng tài thương mại năm
2010 quy định: “Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do
thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu
Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết



18

tranh chấp”. Dù các bên giải quyết tranh chấp bằng tố tụng trọng tài hay tố
tụng tòa án thì đều được khuyến khích tự thương lượng, hòa giải. Việc các
bên tự hòa giải thỏa thuận với nhau có thể được thực hiện trước hoặc trong
quá trình giải quyết tranh chấp. Song song với quá trình đó, trọng tài viên
cũng sẽ tiến hành việc hòa giải cho các bên tranh chấp. Quá trình hòa giải là
một giai đoạn bắt buộc trong tố tụng trọng tài. Tuy nhiên trong tố tụng trọng
tài, hòa giải được thực hiện trên yêu cầu của các bên sau khi các bên không tự
thương lượng với nhau được. Trường hợp các bên tự thương lượng được với
nhau hoặc hòa giải thành công thì có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận đó để đảm bảo việc thi hành thỏa thuận của các
bên.


Hòa giải thương mại tại tòa án
Hòa giải tại tòa án là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng tòa án, thể hiện

tại Điều 10 BLTTDS 2015 (trước đó là Điều 10 BLTTDS 2005): “Toà án có
trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự
thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ
luật này”. Quá trình hòa giải tại tòa án được pháp luật tố tụng quy định một
cách rõ ràng, cụ thể để áp dụng thống nhất tại các tòa án.
Theo quy định hiện hành, hòa giải có thể được tòa án tiến hành ở nhiều
giai đoạn, nhiều cấp xét xử và đối với hầu hết các vụ án, trừ một số trường
hợp không thể hòa giải được, cụ thể như sau:
- Giai đoạn ngay sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và nộp tạm ứng
án phí. Tuy nhiên, hòa giải ở giai đoạn này ít mang lại hiệu quả bởi khi đó

quan điểm của các bên còn khác xa nhau và chưa có sự tác động của bên thứ
ba (tòa án, thẩm phán).
- Giai đoạn chuẩn bị xét xử, sau khi thụ lý vụ án, thẩm phán ra thông
báo mở phiên hòa giải. Tại phiên hòa giải, thẩm phán giải thích các quyền và
nghĩa vụ của các đương sự, làm rõ yêu cầu của nguyên đơn. Thẩm phán chỉ rõ
cho các bên thấy ưu điểm của việc hòa giải và lợi ích của mỗi bên khi đạt


×