Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản của lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.96 KB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHANHSAMONE SOUNNALATH

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
PHÁ SẢN CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa Luật
Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Viết Tý, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.


Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động viên,
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chanhsamone SOUNNALATH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực. Những
kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ một công
trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

Chanhsamone SOUNNALATH


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN


: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

DN, HTX

: Doanh nghiệp, hợp tác xã

HNCN

: Hội nghị chủ nợ

TBPS

: Tuyên bố phá sản

TTPS

: Thủ tục phá sản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XLTS

: Xử lý tài sản


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH
NGHIỆP PHÁ SẢN ............................................................................................... 6

1.1. Khái quát về tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ............... 6
1.1.1. Khái niệm về tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản .............. 6
1.1.2. Các loại tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản .................... 11
1.2. Khái quát về xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ........ 15
1.2.1. Xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ........................ 15
1.2.2. Vai trò của hoạt động xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản ............................................................................................................ 19
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................... 22

Chương 2. SO SÁNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA DOANH NGHIỆP
PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN HÀNH CỦA LÀO VÀ VIỆT NAM .. 24

2.1. So sánh quy định về chủ thể tham gia xử lý tài sản của doanh nghiệp
phá sản ........................................................................................................ 24
2.1.1. So sánh các quy định về Tòa án ...................................................... 24
2.1.2. So sánh quy định về các thiết chế quản lý, thanh lý tài sản ............. 26
2.1.3. So sánh các quy định về chủ nợ ...................................................... 30
2.1.4. Nhận diện doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán theo
quy định của Luật phá sản Việt Nam (2014) và Luật phá sản Lào (1994) . 34
2.2. So sánh quy định về xác định tài sản của doanh nghiệp phá sản ...... 37
2.2.1. So sánh cách thức xác định tài sản của doanh nghiệp phá sản ......... 37
2.2.2. So sánh các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp phá sản....... 39
2.3. So sánh quy định về xử lý tài sản và thứ tự phân chia tài sản của
doanh nghiệp phá sản................................................................................. 44
2.3.1. Xác định các nghĩa vụ về tài sản ..................................................... 44
2.3.2. Thứ tự phân chia tài sản .................................................................. 46

2.4. So sánh thủ tục xử lý các loại tài sản của doanh nghiệp phá sản ...... 49


2.4.1. Kiểm kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp phá sản ............. 49
2.4.2. Thu hồi và quản lý tài sản ............................................................... 51
2.4.3. Những quy định về bán tài sản ........................................................ 53
2.4.4. Những quy định pháp luật về thanh toán ......................................... 56
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................... 57

Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN Ở NƯỚC CHDCND LÀO TỪ KINH NGHIỆM CỦA VIỆT
NAM ................................................................................................................. 58

3.1. Một số bất cập, hạn chế về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản
theo quy định của pháp luật phá sản Lào ................................................. 58
3.1.1. Một số hạn chế, bất cập trong quy định về chủ thể tham gia xử lý tài
sản của doanh nghiệp phá sản ................................................................... 58
3.1.2. Một số hạn chế, bất cập trong quy định về xác định tài sản của doanh
nghiệp phá sản .......................................................................................... 64
3.1.3. Một số hạn chế, bất cập trong quy định về nghĩa vụ tài sản và thứ tự
phân chia tài sản của doanh nghiệp phá sản .............................................. 65
3.1.4. Một số hạn chế, bất cập trong quy định về thủ tục xử lý tài sản của
doanh nghiệp phá sản ............................................................................... 66
3.2. Một số bài học kinh nghiệm của Việt Nam trong hoàn thiện các quy
định về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản rút ra từ việc so sánh.... 67
3.2.1. Kinh nghiệm về xây dựng địa vị pháp lý của các chủ thể trong xử lý
tài sản của doanh nghiệp phá sản .............................................................. 67
3.2.2. Kinh nghiệm về cách xác định tài sản của doanh nghiệp phá sản .... 69
3.2.3. Kinh nghiệm về xử lý tài sản và thứ tự phân chia tài sản của doanh
nghiệp phá sản .......................................................................................... 69

3.2.4. Kinh nghiệm về thủ tục xử lý các loại tài sản của doanh nghiệp phá
sản ............................................................................................................ 70
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản ............................................................................................ 72


3.3.1. Các giải pháp về hoàn thiện địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản ..................................................... 72
3.3.2. Các giải pháp về hoàn thiện về xác định tài sản của doanh nghiệp phá
sản ............................................................................................................ 75
3.3.3. Các giải pháp về hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ tài sản và thứ
tự phân chia tài sản của doanh nghiệp phá sản .......................................... 76
3.3.4. Các giải pháp về hoàn thiện các quy định về thủ tục xử lý tài sản của
doanh nghiệp phá sản ............................................................................... 76
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 81


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là hiện tượng hình thành, tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị
trường. Đây là một hiện tượng kinh tế phát sinh khi các doanh nghiệp kinh
doanh thua lỗ kéo dài và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản
nợ của mình.
Việt Nam là quốc gia có lịch sử lập pháp về phá sản tương đối trẻ so với thế
giới. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam cũng đã xây dựng và ban hành được 3 luật
về phá sản là: Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và
Luật Phá sản năm 2014. Trong tiến xây dựng và hoàn thiện pháp luật phá sản trên,

Việt Nam liên tục nghiên cứu thực tiễn, tìm tòi và tiếp thu các kinh nghiệm quốc
tế phù hợp về xây dựng và hoàn thiện pháp luật phá sản. Việc ban hành Luật Phá
sản năm 2014, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế đã chứng
tỏ vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đang thực hiện.
Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) là quốc gia còn có
hệ thống pháp luật chưa phát triển, lịch sử lập hiến, lập pháp còn non trẻ do thiếu
kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Luật phá sản năm
1994 là luật phá sản đầu tiên của nước CHDCND Lào và cũng là duy nhất cho
đến nay được ban hành. Sau hơn 20 năm thực hiện, đã bộc lộ rất nhiều hạn chế
so với sự phát triển của nền kinh tế thị trường Lào hiện nay. Một trong những bất
cập, hạn chế lớn đó chính là các quy định về xử lý tài sản (XLTS) của doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản (TBPS) trong Luật Phá sản năm 1994 còn đơn giản,
chưa thể hiện đúng bản chất của hoạt động XLTS và quan trọng nhất là chưa đáp
ứng được đòi hỏi của nền kinh tế - xã hội hiện nay ở Lào.
Kinh nghiệm lập pháp, lập hiến là một hạn chế dẫn đến Luật Phá sản năm
1994 chưa được sửa đổi bổ sung. Với tư cách là một quốc gia có điểm tương
đồng về hệ thống chính trị, quan điểm xây dựng và hoàn thiện pháp luật, điều
kiện kinh tế - xã hội - văn hóa, những quy định của hiện hành của Việt Nam về
XLTS của doanh nghiệp bị TBPS sẽ là kinh nghiệm không hề nhỏ cho việc xây


2

dựng và hoàn thiện quy định pháp luật về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS ở
nước CHDCND Lào trong thời gian tới.
Để có thể đúc rút ra kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện quy định pháp
luật về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS cho nước CHDCND Lào thì việc so
sánh các quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về XLTS của doanh
nghiệp bị TBPS là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp

luật về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản của Lào và Việt Nam dưới góc
độ so sánh” đề làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề XLTS của doanh nghiệp bị TBPS là một vấn đề được các học giả
của Lào và Việt Nam quan tâm nghiên cứu lâu nay, góc độ nghiên cứu cũng rất
rộng, từ góc độ kinh tế, pháp lý đến chính trị, xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ
pháp lý, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về XLTS của doanh nghiệp bị
TBPS ở Lào và Việt Nam có sự khác nhau rất lớn.
ở Lào, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về XLTS còn rất hạn chế,
số lượng các công trình nghiên cứu chưa nhiều. Tuy nhiên, có thể kể ra một số
công trình nghiên cứu sau đây. “Những bất cập trong việc thi hành các quy định
của Luật phá sản năm 1994” đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước của Viện khoa học
và xã hội Lào, Viêng Chăn, năm 2000; Viện nghiên cứu lập pháp - Bộ Tư pháp,
“Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thủ tục phá sản”, Viêng Chăn 2014. Điểm
thành công của các công trình nghiên cứu này là đã rà soát, tìm ra những bất cập
hạn chế trong các quy định pháp luật của Lào về thủ tục phá sản, cũng như định
hướng được một số kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và hoàn thiện thủ tục
phá sản, trong đó có nội dung về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS. Tuy nhiên,
đến nay lại chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung trung nghiên cứu
chuyên sâu về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS theo pháp luật phá sản của Lào.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS dưới
góc độ pháp lý được thực hiện từ rất sớm, ngay từ những ngày đầu Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993 được thực hiện. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu nổi bật sau: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật


3

phá sản Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân, Hà
Nội, năm 2004; “Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ

đến hạn theo Luật Phá sản năm 2004”, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Kim Chi, Hà Nội, 2005; “Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn theo Luật phá sản năm 2014”, Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Hà Thị Khánh Huyền, Hà Nội, 2015.
Dưới góc độ so sánh luật, có một số công trình sau đây có đề cập đến việc
so sánh pháp luật về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS: “Luật phá sản của Việt
Nam và pháp luật phá sản của Cộng hòa Pháp những nét tương đồng và khác
biệt, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả An Phương Huệ, Hà Nội, 2004; “Luật
phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ Luật so sánh và phương hướng hoàn
thiện”, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Trương Hồng Hải, Hà Nội, 2004.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào so sánh
các quy định của pháp luật phá sản Lào với pháp luật phá sản của Việt Nam. Chính
vì lẽ đó, đề tài: “Pháp luật về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá sản của Lào và
Việt Nam dưới góc độ so sánh” thực sự có tính cấp thiết trong việc nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những quy định về XLTS của
doanh nghiệp bị TBPS theo Luật Phá sản Lào năm 1994 và Luật Phá sản Việt
Nam năm 2014 dưới góc độ nghiên cứu luật học so sánh.
* Phạm vi nghiên cứu luận văn
Về phương diện lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc
điểm, các loại tài sản của doanh nghiệp bị TBPS; khái niệm, đặc điểm XLTS của
doanh nghiệp bị TBPS; vai trò của XLTS của doanh nghiệp bị TBPS.
Về phương diện luật thực định, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định
của Luật phá sản Lào năm 1994 và Luật Phá sản Việt Nam năm 2014 về chủ thể
tham gia XLTS; xác định tài sản của doanh nghiệp bị TBPS; XLTS và thứ tự phân
chia tài sản; thủ tục xử lý các loại tài sản của doanh nghiệp bị TBPS dưới góc độ so
sánh, để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai đạo Luật phá sản này.



4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu: nghiên cứu, hệ thống hóa
những quan điểm lý luận về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS; nghiên cứu làm
sáng tỏ các quy định về thủ tục phá sản của Luật Phá sản Lào năm 1994 dưới
góc độ so sánh với Luật phá sản Việt Nam năm 2014. Đúc rút kinh nghiệm và
tìm kiếm một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật phá sản
Lào về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục tiêu của đề tài, luận văn triển khai trả lời những câu hỏi
cơ bản sau:
(1) Những điểm tương đồng và khác biệt về chủ thể tham gia XLTS của
doanh nghiệp bị TBPS giữa Luật phá sản Lào năm 1994 và Luật phá sản Việt
Nam năm 2014?
(2) Những điểm tương đồng và khác biệt về xác định các loại tài sản của
doanh nghiệp bị TBPS giữa Luật phá sản Lào năm 1994 và Luật phá sản Việt
Nam năm 2014?
(3) Những điểm tương đồng và khác biệt về xử lý tài sản của doanh
nghiệp và thứ tự phân chia tài sản giữa Luật phá sản Lào năm 1994 và Luật phá
sản Việt Nam năm 2014?
(4) Những điểm tương đồng và khác biệt về thủ tục xử lý các loại tài sản
của doanh nghiệp bị TBPS giữa Luật phá sản Lào năm 1994 và Luật phá sản
Việt Nam năm 2014?
(5) Những kinh nghiệm của Việt Nam, những bất cập, hạn chế trong quy
định của pháp luật Lào về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật bao gồm phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các văn kiện đại hội

Đảng, quan điểm của Đảng và Nhà nước của cả CHXHCN Việt Nam và CHDCND
Lào đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.


5

Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương pháp phân
tích, tổng hợp, chứng minh, hệ thống hoá pháp luật và phương pháp luật học so sánh.
Luận văn tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật của
Lào dưới góc độ so sánh với pháp luật Việt Nam về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS
để đánh giá thực trạng, những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị
về việc hoàn thiện các quy định pháp luật về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS ở Lào
trong giai đoạn hiện nay. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp
nghiên cứu cụ thể nêu trên sẽ góp phần đưa đến thành công của luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về XLTS của doanh nghiệp
bị TBPS của Lào và Việt Nam, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề
xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật của Lào về XLTS của
doanh nghiệp bị TBPS. Cụ thể, luận văn có những đóng góp mới sau đây:
Một là, các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là nguồn tài liệu để tiếp tục
giảng dạy, nghiên cứu về pháp luật phá sản nói chung và pháp luật về XLTS của
doanh nghiệp bị TBPS nói riêng ở Lào và ở Việt Nam.
Hai là, các kết quả nghiên cứu của luận văn, đặc biệt là các giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật Lào về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS sẽ
có giá trị tham khảo để các nhà làm luật của Lào xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các quy định pháp luật hiện hành về XLTS của doanh nghiệp bị TBPS.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về xử lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản.
Chương 2. So sánh các quy định về xử lý tài sản của doanh nghiệp phá
sản theo pháp luật phá sản hiện hành của Lào và Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản của doanh
nghiệp phá sản ở nước CHDCND Lào từ kinh nghiệm của Việt Nam


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN CỦA
DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN
1.1. Khái quát về tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
1.1.1. Khái niệm về tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
Xác định tài sản của doanh nghiệp bị TBPS là một vấn đề quan trọng của
việc xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS. Bởi lẽ, xác định có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, cũng như là tiền đề quan
trọng cho Tòa án tìm ra phương hướng xử lý tài sản, giải quyết phá sản một cách
có hiệu quả nhất, bảo đảm quyền lợi, ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
phá sản. Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật phá sản các quốc gia trên thế giới
không đưa ra định nghĩa cụ thể về tài sản của doanh nghiệp bị TBPS, mà chỉ liệt
kê các tài sản của doanh nghiệp bị TBPS. Cụ thể:
- Theo pháp luật phá sản năm 1978 của Hoa Kỳ thì tài sản phá sản bao
gồm: (i) Tất cả số tài sản của con nợ (bao gồm quyền và nghĩa vụ tài sản); (ii)
Tài sản phá sản cũng bao gồm những tài sản mà con nợ có được trong vòng 180
ngày sau khi vụ án bắt đầu bằng việc thừa kế hoặc những lợi ích từ chính sách
bảo hiểm và bất kỳ một lợi ích nào đối với tài sản có được sau khi vụ án bắt đầu.
Tài sản phá sản cũng bao gồm những tài sản mà Tín thác viên thu hồi được
theo thẩm quyền do luật định trong các trường hợp: (i) Quyền xiết nợ (đại diện

cho chủ nợ): Tín thác viên có quyền xiết nợ đối với các con nợ của doanh nghiệp
mà không cần có sự đồng ý của con nợ (khoản 544a); (ii) Các tài sản có được từ
những giao dịch ưu tiên trả nợ bị vô hiệu: Tín thác viên có quyền thu hồi bất kỳ
một sự chuyển nhượng, thanh toán bằng bất kỳ tài sản nào của con nợ trước ngày
phá sản nhằm để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp và đảm bảo sự phân chia công
bằng khối tài sản này (trừ những giao dịch mà pháp luật thừa theo khoản 574);
(iii) Các tài sản có được do Tín thác viên đã thực hiện việc xiết nợ người khác đối
với tài sản của doanh nghiệp mà người tín thác này đang quản lý1.
1

Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2004), Bước
đầu tìm pháp luật thương mại Mỹ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 19 - 20.


7

- Luật Phá sản hiện hành của Nhật Bản những tài sản có được sau khi TBPS
thì không được tính vào khối tài sản của doanh nghiệp mà được xếp vào loại tài sản
mở rộng với lý do là: Nếu đưa vào loại tài sản phát sinh này sẽ tạo ra những sự phức
tạp cũng như khó khăn trong tính toán và đồng thời cũng tạo ra tính không công
bằng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của các bên có liên quan đến khối
tài sản đó. Luật Phá sản của Nhật Bản còn quy định: Tài sản nào ở ngoài phạm vi
lãnh thổ Nhật Bản không được coi là một bộ phận của khối tài sản phá sản do khả
năng giám sát, đánh giá, thu hồi là khó có thể tiến hành được.
Trong pháp luật pháp sản của Nhật Bản, khối tài sản phá sản bao gồm tài
sản của con nợ tại thời điểm tuyên bố phá sản là đối tượng của thủ tục tư pháp.
Những tài sản mà người được ủy thác thu hồi được thông qua quyền phủ nhận
cũng thuộc về khối tài sản phá sản. Quyền của chủ sở hữu cũng là một loại tài
sản thuộc khối tài sản phá sản. Tài sản này không nhất thiết phải nhìn thấy được
và không nhất thiết phải được thể hiện trên sổ sách hoặc tài sản của con nợ. Tài

sản cầm cố cũng là một tài sản trong khối tài sản phá sản2.
- Luật Phá sản năm 2002 của Liên bang Nga đã đưa ra cách xác định tài sản
phá sản bao gồm: (i) Tất cả tài sản của người mắc nợ thể hiện trong bảng cân đối kế
toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác định tài sản phá sản; (ii) Trong
tài sản phá sản còn bao gồm các đối tượng thuộc lĩnh vực công cộng nằm trong
bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các trường mẫu giáo và các công
trình sản xuất hạ tầng quan trọng đối với đời sống khu vực, cần được đưa vào bảng
cân đối của các cơ quan tự quản địa phương hoặc cơ quan quyền lực nhà nước hữu
quan, nếu pháp luật của Liên bang quy định khác,… (iii) Tài sản phá sản không bao
gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản phá sản bao gồm tài sản không thuộc quyền sở
hữu của người mắc nợ, trong đó, có tài sản do người mắc nợ thuê; tài sản mà người
mắc nợ có trách nhiệm bảo quản; tài sản riêng của công nhân viên doanh nghiệp
mắc nợ, trừ tài sản mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp

2

Massashi Nakanishi (2001), Những vấn đề cần trao đổi tại Hội thảo về Luật Phá sản theo dự án của JICA,
Hội thảo quốc tế về Luật Phá sản doanh nghiệp, Hà Nội, tr 10.


8

có thể được thu hồi để thực hiện các nghĩa vụ của người mắc nợ quy định tại Điều
26 Luật Phá sản năm 2002 của Liên bang Nga3.
- Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1986 của Trung Quốc chỉ áp dụng đối
với phá sản doanh nghiệp nhà nước, quy định, tài sản phá sản là những tài sản
sau đây: (i) Tài sản mà doanh nghiệp phá sản điều hành quản lý tại thời điểm
TBPS; (ii) Tài sản mà doanh nghiệp phá sản có được trong thời gian kể từ khi
TBPS cho đến ngày hoàn tất phá sản; (iii) Các quyền tài sản khác mà doanh
nghiệp phá sản phải thực hiện; (iv) Tài sản thuộc vật bảo đảm thì không phải là

tài sản phá sản; phần giá trị của vật bảo đảm vượt quá giá ngạch của khoản nợ
mà nó đảm bảo thì thuộc tài sản phá sản (Điều 28). Như vậy, cách quy định đối
với trường hợp này trong pháp luật phá sản Trung Quốc cho thấy sự tương đồng
với pháp luật phá sản của Liên bang Nga4.
- Luật Phá sản năm 2014 của Việt Nam tại Điều 64 đã liệt kê về tài sản
của DN, HTX mất khả năng thanh toán như sau:
+ Tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán bao gồm: (i) Tài sản và
quyền tài sản mà DN, HTX có tại thời điểm Tòa án nhân dân quyết định mở
thủ tục phá sản; (ii) Tài sản và quyền tài sản có được sau ngày Tòa án nhân dân
ra quyết định mở thủ tục phá sản; (iii) Giá trị của tài sản bảo đảm vượt quá
khoản nợ có bảo đảm mà DN, HTX phải thanh toán cho chủ nợ có bao đảm;
(iv) Giá trị quyền sử dụng đất của DN, HTX được xác định theo quy định của
pháp luật về đất đai; (v) Tài sản thu hồi từ hành vi cất giấu, tẩu tán tài sản của
DN, HTX; (vi) Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ giao dịch vô
hiệu; (vii) Các tài sản khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 64 Luật
Phá sản năm 2014)5.
+ Tài sản của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh mất khả năng thanh
toán bao gồm: (i) Tài sản quy định tại khoản 1 Điều này; (ii) Tài sản của chủ

3
Phan Thị Thu Hà (2010), Tìm hiểu pháp luật phá sản trên thế giới, Chuyên đề Khoa học xét xử, Hà Nội, tr
32.
4
Trần Duy Tuấn (2013), Chế định tài sản phá sản trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới và những gợi
mở cho Việt Nam, đăng trên: />5
Hà Thị Khánh Huyền (2015), Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo
Luật Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr 10.


9


doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dụng vào hoạt động
kinh doanh; trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh có tài
sản thuộc sở hữu chung thì phần tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành
viên hợp danh đó được chia thao quy định của pháp luật dân sự và quy định của
pháp luật có liên quan.
+ Trường hợp hợp tác xã bị TBPS thì việc xử lý tài sản không chia được
thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp tác xã.
Như vậy, Luật Phá năm 2014 của Việt Nam cũng không có quy định về
định nghĩa thế nào là tài sản phá sản mà chỉ quy định theo hướng liệt kê các loại
tài sản của DN, HTX mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tài sản phá sản theo
pháp luật phá sản Việt Nam không bị giới hạn không gian, loại, nguồn và các
danh mục loại trừ mà chỉ giới hạn về thời gian, tức là khối tài sản tính đến thời
điểm mở thủ tục phá sản và những tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết
phá sản.
- Luật phá sản năm 1994 của nước CHDCND Lào tại Điều 41 quy định về
danh sách tài sản của doanh nghiệp bị TBPS bao gồm: (i) Tài sản của doanh
nghiệp như: Đất đai, nhà ở, nhà kho, nhà máy, phương tiện, thiết bị phục vụ cho
sản xuất; (ii) Tất cả các khoản doanh thu của doanh nghiệp. Như vậy, tài sản của
doanh nghiệp bị TBPS theo Luật Phá sản năm 1994 của nước CHDCND Lào
cũng được xác định theo hướng liệt kê. Có thể thấy rõ, sự liệt kê này, không bị
giới hạn về cả không gian, không bị giới hạn về mặt thời gian nhưng lại bị giới
hạn về các loại tài sản và đặc biệt là quyền tài sản không được đưa vào danh sách
các loại tài sản của doanh nghiệp bị TBPS6.
Qua việc tìm hiểu các quy định pháp luật của các quốc gia về xác định tài
sản doanh nghiệp bị TBPS, có thể khái quát nên định nghĩa về về tài sản doanh
nghiệp bị TBPS như sau:
Tài sản của doanh nghiệp bị TBPS hay tài sản của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán là tài sản và quyền tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm mở
6


Viện Khoa học và Xã hội Lào (2000), Những bất cập trong việc thi hành các quy định của Luật phá sản
năm 1994, Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, Viêng Chăn, tr 10.


10

thủ tục phá sản, cũng như trong suốt thời gian giải quyết phá sản. Việc xác định
tài sản của doanh nghiệp bị TBPS có thể bị giới hạn về mặt thời gian, không
gian, loại tài sản.
Từ định nghĩa này, có thể khái quát lên những đặc điểm của tài sản doanh
nghiệp bị TBPS như sau:
Thứ nhất, việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp bị TBPS căn cứ
vào thời điểm trong thủ tục giải quyết phá sản.
Hiện tại trên thế giới có hai xu hướng là: (i) Khối tài sản phá sản chỉ được
thừa nhận đến thời điểm mở thủ tục giải quyết phá sản (pháp luật phá sản của
Nhật Bản, của nước CHDCND Lào theo khuynh hướng này); (ii) Khối tài sản
phá sản không chỉ tính đến thời điểm mở thủ tục phá sản mà còn bao gồm cả
những tài sản phát sinh trong quá trình phá sản (pháp luật phá sản của Hoa Kỳ,
Liên bang Nga, Trung Quốc và Việt Nam theo khuynh hướng này).
Thứ hai, việc xác định khối tài sản phá sản có tính đến phạm vi không
gian mà những tài sản của doanh nghiệp đang hiện hữu.
Trong pháp luật phá sản của một số quốc gia chỉ coi tài sản thuộc khối tài
sản phá sản phải là những tài sản hiện hữu nằm trong phạm vi lãnh thổ của quốc
gia đó (Luật Phá sản Nhật Bản, nước CHDCND Lào theo quan điểm này); Còn
lại, đa số các quốc gia, hoặc không giới hạn hoặc không có quy định rõ về
nguyên tắc đối với trường hợp này (Luật Phá sản của Hoa Kỳ, Liên Bang Nga,
Trung Quốc và Việt Nam theo quan điểm này).
Thứ ba, việc xác định khối tài sản phá sản căn cứ vào loại hình tài sản hay
nguồn tài sản. Trong pháp luật phá sản của một số quốc gia trên thế giới thực

hiện việc phân loại dựa trên sự quan tâm đến đặc điểm của nguồn hình thành tài
sản. Điển hình là cách xác định tài sản phá sản theo Luật Phá sản của Hoa Kỳ:
Tài sản phá sản là tài sản hiện có của bản thân doanh nghiệp phản ánh trong sổ
sách kế toàn tại thời điểm mở thủ tục, những tài sản thu hồi từ việc xiết nợ,…
Bên cạnh đó, các quy định về nguồn hình thành hoặc việc thu hồi tài sản của
doanh nghiệp còn bao gồm cả những quy định về đặc điểm loại hình tài sản (tài
sản là bất động sản hay động sản như Luật Phá sản của Việt Nam và nước


11

CHDCND Lào; tài sản hữu hình hay tài sản vô hình,…). Ngoài ra, thuộc tính sở
hữu của tài sản trong cấu trúc tài sản của doanh nghiệp cũng là một trong những
cách xác định tài sản phá sản được Luật Phá sản của Liên bang Nga quy định.
Thứ tư, việc xác định khối tài sản phá sản trong pháp luật phá sản của các
quốc gia trên thế giới phần lớn đều có cách xác định rõ về nhóm các loại tài sản
loại trừ không thuộc khối tài sản phá sản. Cơ sở cho việc xác định nhóm tài sản
loại trừ cũng có sự khác nhau nhất định, bao gồm các dạng loại trừ tài sản không
thuộc khối tài sản phá sản như sau: (i) Thời điểm phát sinh tài sản như pháp luật
phá sản của Nhật Bản; (ii) Phạm vi không gian tài sản tồn tại như pháp luật phá
sản của Nhật Bản; (iii) Tính chất sở hữu của tài sản như pháp luật phá sản của
Liên bang Nga, Trung Quốc; (iv) Giá trị tài sản và mục đích, công dụng của tài
sản như pháp luật phá sản của Hoa Kỳ. Trong khi đó, pháp luật phá sản của nước
CHDCND Lào và Việt Nam lại không xác định nhóm tài sản loại trừ không
thuộc khối tài sản phá sản7.
1.1.2. Các loại tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
Có nhiều quan điểm về cách xác định các loại tài sản của doanh nghiệp bị
TBPS nhưng có tựu chung lại thì tài sản của doanh nghiệp bị TBPS bao gồm:
Tài sản có và tài sản nợ.
- Tài sản có. Tài sản có là những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền

quản lý, sử dụng của doanh nghiệp. Tài sản có thể được phân loại thành tài sản
hữu hình và tài sản vô hình; động sản và bất động sản. Các cách phân loại tài sản
này dựa trên các căn cứ sau đây:
(i) Căn cứ vào việc có hay không có đặc tính vật lý thì tài sản được chia
thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình;
(ii) Căn cứ vào đặc điểm tính di dời hay không di dời được của tài sản hữu
hình và các quyền được thiết lập trên đó hay không được thiết lập trên đó, tài sản
được chia thành động sản và bất động sản.

7

Hà Thị Khánh Huyền (2015), Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật

Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr 11.


12

+ Bất động sản là các tài sản không di dời được. Bất động sản có đặc
điểm là gắn cố định với một không gian, vị trí nhất định, không di dời được, bao
gồm: Đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản
gắn liền với nhà, công trình dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài
sản do pháp luật quy định. Các bất động sản là nhà cửa, vật kiến trúc như trụ sở
làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà
cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, đường băng sân bay, cầu tầu, cầu cảng8.
Cách xác định tài sản là bất động sản hợp pháp là căn cứ vào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đất, hoặc một trong các giấy tờ hợp lệ về
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà, quyết định cấp nhà, cấp đất, quyết định giao đất, cho thuê đất,
thanh lý, hóa giá, tặng cho của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp

luật, giấy tờ thừa kế nhà ở được pháp luật công nhận, bản án, quyết định của Tòa
án hoặc cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật về sở hữu nhà ở.
+ Động sản là những tài sản không phải là bất động sản (máy móc, thiết
bị, phương tiện vận tải, dây chuyền công nghệ,…). Động sản là máy móc, thiết bị
là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động inh doanh của doanh
nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây truyền công nghệ hoặc
những máy móc đơn lẻ khác…. Thiết bị, dụng cụ quản lý là những thiết bị, dụng
cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy
vi tính phục vụ quản lý, thiết bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất
lượng v.v..
Cách xác định nhận diện diện tài sản là động sản phải căn cứ vào hồ sơ,
tài liệu, chứng từ, hóa đơn mua bán, nhập khẩu,…của tài sản. Trường hợp hồ sơ,
tài liệu về tài sản thiết bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy do nguyên nhân bất khả kháng
thì dựa trên khai báo, cam kết, xác nhận của khách hàng hoặc dựa trên danh mục
tài sản trong bảng cân đối kế toán gần nhất của doanh nghiệp để xác minh.

8

Hà Thị Khánh Huyền (2015), Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật

Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr. 11.


13

+ Tài sản hữu hình. Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật
chất do chủ tài sản nắm giữ để phục vụ các mục đích của mình; nó bao gồm tài
sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.
(i) Tài sản ngắn hạn. Tài sản vô hình là tài sản được dự tính để bán hoặc
để sử dụng trong khuôn khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh

nghiệp; được nắm giữa chủ yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích
ngắn hạn; là tiền hoặc tài sản có giá trị tương đương với tiền mà việc sử dụng
không gặp một hạn chế nào.
(ii) Tài sản dài hạn. Tài sản dài hạn là các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn,
bao gồm: Tài sản cố định, tài sản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.
+ Tài sản vô hình. Tài sản vô hình là tài sản không có hình thái vật chất
nhưng xác định được giá trị do chủ tài sản nắm giữa để phục vụ cho mục đích
của mình; nó có thể gồm: Kỹ năng quản lý, bí quyết marketting, danh tiếng, uy
tín, thương hiệu, biểu tượng doanh nghiệp và việc sở hữu các quyền và công cụ
hợp pháp (quyền sử dụng đất, quyền sáng chế, bản quyền, quyền kinh doanh hay
các hợp đồng).
Các quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể được chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Quyền tài sản là tài sản vô hình.
Quyền tài sản là một khái niệm pháp lý bao hàm tất cả quyền, lợi ích và lợi tức liên
quan đến quyền sở hữu, nghĩa là người chủ sở hữu được hưởng một hay những
quyền lợi khi làm chủ tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản là một nhóm những quyền
năng mà mỗi quyền năng có thể tách rời với quyền sở hữu và chuyển giao trong
giao dịch dân sự, bao gồm: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt,
Quyền tài sản gắn với lợi ích thu được từ quyền tài sản được gọi là tài sản thực.
- Tài sản nợ. Tài sản nợ là các loại nợ của doanh nghiệp, căn cứ vào sự an
toàn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp bị TBPS, có thể phân loại nợ thành:
Nợ có đảm bảo, nợ có đảm bảo một phần, nợ không có đảm bảo.
+ Nợ có đảm bảo. Nợ có đảm bảo là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài
sản của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Căn cứ vào thời hạn thanh toán
trước thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có thì nợ có đảm


14

bảo được phân loại thành nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn. Đây là những tài sản

được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc các biện pháp
khác theo quy định của pháp luật.
+ Nợ có đảm bảo một phần. Nợ có đảm bảo một phần là các khoản nợ
được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc người thứ ba mà giá trị tài sản
đảm bảo ít hơn khoản nợ đó. Việc xác định rõ tài sản đảm bảo nợ hay tài sản
đảm bảo nợ một phần là một vấn đề còn rất nhiều khó khăn, bởi lẽ, sự biến động
của giá trị tài sản đảm bảo luôn luôn luôn thay đổi theo chiều hướng giảm giá trị.
+ Nợ không có đảm bảo. Nợ không có đảm bảo là các khoản nợ không
được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Các khoản
nợ không có đảm bảo sẽ được thanh toán theo tình tự và thủ tục được quy định
trong pháp luật phá sản.
Ý nghĩa của việc phân loại tài sản nợ của doanh nghiệp thành nợ có đảm
bảo, nợ có đảm bảo một phần và nợ không có đảm bảo nằm ở chỗ, nó sẽ giúp
Tòa án xác định được một cách rõ ràng dấu hiệu phá sản của doanh nghiệp, nếu
doanh nghiệp có số nợ không đảm bảo lớn hơn các loại nợ còn lại và đã mất khả
năng thanh toán nợ không có đảm bảo khi đến hạn thì doanh nghiệp đó lâm vào
trình trạng mất khả năng thanh toán hay phá sản. Ngoài ra, việc phân loại này
còn giúp Tòa án xác định được quyền và nghĩa vụ của chủ nợ, xác định cách
thức xử lý các khoản nợ nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ và
doanh nghiệp mắc nợ9.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, có
thể chia tài sản nợ của doanh nghiệp bị TBPS thành: Nợ đến hạn thanh toán và
nợ chưa đến hạn thanh toán.
+ Nợ đến hạn thanh toán. Nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ theo đó
doanh nghiệp mắc nợ phải có nghĩa vụ thanh toán ngay cho chủ nợ khi có yêu
cầu từ phía chủ nợ.

9

Hà Thị Khánh Huyền (2015), Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn theo Luật


Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr 14.


15

+ Nợ chưa đến hạn thanh toán. Nợ chưa đến hạn thanh toán là khoản nợ
mà theo đó doanh nghiệp chưa phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Kể từ ngày ra
quyết định mở thủ tục phá sản, các khoản nợ được tiếp tục tĩnh lãi theo thỏa
thuận nhưng được tạm dừng việc trả lãi. Đối với khoản nợ mới phát sinh sau khi
mở thủ tục phá sản đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản thì tiền lãi
của khoản nợ đó được xác định theo thỏa thuận nhưng không trái với quy định
của pháp luật. Kể từ ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản thì
khoản nợ này không được tiếp tục tính lãi.
Việc phân loại tài sản nợ của doanh nghiệp bị TBPS thành nợ đến hạn
thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán giúp cho Tòa án có thể xác định một
cách chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản hay chưa. Bởi lẽ,
doanh nghiệp chỉ lâm vào tình trạng phá sản khi mất khả năng thanh toán khoản
nợ đến hạn, các khoản nợ này là các khoản nợ không có đảm bảo hoặc có đảm
bảo một phần. Tuy nhiên, nếu chủ nợ yêu cầu thanh toán mà nhưng doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán, không được doanh nghiệp thanh toán thì
mới được coi là lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn hay lâm
vào tình trạng phá sản.
Như vậy, tùy thuộc vào quan điểm của các quốc gia mà việc xác định và
phân loại tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng có sự khác
nhau nhất định. Tuy nhiên, việc xác định và phân loại tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
việc mở hay không mở thủ tục phá sản, mở hay không mở thủ tục xử lý tài sản
của doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ và doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản.

1.2. Khái quát về xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
1.2.1. Xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
Xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS bao gồm các hoạt động khác
nhau được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định. Có thể định nghĩa về
xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS như sau:


16

Xử lý tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là những hoạt động
được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nhất định. Đó là thủ tục đòi nợ và
thanh toán nợ tập thể, được tiến hành dựa trên tài sản còn lại của doanh nghiệp
bị tuyên bố phá sản sau khi có quyết định cho phép thanh lý và trả nợ của của
Tòa án có thẩm quyền.
Thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS có những đặc điểm:
Thứ nhất, việc đòi nợ và thanh toán nợ mang tính tập thể và thông qua cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Bản chất của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS là thủ tục
đòi nợ và thanh toán nợ tập thể. Nếu như trong thủ tục đòi nợ thông thường, các
chủ thể có thể thực hiện quyền đòi nợ của mình một cách độc lập, riêng rẽ thì
việc đòi nợ và thanh toán nợ trong thủ tục phá sản được tiến hành một cách tập
thể. Tính tập thể của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS thể hiện ở
những nội dung sau:
- Tất cả các chủ nợ đều có quyền tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh
toán nợ trong thời hạn mà pháp luật quy định.
- Kể từ thời điểm Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp
mắc nợ không được thanh toán bất kỳ khoản nợ riêng nào cho bất kỳ chủ nợ nào.
Các chủ nợ cũng không thể đòi thanh toán riêng khoản nợ của mình mà phải
thông qua thủ tục gửi giấy đòi nợ.
- Trong quá trình giải quyết phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để đòi

nợ riêng mà phải cùng với đại diện người lao động tập hợp lại thành một chủ thể
pháp lý duy nhất, gọi là HNCN.
- Thủ tực xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS không được áp dụng
riêng rẽ đối với chủ nợ mà được áp dụng đối với tập thể chủ nợ, toàn bộ tài sản
của con nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả nợ cho các chủ nợ theo một
thứ tự ưu tiên nhất định được pháp luật quy định.
Lý giải cho việc, thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS là một
thủ tục thanh toán nợ tập thể, bởi lẽ cơ quan có thẩm quyền mở thủ tục phá sản
là Tòa án có thẩm quyền chứ không phải chủ nợ và khi thanh toán không phải tất


17

cả các chủ nợ đều được thanh toán đầy đủ. Do đó, thủ tục xử lý tài sản trong thủ
tục phá sản phải được tiến hành tập thể để bảo đảm quyền lợi một cách công
bằng nhất cho các chủ nợ. Các chủ nợ dẽ được thanh toán theo một thứ tự trên cơ
sở tính chất các khoản nợ, đảm bảo vị trí của các chủ nợ trong quá trình tố tụng
phá sản. Hơn nữa, việc từng chủ nợ đi đòi nợ sẽ dẫn tới hiện tượng ai nhanh chân
thì có lợi hơn và người đến sau sẽ không được bảo đảm về quyền lợi. Vì vậy, cần
phải có một thủ tục mang tính tập thể để bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ.
Việc đòi nợ và thanh toán các khoản nợ được tiến hành thông qua cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, đó là Tòa án các cấp sẽ có thẩm quyền giải quyết theo
quy định của pháp luật. Chủ nợ có quyền đòi nợ, tuy nhiên việc đòi nợ này phải
thông qua Tòa án thể hiện ở thủ tục gửi giấy đòi nợ. Việc thanh toán nợ của
doanh nghiệp cũng không diễn ra trực tiếp mà phải thông qua các cơ quan đại
diện. Chủ nợ nhận được số nợ của mình từ các cơ quan đại diện này chứ không
nhận trực tiếp từ doanh nghiệp mắc nợ. Chính điều này tạo nên sự khác biệt của
thủ tục đòi và thanh toán nợ trong thủ tục phá sản, so với thủ tục đòi nợ và thanh
toán nợ thông thường.
Thứ hai, thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn

lại của doanh nghiệp.
Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở tài sản còn lại của
doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là nợ bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu
như trong dân sự mà nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ sẽ chấm dứt sau khi
dùng toàn bộ tài sản của mình để trả nợ, mặc dù có thể chưa thanh toán đầy đủ
cho các chủ nợ. Đối với pháp nhân, khi hoàn thành nghĩa vụ này cũng đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân đó nên việc xóa nợ đối với doanh nghiệp bị
TBPS là đương nhiên. Tuy nhiên, đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân và công
ty hợp danh thì do chế độ chịu trách nhiệm này là trách nhiệm vô hạn, nên nghĩa
vụ trả nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh vẫn còn tồn tại, trừ trường hợp các chủ nợ và con nợ có thỏa thuận khác.
Tính chất đặc biệt của thủ tục xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS còn
thể hiện ở chỗ, không có con nợ nào được quyền thanh toán riêng rẽ mà không


18

có sự cho phép của Thẩm phán có thẩm quyền. Kể từ khi có quyết định mở thủ
tục phá sản, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của doanh nghiệp phải được đặt
dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý, thanh lý tài sản và
Thẩm phán. Tài sản của doanh nghiệp được kiểm kê và quản lý theo một thủ tục
nhất định, đảm bảo bảo toàn tài sản và gia tăng tài sản một cách hợp pháp để bảo
vệ quyền lợi của chủ nợ và con nợ. Các khoản nợ của doanh nghiệp được phân
chia theo một thứ tự và tỷ lệ nhất định. Việc thanh toán các khoản nợ được thực
hiện lần lượt theo thứ tự mà pháp luật quy định.
Thứ ba, thanh toán các khoản nợ được tiến hành sau khi có quyết định
của Tòa án có thẩm quyền.
Trong thủ tục thanh toán nợ thông thương, thời điểm thanh toán nợ có
thể diễn ra bất kỳ lúc nào, theo phương thức, địa điểm do hai bên lựa chọn, Tòa
án gần như không can thiệp vào quá trình giải quyết đó của các bên. Như đã

biết, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định việc phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, thanh lý tài sản hoặc TBPS nhưng Tòa án không
trực tiếp thanh toán nợ của doanh nghiệp mà thông qua các cơ quan quản lý,
thanh lý tài sản được thành lập để tiến hành thanh toán nợ. Tuy nhiên, việc
thanh toán các khoản nợ chỉ được tiến hành sau khi có quyết định của Tòa án,
chỉ khi Tòa án cho phép, doanh nghiệp mắc nợ mới được tiến hành thanh toán
cho chủ nợ. Quy định việc thanh toán các khoản nợ chỉ được tiến hành khi có
quyết định của Tòa án nhằm đảm bảo sự phân chia công bằng tài sản của doanh
nghiệp bị TBPS cho tất cả các chủ nợ, cũng như tạo điều kiện cho doanh
nghiệp mắc nợ phục hồi hoạt động kinh doanh khi còn có khả năng phục hồi
hoạt động kinh doanh.
Như vậy, xử lý tài sản của doanh nghiệp bị TBPS là một thủ tục pháp lý
đặc biệt, nó cũng bao gồm thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ nhưng nó khác với thủ
tục đòi nợ và thanh toán nợ thông thường vì những đặc điểm đặc biệt của nó
trong suốt quá trình đòi nợ và thanh toán nợ.


×