Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

So sánh tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân của cộng hòa DCND lào và cộng hòa XHCN việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.99 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHANTHAVONG SILIPANYA

SO SÁNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CỦA CỘNG
HÒA DCND LÀO VÀ CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM QUÝ TỴ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong hai năm học cao học tại trường Đại học Luật Hà Nội, tác giả
luận văn đã được học và sinh sống trong môi trường giáo dục tốt nhất Việt
Nam. Với lòng say mê học hỏi và yêu mến đất nước, con người Việt Nam, tác
giả luận văn đã rất vinh dự được học tập ở trường Đại học Luật Hà Nội. Tác
giả luận văn xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ,
giáo viên trường Đại học Luật Hà Nội và khoa sau Đại học trường Đại học
Luật Hà Nội. Đặc biệt là thầy TS. Phạm Quý Tỵ đã hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình cho tác giả luận văn trong quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp.


Tác giả

CHANTHAVONG SILIPANYA


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
của giáo viên hướng dẫn khoa học và các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong
luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

2. CHXHCN:

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

3. VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

4. TTHS


Tố tụng hình sự

5. Đảng NDCM Lào

Đảng nhân dân cách mạng Lào

6. VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

7. CHDCND

Cộng hoà dân chủ nhân dân

8. TNHS

Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
S.Tr
LỜI MỞ ĐẦU

1
CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

1.2. Đặc điểm cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
1.3. Vai trò của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
1.4. Khái quát quy định của pháp luật về cơ quan điều tra của Cộng hoà DCND
Lào và Cộng hoà XHCN Việt Nam

6
10
14
19

CHƯƠNG II
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN NƯỚC CỘNG
HOÀ DCND LÀO VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Pháp luật Lào về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân

26

2.2. Pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân

34

2.3. So sánh pháp luật của Lào và Việt Nam về tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân

49



CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở CỘNG HOÀ DCND LÀO
3.1. Thực trạng thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa DCND Lào

55

3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện tổ chức và hoạt động của cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hoà DCND Lào

55

3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện tổ chức và hoạt động của cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hoà DCND Lào

60

3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

63

3.2. Những yêu cầu cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hoà DCND
Lào

65

3.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hoà DCND Lào trên cơ sở tham
khảo kinh nghiệm của Việt Nam

68

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Trong bộ máy nhà nước của Việt Nam cũng như Lào, cơ quan điều tra
Viện Kiểm sát đều là cơ quan tư pháp rất quan trọng. Cơ quan điều tra Viện
Kiểm sát của hai nước đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chính quyền nhà
nước, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân tại
nước mình. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi nghiên cứu so sánh về vấn đề
cơ cấu tổ chức của cơ quan điều tra Viện kiểm sát giữa Việt Nam và cơ quan
điều tra Viện kiểm sát Lào. Chính vì thế mà pháp luật TTHS chỉ quy định
những cơ quan và những chủ thể nhất định mới được thực hiện chức năng điều
tra. Cơ quan điều tra VKSND Lào là một hệ thống cơ quan điều tra hình sự của
Nhà nước Lào, là một trong những công cụ không thể thiếu đối với sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phát hiện, ngăn chặn và
đề xuất xử lý hành vi phạm tội.
Nghiên cứu, tìm ra giải pháp xác định tổ chức và hoạt động, phạm vi và
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND Lào nhằm đảm bảo sự thống

nhất trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự
an toàn của công dân, nhằm đáp ứng với các yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm và kế thừa phát huy các thành tựu trong lịch sử tố tụng hình sự, qua đó đề
xuất những kiến nghị bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về tổ chức và hoạt động của Cơ quan diều tra VKSND Lào đang là vấn
đề cấp thiết đặt ra đối với ngành Kiểm sát nhân dân Lào.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện cả hai nước Việt Nam và Lào đều tiến
hành cải cách tư pháp, sửa đổi và bổ sung pháp luật. Tổ chức và hoạt động của
Cơ quan điều tra nói chung và tổ chức, hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND
nói riêng đang chi phối quá trình sửa đổi BLTTHS của cả Lào và Việt Nam. Vì


2

vậy, tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND cần được nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện, đảm bảo phù hợp với thực tiễn.
Từ những lý do đã nêu trên, cho thấy việc lựa chọn đề tài “So sánh tổ
chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân của Cộng hoà
DCND Lào với Cộng hoà XHCN Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn
Thạc sỹ luật học là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn, đáp
ứng với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện pháp luật; phù hợp
với định hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS và Luật Tổ chức VKSND của Nhà
nước Việt Nam và Lào, cũng như đáp ứng với yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND mới chỉ được
đề cập đến trong một số ít công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và Lào
mà chủ yếu là các bài viết trên các tạp chí thí dụ như: “Một số ý kiến về thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân” - Đỗ Thị Tuyết,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/1999; “Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

cùa Viện kiểm sát nhân dân” - Phạm Quang Luyện — Tạp chí Kiểm sát số
6/1999. Ở cấp độ nghiên cứu sâu hơn có đề tài nghiên cứu Khóa luận: “Thẩm
quyền của Cơ quan điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam”;
“Thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên theo yêu cầu cải cách tư
pháp” — Nguyễn Ngọc Khánh - Tạp chí Kiểm sát số Tết tháng 02/2011; “Địa vị
pháp lý và thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Tối cao”
— Lê Hồng Thanh - Tạp chí Kiểm sát số 11/2012; “Tăng cường phối hợp, phân
loại xử lý thông tin về xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” - Hà Như Khuê - Tạp chí Kiểm
sát số 11/2012. Ngoài ra, còn có Luận văn thạc sĩ luật học của Phut Sa Đy Bu
Đa Phét năm 2005: “Pháp luật về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan
điều tra công an - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” – trường Đại học Quốc
Gia Lào; Luận văn thạc sĩ của Phon Sa Đy: “Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của các tổ chức điều tra Viện kiểm sát tỉnh ViêngChan năm 2007” –


3

Khoa Luật Học viện an ninh nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học của
Indavong Sorphap Mixay : “Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao CHDCND Lào so sánh với CHXHCN
Việt Nam” – trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015. Tuy nhiên chưa có công
trình nào so sánh pháp luật của hai nước Việt Nam và Lào về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan điều tra VKSND.
Các nghiên cứu và các ý kiến nêu trên chưa nhiều nhưng đã có những
cách tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, có những giá trị khoa học nhất định, là
nguồn tài liệu tham khảo cho việc xây dựng các nội dung của luận văn về tổ
chức và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND. Tuy nhiên, phần lớn các
nghiên cứu này còn có những vấn đề chưa được đề cập một cách đầy đủ và toàn
diện hoặc có đề cập nhưng mức độ nghiên cứu chưa sâu.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện các quy
định tại Điều 22, 23 Bộ Luật TTHS Lào năm 2009, Điều 11, Điều 25 Luật Viện
kiểm sát Lào năm 2009 và các điều luật khác có liên quan và Khoản 3 Điều 163
BLTTHS 2015, Điều 29, 30 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015,
Điều 20 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 của Cơ quan điều tra
VKSND Việt Nam. Do giới hạn của luận văn nên tác giả không phân tích so
sánh cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương hai nước mà chỉ tập
trung so sánh cơ quan điều tra của VKSND là Cơ quan điều tra VKSNDTC Việt
Nam và cơ quan điều tra của VKSND Lào là Uỷ ban công tố ở VKSNDTC và
Văn phòng công tố công cộng ở địa phương.
Luận văn tập trung nghiên cứu những đường lối chính sách của Đảng
Nhân dân cách mạng Lào và của Nhà nước Lào, Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Việt Nam, các hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam và của
CHDCND Lào về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:


4

Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, diễn giải,
chứng minh, đối chiếu, so sánh pháp luật, quy nạp, hệ thống hóa.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa ra phương hướng và những
giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở CHDCND Lào.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là: a) Nghiên cứu những vấn đề lý
luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân Cộng

hòa DCND Lào và Việt Nam; b) Nghiên cứu và so sánh các quy định pháp luật
hiện hành của Lào và Việt Nam về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật; c) Đưa ra những nguyên tắc, phương
hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hòa DCND Lào.
6. Những đóng góp mới của Luận văn:
- Luận văn đã hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức
và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát ở Lào và ở Việt Nam;
- Luận văn đã nghiên cứu và so sánh một cách đầy đủ, có hệ thống các
quy định pháp luật hiện hành của Lào và Việt Nam về tổ chức và hoạt động của
cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân;
- Luận văn đã trình bày được những nguyên tắc, phương hướng và các
giải pháp cụ thể, thiết thực, có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng hòa DCND
Lào.
7. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm ba chương là :


5

Chương I. Những vấn đề lý luận về cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân
Chương II. So sánh quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân của nước Cộng hoà DCND Lào và
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Chương III. Thực trạng, Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân ở Cộng
hòa DCND Lào



6

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN ĐIỀU TRA CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
Qua tìm hiểu các tài liệu khoa học pháp lý, nhất là các giáo trình giảng
dạy trong các trường đại học chuyên ngành Luật đều không đưa ra khái niệm về
Cơ quan điều tra một cách độc lập, chủ yếu định nghĩa, khái niệm về Cơ quan
tiến hành tố tụng, trong đó có Cơ quan điều tra. Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì phần viết về Cơ quan tiến hành tố
tụng không có khái niệm chung về cơ quan tiến hành tố tụng mà phân tích từng
Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Nội dung về từng cơ quan tiến hành tố tụng cũng không đưa ra khái niệm riêng
biệt mà chủ yếu phân tích về tổ chức và nguyên tắc hoạt động; nhiệm vụ và
quyền hạn1. Tham khảo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Nhà xuất
bản giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội, thì Cơ quan tiến hành tố tụng là những
cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm giải quyết vụ án khách quan, công
bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng phải dựa trên cơ sở và trong phạm vi của pháp luật tố
tụng hình sự2. Theo khái niệm này thì Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra. Tuy nhiên cũng không
có khái niệm riêng biệt về từng cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Cơ quan
điều tra mà chỉ tập trung làm rõ về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động điều
tra, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan điều tra. Như vậy rất khó tìm hiểu về Cơ


1

Trần Viết Kiên (2015), Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học – Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 8-9.
2
Trần Viết Kiên (2015), Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học – Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.10.


7

quan điều tra trên cơ sở một khái niệm hay định nghĩa pháp lý ở các tài liệu
giảng dạy tại các trường chuyên ngành Luật ở bậc Đại học, do đó khái niệm về
Cơ quan điều tra do PGS.TSKH Lê Văn Cảm – Đại học quốc gia Hà Nội –
Khoa luật trong cuốn Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền là khái niệm đầy đủ nhất về Cơ quan điều tra: Cơ quan điều
tra là một chủ thể TTHS có thẩm quyền nhân danh Nhà nước (công quyền) thực
hiện hoạt động bảo vệ pháp luật bằng việc tham gia vào quá trình điều tra vụ án
hình sự để xác định sự thật khách quan của vụ án và vấn đề TNHS của người
phạm tội, đồng thời có các quyền hạn và nghĩa vụ nhất định do luật TTHS quy
định căn cứ vào gia đoạn khởi tố - điều tra tương ứng với hoạt động của mình
khi giải quyết các vụ án hình sự nhằm góp phần làm cho hoạt động của hệ thống
TPHS đạt hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh chống tội phạm3. Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân là một trong những hệ thống của Cơ quan điều tra
nói chung nhưng có đối tượng điều tra (thẩm quyền và phạm vi thẩm quyền)
riêng biệt so với các Cơ quan điều tra khác và trực thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành có thể khái quát
mang tính quy nạp về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
Cũng theo từ điển tiếng Việt, “điều tra” là hoạt động “tìm tòi, xem xét để
biết rõ sự thật”4. Điều tra phát hiện, tìm ra chứng cứ buộc tội là chức năng của

Cơ quan điều tra do pháp luật TTHS quy định. Dĩ nhiên, để củng cố thêm các
chứng cứ buộc tội, các cơ quan này có thế thu thập thêm thông tin ngoài tố tụng
nhưng đó không là chứng cứ, chỉ là công việc hỗ trợ hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra. Để phân biệt với các cơ quan tham gia điều tra phát hiện tội phạm
như các cơ quan phát hiện, ngăn chặn tội phạm bằng biện pháp nghiệp vụ, biện
pháp trinh sát, PGS.TS. Trần Đình Nhã cho rằng: Cơ quan điều tra trong TTHS
chính là cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm theo pháp luật TTHS, là Cơ

3

Trần Viết Kiên (2015), Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân – một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học – Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 11.
4
Trần Đình Nhã (2012), Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật tổ tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số
21, tháng 11/2012, Hà Nội.


8

quan điều tra tố tụng hình sự5. Theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam,
Cơ quan điều tra bao gồm: Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân, Cơ quan
điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC. Theo
quy định của pháp luật TTHS của Lào, Cơ quan điều tra của Lào là các tổ chức
điều tra bao gồm: các tổ chức điều tra (cảnh sát, sĩ quan quân đội, công chức hải
quan, cán bộ lâm nghiệp, chính phủ); các tổ chức điều tra của Viện kiểm sát; các
tổ chức điều tra của Toà án. Ngoài ra, pháp luật TTHS Việt Nam cũng quy định
một số cơ quan khác như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng
Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây không phải là các
cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng do tính chất đặc biệt trong hoạt động của các

cơ quan này là thường xuyên đấu tranh với các vi phạm trong lĩnh vực mà mình
quản lý. Do đó, để đảm bảo kịp thời ngăn chặn tội phạm thì pháp luật TTHS đã
quy định cho các cơ quan này được tiến hành một số hoạt động điều tra ở mức
độ giới hạn, mức độ “điều tra ban đầu”. Như vậy, Cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền
thay mặt Nhà nước thực hiện những hành vi tố tụng nhất định trong một phạm
vi, một giai đoạn tố tụng nhất định. Thẩm quyền đó là quyền tiến hành những
hoạt động điều tra để phát hiện và chứng minh tội phạm theo quy định của pháp
luật TTHS và giai đoạn để tiến hành các hoạt động điều tra là giai đoạn điều tra.
Trước đây, ở Việt Nam, Cơ quan điều tra trong ngành Kiểm sát được
thành lập ở cả hai cấp VKSNDTC và VKSND cấp tỉnh nhưng từ năm 2002,
Quốc hội ban hành Luật Tổ chức VKSND đã không thiết lập cơ quan điều tra ở
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Do đó, theo quy định của BLTTHS năm 2003
và BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì Cơ
quan điều tra chỉ còn được thành lập ở VKSNDTC và Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát Quân sự Trung ương (Khoản 1, khoản 2 Điều 29 Luật Tổ chức điều tra
hình sự năm 2015). Trong phạm vi của Luận văn này chỉ bàn đến tổ chức và
hoạt động của cơ quan điều tra VKSNDTC.
5

Xoom Khay Xikha Chay (2002), Hoàn thiện pháp luật TTHS trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay,
Nxb.Tư pháp, tr. 25.


9

Theo quy định tại Điều 35 BLTTHS 2015; Điều 30, Điều 31 Luật Tổ
chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, thì Cơ quan điều tra VKSNDTC có
thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư
pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương

XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ, công chức thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi
các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
Các tổ chức điều tra của Viện kiểm sát theo Điều 11, Luật Viện kiểm sát
Lào 2009 quy định “Các tổ chức điều tra của Viện kiểm sát nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào là các Văn phòng công tố công cộng ở Viện kiểm sát địa
phương và Uỷ ban công tố ở Viện kiểm sát tối cao…”
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 25, Luật Viện Kiểm sát Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào năm 2009: “Uỷ ban công tố có trách nhiệm xem xét đơn
khiếu nại tố cáo của cơ quan tổ chức nhà nước, Mặt trận yêu nước, tổ chức xã
hội, doanh nghiệp và công dân theo luật định; tiến hành đấu tranh phòng chống
tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật nhằm hạn chế và loại trừ những điều
kiện nguyên nhân phát sinh tội phạm”thì cơ quan điều tra VKSTC là Uỷ ban
công tố có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự các loại tội phạm xâm phạm
hoạt động của các cơ quan tổ chức nhà nước, doanh nghiệp và công dân Lào.
Khoản 2, Điều 25 quy định: “Văn phòng công tố công cộng có trách nhiệm xem
xét đơn khiếu nại tố cáo của cơ quan tổ chức nhà nước, Mặt trận yêu nước, tổ
chức xã hội, doanh nghiệp và công dân theo luật định; tiến hành đấu tranh
phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật nhằm hạn chế và loại
trừ những điều kiện nguyên nhân phát sinh tội phạm”
Qua đó, ta có thể thấy Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là những
hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án và Cơ quan thi hành án trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành bản án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, kinh


10


doanh thương mại. Hành vi này là những hành vi làm cho quá trình giải quyết
của các cơ quan tư pháp bị sai lệch, không đúng pháp luật, từ đó gây thiệt hại
cho lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân. Do đó, hoạt động điều tra và xử
lý đối với loại tội phạm này có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm đảm bảo cho các
hoạt động tư pháp được tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đảm bảo pháp
luật được thực hiện nghiêm minh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, giữ vững lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước vào các Cơ quan
điều tra nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm cơ quan điều tra của
VKSND: “Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống
Cơ quan điều tra, trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân, được tiến hành các hoạt
động điều tra theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá
các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội đối với các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp
mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện
kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư
pháp”.
1.2. Đặc điểm cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
Về mặt lý luận và thực tiễn thì Cơ quan điều tra VKSND có thẩm quyền
điều tra đối với một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người
thực hiện tội phạm là cán bộ, công chức ngành tư pháp như: Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán, Chấp hành viên. Đây là những chủ thể có sự am hiểu pháp
luật nên khi thực hiện hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp đều sử dụng những
thủ đoạn tinh vi, ít để lại dấu vết nên rất khó có bằng chứng để phát hiện, xử lý,
bất kể vụ án đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện hay
cấp tỉnh.
Xuất phát từ đâu mà pháp luật lại quy định cho Cơ quan điều tra
VKNDTC có thẩm quyền điều tra những loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp? Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong đó có những tội chủ thể là



11

những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tư pháp như điều tra
viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên. Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định, mọi hành vi phạm tội xâm phạm
hoạt động tư pháp giao cho cơ quan điều tra VKSNDTC điều tra mà không giao
cho cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an là để đảm bảo tính khách quan trong quá
trình điều tra. Việc pháp luật TTHS Việt Nam quy định mỗi Cơ quan điều tra
trong bộ máy Nhà nước có thẩm quyền điều tra các loại tội phạm khác nhau
xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của từng cơ quan. Điều
đó làm nên nét đặc trưng, làm nên đặc điểm riêng biệt trong thẩm quyền điều tra
của mỗi cơ quan điều tra, đồng thời khắc phục tình trạng bị chồng chéo về thẩm
quyền, bảo đảm điều tra nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, không để lọt tội phạm.
Dựa trên những lý do đó mà BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự quy định: Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội
phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng; Cơ quan điều tra VKSNDTC điều tra các tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp; Cơ quan điều tra của Bộ Công an điều tra
tất cả các loại tội phạm còn lại.
Ở Lào, VKS ngoài chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các cơ quan tư pháp còn kiểm sát chung việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan hành chính, kinh tế, xã hội do đó các cơ quan điều tra
của VKS có thẩm quyền điều tra không chỉ những tội phạm xảy ra trong hoạt
động tư pháp mà còn điều tra những tội phạm xảy ra của các cơ quan hành
chính, kinh tế, xã hội. “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan kiểm sát của Nhà
nước, có chức năng kiểm sát và tuân thủ việc thi hành pháp luật của các Bộ, cơ
quan, mặt trận yêu nước , tổ chức xã hội, cơ quan chính quyền địa phương,
doanh nghiệp, công dân để đảm bảo tính đúng đắn và thống nhất và truy tố bị
can lên toà án theo luật định” (Điều 87, Hiến pháp Lào năm 2009)
Quy định này xuất phát từ đặc thù trong lĩnh vực hoạt động của từng

ngành và tư tưởng lập pháp khác nhau của từng quốc gia mà có thể lý giải đối
với tư tưởng lập pháp của Việt Nam như sau:


12

Lực lượng Công an nhân dân là lực đông đảo có chức năng quản lý Nhà
nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; trực tiếp đấu tranh phòng,
chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội. Từ đó pháp luật quy định cho Cơ quan điều tra trong Công an nhân
dân có thẩm quyền rộng nhất, điều tra tất cả các tội phạm còn lại không thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và trong
VKSND như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phá hoại hòa bình, chống loài
người, tội phạm chiến tranh, các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội6....
Quân Đội nhân dân là lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ sự thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang chính quy,
tinh nhuệ. Do đặc thù của nhiệm vụ trên mà Cơ quan điều tra trong Quân đội
nhân dân có thẩm quyền điều tra những tội phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng mà
bị can là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sằn sàng chiến đấu,
phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các
đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; hoặc bị can không là những đổi tượng nêu
trên nhưng phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho
Quân đội7.
Riêng đối với VKSND, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tổ, kiểm sát hoạt động tư pháp Trong
phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích

của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải
được xử lý theo pháp luật.

6

Đỗ Khắc Hưởng (2005), Thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra trong Công an
nhân dân, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật Hà Nội, tr. 11.
7
Nguyễn Văn Phúc (2008), Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của Bộ đội biên phòng, Luận văn thạc
sỹ, Đại học Luật Hà Nội.


13

Với chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp nên Viện kiểm sát tham gia vào toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ
giai đoạn phát hiện tội phạm, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, điều tra vụ
án hình sự, đến khi kết thúc quá trình tố tụng (bản án có hiệu lực pháp luật) và
chấm dứt khi thi hành xong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Bên canh
đó, Viện kiểm sát các cấp có phạm vi kiểm sát rất rộng, bao gồm công tác kiểm
sát việc giải quyết các loại án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,
kinh tế và những việc khác theo quy định của pháp luật. Thông qua các công tác
này, Viện kiểm sát có thể phát hiện những thiếu sót, vi phạm cùa các cơ quan tư
pháp, cán bộ tư pháp để yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục vi
phạm; nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
thì chuyển cho Cơ quan điều tra VKSND để khởi tố, điều tra, xử lý theo quy
định của pháp luật. Chính vì vậy, Viện kiểm sát có điều kiện thuận lợi để phát
hiện các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp. Từ đó mà pháp luật quy định cho
Cơ quan điều tra VKSNDTC có thẩm quyền điều tra một số loại tội xâm phạm
hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

Từ những phân tích và từ khái niệm Cơ quan điều tra VKSND đã nêu
trên, cho phép làm rõ đặc điểm của Cơ quan điều tra VKSND như sau:
- Thứ nhất: Cơ quan điều tra VKSND là một hệ thống cơ quan điều tra
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào, độc lập về tổ chức và hoạt động với các Cơ quan điều tra trong lực lượng
Công an nhân dân và Quân đội nhân dân cũng như các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ở các cơ quan khác như Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, có thẩm quyền điều tra đối với các vụ án
xảy ra trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà không chỉ riêng các tội xâm phạm
hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIII BLHS. Vì có những trường hợp
cán bộ tư pháp có hành vi tham ô, nhận hối lộ để làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra
bản án hoặc quyết định trái pháp luật... thì tuy rằng những hành vi tham ô, nhận
hối lộ thuộc Chương các tội phạm về chức vụ, Mục A các tội phạm về tham


14

nhũng, nhưng rõ ràng gắn với hành vi phạm tội tham nhũng này là các hành vi
thuộc loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà suy đến cùng là xâm phạm trật
tự tư pháp.
- Thứ hai: thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân “hẹp” hơn so với thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong lực lượng
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
chỉ tiến hành điều tra một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp, nhưng có sự khác biệt với thẩm
quyền giữa Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân Lào là ngoài chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tư
pháp còn kiểm sát chung việc tuân theo pháp luật của các cơ quan hành chính,
kinh tế, xã hội do đó các cơ quan điều tra của VKS có thẩm quyền điều tra

không chỉ những tội phạm xảy ra trong hoạt động tư pháp mà còn điều tra
những tội phạm xảy ra của các cơ quan hành chính, kinh tế, xã hội
- Thứ ba: Những vụ án trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp phải thuộc thẩm quyền xét xử của cơ
quan điều tra của Viện kiểm sát, nếu thuộc thẩm quyền xét xừ cùa Tòa án quân
sự thì thuộc thấm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Quân sự
Trung ương.
1.3. Vai trò cùa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
Sự tồn tại của Cơ quan điều tra VKSND trong lịch sử pháp luật và đến
nay là Cơ quan điều tra VKSND đã chứng tỏ vai trò, tầm quan trọng, sự cần
thiết của Cơ quan điều tra VKSND trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra
một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. Điều này thể hiện rõ hơn ở
các mặt sau:
Thứ nhất, đảm bào cho VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo quy định của Điều 107 Hiến pháp
năm 2013 và Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì: Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát


15

thực hiện chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định bằng sáu mặt công tác,
trong đó có nhiệm vụ: “Điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp” (khoản 2, Điều 30 Luật
Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, khoản 3 Điều 163 Bộ luật TTHS Việt Nam
năm 2015); và theo quy định của Điều 87 Hiến pháp Lào năm 2010, Điều 25
Luật Viện kiểm sát Lào năm 2009, Điều 22, Điều 23 Bộ Luật TTHS Lào năm
2009 việc thực hiện thẩm quyền điều tra ở VKSND Lào và Việt Nam được giao
cho Cơ quan điều tra chuyên trách thực hiện, đó là Cơ quan điều tra VKSND.
Tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSND xuất phát từ chức năng công tố của

VKSND trong TTHS. Cơ quan điều tra cho dù tổ chức ở bộ, ngành nào thì cũng
để phục vụ chức năng công tố, giúp cơ quan thực hành quyền công tố đưa vụ án
ra Tòa xét xử và buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Công tác điều tra một số
loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra VKSND là một
trong những mặt công tác quan trọng nhằm bảo đảm cho VKSND thực hiện có
hiệu quả và làm tốt hơn chức năng thực hành quyền công tố. Mặt khác, VKSND
là cơ quan chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc bảo đảm chống làm oan sai,
chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đồng thời, trong điều kiện hiện nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, nhằm thực
hiện chủ trương của Đảng đã nêu trong Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị là: Tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra. Vì vậy, Cơ quan điều tra VKSND đóng vai trò quan trọng, cần thiết
phải củng cố và tăng cường năng lực cho Cơ quan điều tra VKSND để Viện
kiểm sát phát huy hiệu quả và thực hiện tốt hơn chức năng công tố đã được
Đảng và Nhà nước giao phó.
Bên cạnh đó, thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp, VKSND là cơ quan có ưu thế trong việc nắm bắt, phát hiện các vi phạm
và tội phạm trong lĩnh vực hoạt động tư pháp; quan trọng hơn, kết quả điều tra
cùa Cơ quan điều tra VKSND sẽ hỗ trợ cho VKSND thực hiện tốt hơn chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Như vậy, việc giao cho Cơ quan điều tra
VKSND thực hiện thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt


16

động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp là hoàn toàn cần
thiết.
Thứ hai, thực trạng nền tư pháp Việt Nam và Lào còn có những hạn chế,
tồn tại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá tại Nghị quyết 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005: “Chất lượng hoạt động tư pháp còn chưa cao vẫn còn tình trạng

bắt, giam, giữ người trái pháp luật, để xảy ra oan, sai trong điều tra, truy tố, xét
xử; một bộ phận cán bộ tư pháp xuống cấp về đạo đức ”, chính điều đó dẫn đến
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có xu hướng gia tăng và ngày càng phức
tạp. Vì vậy, việc duy trì Cơ quan điều tra VKSND với tư cách là Cơ quan điều
tra chuyên trách, có kỉnh nghiệm và đang hoạt động tích cực để phát hiện, điều
tra xử lý và phòng ngừa có hiệu quả đối với tội phạm này là hoàn toàn phù hợp.
Hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSND góp phần tăng cường sự kiểm
soát quyền lực tư pháp của các cơ quan tư pháp, góp phân bảo đảm sự trong
sạch, vững mạnh của các cơ quan tư pháp.
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 và Kết luận 79/KL-TW ngày
28/7/2010 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng
xác định: “Trước mắt tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức Cơ quan điều tra theo
pháp luật hiện hành, nghiên cứu và chuẩn bị mọi điểu kiện đế tiến tới tổ chức lại
các Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”. Quá trình triển khai thực
hiện chủ trương thu gọn đầu mối Cơ quan điều tra theo yêu cầu của cải cách tư
pháp, có quan điểm cho rằng: không tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSND. Bởi
vì:
Về lý luận, việc tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSND thành một hệ thống
thì không thể: “Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát với hoạt động của Cơ quan điều
tra’ [20] và như vậy khó có thể phát huy được hiệu quả trong hoạt động điều tra.
Hơn nữa, theo Hiến pháp năm 2013 thì chức năng cơ bản của VKSND là kiểm
tra, giám sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố (Hiến pháp
Lào năm 2010 còn trao thêm quyền kiểm sát chung cho Viện kiểm sát Lào). Vì
vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát tập trung để thực hiện tốt hai
chức năng cơ bản này.


17

Việc tổ chức Cơ quan điều tra ở VKSND đã phá vỡ quan hệ tố tụng và

không đảm bảo tính khách quan trong hoạt động kiểm sát các hoạt động điều
tra. Sẽ là không hợp lý nếu Cơ quan điều tra và cơ quan kiểm sát hoạt động điều
tra là ngang quyền nhau dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND;
cũng sẽ không hợp lý nếu cho rằng ĐTV của Cơ quan điều tra (thuộc Công an,
Quân đội) vi phạm pháp luật còn ĐTV của Cơ quan điều tra VKSND không bao
giờ vi phạm trong quá trình điều tra. Nếu vi phạm thì cơ quan nào sẽ phát hiện
và cơ quan nào sẽ tiến hành điều tra và nếu để Cơ quan điều tra VKSND điều
tra thì việc kiểm sát điều tra liệu có khách quan không khi mục đích xây dựng
Cơ quan điều tra VKSND để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động tố tụng.
Về thực tiễn, khi xây dựng Cơ quan điều tra VKSND chúng ta quá kỳ
vọng là Cơ quan điều tra này sẽ đem lại những kết quả khách quan trong hoạt
động điều tra. Tuy nhiên qua nhiều năm thực hiện, kết quả lại rất khiêm tốn,
tình hình tội phạm những năm gần đây có xu hướng gia tăng, trong đó có những
tội thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND nhưng kết quả hoạt
động điều tra của cơ quan này lại chưa có biến chuyển rõ rệt. Điều đỏ là không
tương xứng với quy mô tổ chức, làm lãng phí một đội ngũ cán bộ hùng hậu, cả
về chất xám cũng như tiền bạc của nhân dân, lại vừa gây khó khăn trong việc
kiểm tra, giám sát cũng như việc phân định thẩm quyền điều tra8.
Tuy nhiên, khi đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn
thực hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND cho thấy việc duy
trì Cơ quan điều tra VKSND là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Nếu VKSND chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện và yêu cầu
xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thì chưa đi sâu, làm sáng tỏ
những tội phạm do cán bộ tư pháp thực hiện. Mặt khác, nếu để Cơ quan điều tra
của Cảnh sát điều tra những loại tội phạm này thì không khách quan, vì Cảnh
sát nằm trong cơ quan hành pháp. Nghị quyết 54-NQ/TW ngày 07/6/2011 của
Bộ chính trị nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào về chiến lược cải cách tư

8


Lê Tiến Châu (2002), Một số vấn đề về Cơ quan điều tra, Tạp chí Khoa học pháp lý tháng 5/2002, Hà
Nội, tr.13.


18

pháp đến năm 2020 là: “tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
điều tra” “Viện kiểm sát phân công các tổ chức điều tra ở địa phương và trung
ương phối hợp với các tổ chức điều tra của các ngành khác do pháp luật quy
định”. Do vậy, giao thẩm quyền điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư
pháp cho Cơ quan điều tra của VKSNDTC Việt Nam và VKSND Lào là một tất
yếu. Không có Cơ quan điều tra của ngành Kiểm sát nhân dân thì những vi
phạm pháp luật của một số cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không được
phát hiện, điều tra, xử lý hoặc để lọt tội phạm, nhiều việc làm oan người vô tội
không được giải quyết, minh oan dẫn đến mất lòng tin của nhân dân vào Đảng
và Nhà nước, vào các cơ quan bảo vệ pháp luật. Rõ ràng cần thiết phải có nhận
thức đúng về thẩm quyền điều tra của các Cơ quan điều tra, trong đó pháp luật
TTHS xác định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND là nhằm “hỗ
trợ” cho VKSND thực hiện chức năng kiểm sát và duy trì quyền công tố. Hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC là hoạt động tố tụng độc lập để
phục vụ cho chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố,
vẫn phải chịu sự kiếm sát điều tra: “Trong quá trình điều tra, hoạt động điểu tra
của Cơ quan điểu tra chịu sự kiếm sát điều tra của Cơ quan thực hành quyển
công tố và kiểm sát điều tra (Vụ thực hành quyền công tổ và kiểm sát điều tra án
hình sự về trật tự xã hội Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dãn tối cao)” (Điều 5 Quy
chế về tổ chức và hoạt động của Cục Điều tra VKSNDTC Lào năm 2010).
Bên cạnh đó, việc thiết lập cơ cấu chính trị xã hội của bộ máy Nhà nước,
không đơn giản là cơ quan đó có nhiều việc hay ít việc, không thể so sánh hiệu
quả bằng tiền như tổ chức kinh doanh. Không thể cho rằng vì tiết kiệm ngân
sách nên phải giảm bớt cơ quan này. Mà phải xuất phát từ mục đích nếu có tội

phạm xảy ra thì cơ quan này phải làm những gì để đấu tranh có hiệu quả với tội
phạm đó [30]. Do đó, xuất phát từ yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng
chống tội phạm trong lĩnh vực tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan
tư pháp, xuất phát từ vị trí Hiến định trong bộ máy Nhà nước thì chỉ có Cơ quan
điều tra của ngành Kiểm sát tiến hành điều tra các loại tội phạm trên mới có
hiệu quả.


19

Xuất phát từ vai trò quan trọng của Cơ quan điều tra VKSND trong việc
thực hiện thẩm quyền điều tra, tác giả cho rằng cần tiếp tục duy trì hệ thống Cơ
quan điều tra trong ngành Kiểm sát nhân dân như hiện nay và cần thiết làm rõ
hơn thẩm quyền điều tra, đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực của
Cơ quan điều tra VKSND nhằm phát huy hiệu quả, chất lượng công tác điều tra,
đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
hiện nay
1.4. Khái quát quy định của pháp luật về cơ quan điều tra của Cộng
hoà DCND Lào và của Cộng hoà XHCN Việt Nam
Việt Nam và Lào đều là hai quốc gia đang phát triển nhưng mỗi quốc gia
có một nét đặc thù riêng về mặt lịch sử, kinh tế – xã hội. Chính vì vậy mà sự
phát triển pháp luật nói chung, pháp luật về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự
của cơ quan điều tra viện kiểm sát nói riêng cũng có những điểm riêng biệt.
Thông qua việc nghiên cứu tiến trình phát triển pháp luật TTHS Lào và Việt
Nam, ta có thể sơ lược như sau:
1.4.1. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật về cơ quan điều
tra của CHDCND Lào
Sau những cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập dân tộc, giải phóng
đất nước. Lào bắt tay vào xây dựng kinh tế- xã hội trong đó chú trọng xây dựng
pháp luật. Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp,

năm 1977 Hội đồng bộ trưởng Lào đã ban hành Nghị định số 115/1977/NĐHĐBT quy định về điều tra các vụ án hình sự. Tiếp đến, năm 1989 BLTTHS
1989 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 1989 của Lào được ban hành trong
đó có quy định về Cơ quan điều tra VKSND. Mặc dù còn chưa hoàn chỉnh, có
những quy định còn chưa cụ thể và chưa thật sự hợp lý làm ảnh hưởng đến hiệu
quả công tác điều tra, ảnh hưởng đến mục đích của pháp luật TTHS là xử lý kịp
thời, nhanh chóng tất cả các vụ án hình sự nhưng đây là văn bản pháp luật đầu
tiên điều chỉnh hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát.


×