Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.41 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------

NGUYỄN KHÁNH LY

“VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM”

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------

NGUYỄN KHÁNH LY

“VẤN ĐỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM”


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH : LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ

: 60380108

;

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HỒNG BẮC

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hồng Bắc. Các nội dung nghiên cứu,
kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức
nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi
rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong Luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú
thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung Luận văn của mình.

Xác nhận của Giảng viên hướng dẫn

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016

Học viên

Nguyễn Khánh Ly


LỜI CẢM ƠN

Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các
thầy cô của trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô khoa Pháp
luật Quốc tế của trường đã tạo điều kiện cho được thực hiện và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp. Và em cũng xin chân thành cám ơn cô giáo, TS. GVC
Nguyễn Hồng Bắc đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt thời gian
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, khó tránh khỏi sai
sót, rất mong các thầy, cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như
kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp thầy, cô để em có thể trau
dồi thêm được nhiều kinh nghiệm và kiến thức cho bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2016
Học viên

Nguyễn Khánh Ly


MỤC LỤC
***

Trang

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài………………………………1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………………2

3.

Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn…………………………3

4.

Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn………………………………….....4

5.

Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn…………………………………4

6.

Phương pháp nghiên cứu của Luận văn………………………………..5

7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn…………………………..5

8.


Bố cục của Luận văn....………………………………………………...5

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM…6
1.1.

Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài………………………..8

1.2.

Ý nghĩa của việc quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…..11

1.3.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về nuôi

con nuôi có yếu tố nước ngoài……………………………………………….13

CHƯƠNG II
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
2.1.

Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có

yếu tố nước ngoài............................................................................................20
2.1.1. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……..20
2.1.2. Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……28



2.1.3. Các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…………….…...32
2.1.4. Điều kiện nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài………………….35
2.1.4.1.

Điều kiện đối với người nhận con nuôi………………………..35

2.1.4.2.

Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi là trẻ em Việt

Nam.................................................................................................................39
2.1.5. Hệ quả của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………...…42
2.1.6. Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài..48
2.2.

Thực tiễn giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…...60

2.2.1. Những thành tựu đã đạt được…………………………………………60
2.2.2. Những bất cập, khó khăn trong giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài…………………………………………………………………............64

CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
3.1.

Thực trạng pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài................................................................................................................71

3.1.1. Ưu điểm……………………………………………………………….71
3.1.2. Hạn chế………………………………………………………………..74
3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết quan hệ nuôi con

nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay……………76
KẾT LUẬN……………………………….…………………………………86
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1

Luật NCN năm 2010

Luật Nuôi con nuôi năm 2010

2

NCN

Nuôi con nuôi

3

SAI


Service de l'Adoption internationale


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được
pháp luật các nước điều chỉnh. Ở nước ta, trong điều kiện kinh tế - xã hội có
nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt cần một mái ấm gia đình, thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên
cấp thiết trong đời sống xã hội. Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ
em, việc nuôi con nuôi còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ
chồng nhận con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm con. Trong
những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta đã góp phần quan trọng
trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục trong môi trường gia đình; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo,
nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương
thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân.
Trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày nay, cùng với sự mở
rộng của các quan hệ dân sự thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
cũng rất phát triển. Thực tế trong những năm gần đây cho thấy, số lượng
người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi không ngừng gia
tăng, đặt ra các vấn đề pháp lý cần giải quyết.
Ngày 17/06/2010, Quốc hội đã ban hành Luật Nuôi con nuôi nhằm điều
chỉnh thống nhất việc nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài trong một đạo luật. Bên cạnh đó, việc thông qua Luật nuôi con
nuôi còn thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia
Công ước quốc tế về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em;

bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi
ích tốt nhất của trẻ em, hài hòa với tinh thần Công ước Lahay số 33 ngày
29/05/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế
mà Việt Nam đã ký và phê chuẩn.
Quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, bên cạnh những thành công đã đạt được còn cho thấy một số
tồn tại, bất cập cần tháo gỡ nhằm đảm bảo cơ chế nuôi con nuôi quốc tế chặt
chẽ và minh bạch hơn. Nhận thấy tầm quan trọng của quan hệ nuôi con nuôi


2

có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay, đồng thời muốn tìm hiểu sâu
hơn về quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, em xin chọn đề tài
luận văn Thạc sĩ của mình là:
“Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam”
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói
riêng không phải là vấn đề mới lạ, đã có một số công trình nghiên cứu chuyên
sâu và có hệ thống về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như các sách
chuyên khảo, tuyển tập, luận án, luận văn... Cụ thể:
Về sách chuyên khảo, tuyển tập:
- Bộ Tư pháp, Cục con nuôi quốc tế (2006), Pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Công Khanh (2004), Một trăm câu hỏi về pháp luật nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
Về luận án, luận văn:
- Nguyễn Hồng Bắc (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có

yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ, Người
hướng dẫn: TS. Hoàng Phước Hiệp, PGS.TS Hà Thị Mai Hiên, Hà Nội.
- Đào Thị Thu Hường (2004), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài hướng tới gia nhập Công ước La hay 1993,
Luận văn Thạc sĩ, Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long, Hà Nội.
- Phạm Thùy Dương (2006), Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ,
Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long, Hà Nội.
Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên đều dựa trên Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 và Bộ luật Dân sự năm 2005 nên về cơ sở pháp lý cũng
như thực tiễn có một số điểm không phù hợp với Luật Nuôi con nuôi năm
2010 và Bộ luật Dân sự năm 2015.
Sau khi Luật Nuôi con nuôi năm 2010 được ban hành có một công trình
nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011. Trong đó,
cuốn kỷ yếu: “Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi


3

năm 2010” bao gồm các bài viết của các tác giả phân tích nhiều nội dung
xoay quanh vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Ngoài ra còn có các Khóa luận tốt nghiệp, các bài nghiên cứu đăng trên
các tạp chí chuyên ngành Luật như:
- Nguyễn Phương Lan (2012), Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài theo Luật Nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học, số 5/2012, tr 48
– 55.
- Lê Thị Bích Thủy (2012), Về nguyên tắc “chỉ cho làm con nuôi người
ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước” theo
quy định của Luật Nuôi con nuôi, Tạp chí Luật học, số 10/2012, tr 46 – 53.
Các đề tài trên đã phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm về vấn đề nuôi

con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời chỉ ra những điểm mới của Luật
Nuôi con nuôi năm 2010 so với các quy định trước đây về vấn đề này... Tuy
nhiên, còn nhiều khía cạnh quan trọng của pháp luật Việt Nam về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài chưa được nghiên cứu sâu sắc. Đặc biệt là chưa có
sự so sánh giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới để
rút ra những vấn đề cần học hỏi và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài.
Trên cơ sở những nghiên cứu của các đề tài trên, Luận văn sẽ tiếp tục
làm rõ nội dung các quy định của pháp luật về vấn đề này, so sánh trong mối
tương quan với pháp luật một số nước. Điều này sẽ giúp chúng ta có cách tiếp
cận và hiểu các điều ước quốc tế trên khía cạnh tổng quan và trong sự hội
nhập, phát triển của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài.
3.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn hướng tới làm rõ những quy định của
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về
vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, cụ thể là: các nguyên tắc giải
quyết, thẩm quyền giải quyết, các trường hợp nuôi con nuôi, điều kiện nhận
nuôi, hệ quả, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bên
cạnh đó, Luận văn có sự so sánh với pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước


4

ngoài của một số nước trên thế giới như: Trung Quốc, Pháp cùng các tiêu chí
so sánh cụ thể.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một Luận văn, tác giả chỉ tập
trung nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam ở Việt Nam và ở nước ngoài (trường hợp
đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài) từ
thời điểm Luật Nuôi con nuôi được ban hành năm 2010 đến nay.
4.
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
Luận văn hướng tới phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt
Nam. Đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi để làm rõ
những kết quả đã đạt được, cũng như những điểm bất cập, những vướng mắc
còn tồn tại, cần được giải quyết nhằm đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát triển.
5.
Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài song vì nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam tương đối rộng nên còn nhiều vấn đề chưa
được nghiên cứu sâu. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn đó là:
- Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nào cần
được làm rõ hơn trong Luận văn này và đánh giá quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề này?.
- Bên cạnh việc phân tích từng nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam
về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Luận văn kết hợp so sánh, đối chiếu
như thế nào với pháp luật của một số nước trên thế giới như: Trung Quốc – là
nước có số lượng trẻ em làm con nuôi người nước ngoài nhiều nhất thế giới,
đồng thời pháp luật có sự tương đồng nhiều mặt với Việt Nam. Pháp – là
nước nhận nhiều con nuôi là người Việt Nam nhất trong giai đoạn từ năm
2011 đến năm 2015?. Từ đó, Luận văn rút ra được những điểm tiến bộ và hạn
chế gì của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và đưa



5

ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trong thời gian tới ở Việt Nam như thế nào?.
- Luận văn sử dụng những số liệu thực tế gần nhất về công tác nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài từ các Báo cáo tổng kết của Bộ Tư pháp cho đến
thời điểm tháng 06/2016, thông qua việc xử lý số liệu Luận văn có những
đánh giá gì về thực trạng tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam?. Từ việc phát hiện những bất cập của quy định pháp luật so với thực tế
áp dụng thì có hướng sửa đổi như thế nào?.
6.
Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ
sở đó đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp cụ thể là phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, bình luận kết hợp với các phương pháp khác như
thống kê, điều tra xã hội học…
7.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn là những bổ sung vào lí luận
về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; những đề xuất, kiến nghị trong
Luận văn có thể đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và đổi mới pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên
chuyên ngành luật, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
8.
Bố cục của Luận văn

Luận văn bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung của Luận văn được bố cục thành ba chương:
Chương I: Khái quát chung về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương II: Những nội dung cơ bản và thực tiễn pháp luật Việt Nam về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.


6

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài trên thế giới được chia thành hai
nhóm chủ yếu:
- Nhóm thứ nhất: bao gồm các nước đang phát triển hoặc kém phát triển
có dân số đông... thường là các nước cho trẻ em làm con nuôi người nước
ngoài, như: Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam.
- Nhóm thứ hai: bao gồm các nước phát triển, có nền kinh tế và xã hội ở
trình độ cao... thường là các nước nhận trẻ em nước ngoài về làm con nuôi,
như: Mỹ, Pháp, Úc, Anh.
Với mỗi nhóm trên, pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài sẽ quy định
những đặc tính riêng phù hợp với các quan hệ phát sinh NCN có yếu tố nước
ngoài. Với các nước chủ yếu cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thì
các quy định của pháp luật sẽ đề cập nhiều đến các chế định về trẻ em cũng
như NCN có yếu tố nước ngoài một cách cụ thể. Đối với các nước chủ yếu có
công dân nhận trẻ em của nước ngoài làm con nuôi thì pháp luật sẽ quy định
cụ thể hơn đối với công dân của nước mình trong việc nhận con nuôi người

nước ngoài.
Về nội dung các chế định NCN nói chung và NCN có yếu tố nước ngoài
nói riêng của các nước cũng rất khác nhau, có nước quy định trong Bộ luật
dân sự, có nước xây dựng một luật riêng, có nước chỉ quy định như những
nguyên tắc. Tuy nhiên, mục đích cao cả của các chế định NCN đều hướng tới
bảo vệ lợi ích của trẻ em, tạo cho trẻ em mái ấm gia đình thay thế tốt nhất,
giúp các em phát triển cả về tinh thần và thể chất.
Ở Việt Nam, sau khi Luật NCN năm 2010 được ban hành cho đến nay,
đã có hàng loạt các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành vấn đề NCN nói
chung và vấn đề NCN có yếu tố nước ngoài nói riêng. Cụ thể là:
- Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ban hành ngày 21/03/2011 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật NCN.
- Thông tư liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP ban hành ngày
07/09/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí


7

hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực NCN từ nguồn thu lệ phí
đăng ký NCN, lệ phí cấp, gia hạn, sửa đổi giấy phép của tổ chức con nuôi
nước ngoài, chi phí giải quyết NCN nước ngoài.
- Thông tư số 15/2014/TT-BTP ban hành ngày 20/05/2014 hướng dẫn
tìm gia đình thay thế ở nước ngoài cho trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh
hiểm nghèo, trẻ em từ 5 tuổi trở lên, hai trẻ em trở lên là anh chị em ruột cần
tìm gia đình thay thế.
- Thông tư số 24/2014/TT-BTP ban hành ngày 29/12/2014 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư số 12/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp về việc
ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu mẫu NCN.
- Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-BTP-BNG-BCA-BLĐTBXH ban
hành ngày 22/02/2016 hướng dẫn theo dõi tình hình phát triển của trẻ em Việt

Nam được cho làm con nuôi nước ngoài và bảo hộ trẻ em trong trường hợp
cần thiết.
- Quyết định số 3139/QĐ-BTP ngày 20/11/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
Con nuôi.
Như vậy, về cơ bản, hệ thống pháp luật Việt Nam về NCN có yếu tố
nước ngoài đã khá hoàn chỉnh, tiến bộ, phù hợp với tinh thần Công ước Lahay
năm 1993.
Trong Luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến pháp luật về NCN có yếu tố
nước ngoài của hai nước tiêu biểu trong mỗi nhóm kể trên, đó là: pháp luật
Trung Quốc bởi đây là quốc gia cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài
nhiều nhất thế giới nên có sự gần gũi và tương đồng với pháp luật về NCN có
yếu tố nước ngoài của Việt Nam, pháp luật Pháp bởi đây là quốc gia trong
những năm gần đây nhận nhiều con nuôi là người Việt Nam nhất (xem Phụ
lục 1, 2 của Luận văn).
Tại Trung Quốc, Luật con nuôi của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 29/12/1991 có hiệu lực từ
ngày 01/04/1992. Sau này, Luật con nuôi tiếp tục được sửa đổi tại cuộc họp
Uỷ ban thường vụ lần thứ 5 và Quốc hội lần thứ 9 ngày 4/11/1998 và có hiệu
lực kể từ ngày 01/4/1999. Luật gồm 34 điều, quy định chi tiết về nguyên tắc,


8

thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi. Tiếp đó, để thực thi
Luật NCN, ngày 12/05/1999, Vụ Dân chính đã ban hành quy định đăng ký
việc nuôi con nuôi của người nước ngoài tại Trung Quốc. Quy định này
hướng dẫn chi tiết về trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
Tại Pháp, có một hệ thống hoàn chỉnh các văn bản để giải quyết vấn đề

NCN có yếu tố nước ngoài, cụ thể:
- Bộ luật dân sự;
- Bộ luật về Hoạt động xã hội và Gia đình;
- Luật số 2005-744 ngày 04/07/2005 về cải cách lĩnh vực NCN;
- Nghị định số 2006-981 ngày 01/08/2006 về việc chấp thuận cho nhận
trẻ được nhà nước giám hộ hay trẻ em nước ngoài làm con nuôi và sửa đổi bộ
luật hoạt động xã hội và gia đình;
- Nghị định số 2006-1272 ngày 17/10/2006 về biểu mẫu quyết định và
phiếu chấp thuận cho phép nhận trẻ được nhà nước giám hộ và trẻ em nước
ngoài làm con nuôi;
- Các điều từ R225-12 đến R225-46 Bộ luật Hoạt động xã hội và Gia
đình về các tổ chức được phép hoạt động trong lĩnh vực NCN (OAA);
- Nghị định số 2009-291 và thông tư ngày 16/03/2009 về cơ cấu tổ chức
cơ quan hành chính trung ương Bộ Ngoại giao và Châu Âu;
- Nghị định số 2009-407 ngày 14/04/2009 về Cơ quan trung ương NCN
quốc tế1.
Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về vấn đề NCN có yếu tố
nước ngoài tại Pháp là Bộ luật dân sự. Cụ thể, tại phần VIII quy định riêng về
nuôi con nuôi, Bộ luật bao gồm Chương I giải quyết vấn đề nuôi con nuôi đầy
đủ hay còn gọi là nuôi con nuôi trọn vẹn (từ Điều 343 đến Điều 359), Chương
II giải quyết về nuôi con nuôi đơn giản (từ Điều 360 đến Điều 370)2.
1.1.
Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Theo quan điểm chung, nuôi con nuôi được hiểu là việc trẻ em đi làm
con nuôi ở gia đình khác trong cùng một nước hay ở ngoài nước, nhằm mục
1

Xem: truy cập ngày 20/06/2016.
Xem: truy cập ngày
07/07/2016.

2


9

đích xác lập mối quan hệ cha mẹ và con, giữa người nuôi và con nuôi với mục
đích đảm bảo cho người được nhận nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
là một loại hình nuôi con nuôi mà trẻ em không còn ở nước gốc mà ra nước
ngoài làm con nuôi với cha mẹ nuôi cùng hoặc khác quốc tịch. Trẻ em Việt
Nam được công dân nước ngoài nhận làm con nuôi thì được coi là con nuôi
quốc tế hoặc con nuôi nước ngoài.
Nuôi con nuôi là hiện tượng đã xuất hiện từ rất lâu đời trên thế giới.
Trong Bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất đã
chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi, đặc biệt với đối tượng trẻ em bị
bỏ rơi. Mục 106 của Bộ luật này đã quy định: Trước khi đàn ông có thể nuôi
một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tìm cha mẹ đẻ của nó, nếu tìm thấy thì phải
trả đứa trẻ cho họ. Như vậy, có thể thấy giải pháp tốt nhất mà xã hội giành
cho trẻ em ( Từ cổ xưa đến hiện đại) vẫn là “ưu tiên trước hết đối với trẻ là
được chăm sóc bởi chính cha mẹ đẻ , được sống trong môi trường gia đình
ruột thịt của mình” (Điều 3 Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc). Trong hệ thống
pháp luật La Mã cổ đại thì vì mục đích của nhận con nuôi con nuôi chủ yếu để
duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên và thừa kế tài sản. Thời kỳ cách mạng tư sản
việc nuôi con nuôi đã có ý nghĩa về mặt xã hội. Gia đình nào càng đông con
thì càng hạnh phúc. Vấn đề con nuôi cũng được đề cập đến trong Bộ luật dân
sự Napoleon 1804 – Bộ luật ra đời đánh dấu nền lập pháp hiện đại. Theo quan
điểm của bộ luật này – điều trái ngược với mong muốn của Napoleon – thì
việc nuôi con nuôi bị hạn chế. Nó đã xóa bỏ đối tượng con nuôi là trẻ vị thành
niên, chỉ cho phép con nuôi là người đã trưởng thành và đã được chăm sóc
trong gia đình cha mẹ nuôi 6 năm. Người nuôi phải từ 50 tuổi trở lên và

không có con nối dõi. Như vậy, giải pháp nuôi con nuôi chỉ được thực hiện
trong trường hợp cha mẹ nuôi không có người thừa kế. Con nuôi được giữ
nguyên tất cả các quyền của chúng trong gia đình gốc, chỉ được quyền thừa kế
tài sản và mang tên của người nuôi. Có thể nói vấn đề nuôi con nuôi đã xuất
hiện từ rất lâu đời trên thế giới, nhưng vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối
quan tâm của công đồng thế giới trong vòng hơn nửa thế kỷ qua, kể từ chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ


10

và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo
đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Về “yếu tố nước ngoài” trong khoa học tư pháp quốc tế cũng đã có sự
thừa nhận chung là có ba loại yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ có ít nhất một trong các bên tham gia
là người nước ngoài. Người nước ngoài ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: có
thể là cá nhân nước ngoài hoặc pháp nhân nước ngoài hoặc quốc gia nước
ngoài. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người nước ngoài là người
không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và
người không quốc tịch.
Thứ hai, đối tượng của quan hệ là tài sản ở nước ngoài. Trong trường
hợp này, các bên chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự cùng quốc tịch nhưng
tài sản liên quan đến quan hệ đó nằm ở nước ngoài.
Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó
xảy ra ở nước ngoài. Trong trường hợp này, các bên chủ thể tham gia vào
quan hệ dân sự cùng quốc tịch nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó xảy ra ở nước ngoài3.
Quan hệ NCN không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của người

nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi mà hơn hết nó tác động trực tiếp
đến sự sống, phát triển của một đứa trẻ, do đó, yếu tố nước ngoài trong quan
hệ này được pháp luật Việt Nam quy định hẹp hơn so với quy định chung kể
trên nhằm điều chỉnh một cách cụ thể, chặt chẽ hơn mối quan hệ này. Theo
quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 (Luật NCN năm
2010) thì quan hệ NCN được cho là có yếu tố nước ngoài khi có một trong
những yếu tố sau:
- Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Theo
giải thích tại khoản 1 Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 thì: “Người nước ngoài là người
mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập
3

Xem: Nguyễn Hồng Bắc (2014), Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr
35.


11

cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”. Khoản 1 Điều 3 Luật Quốc
tịch Việt Nam năm 2008 giải thích rằng: “ Quốc tịch nước ngoài là quốc tịch
của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”. Hiểu một cách đơn
giản thì người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, trong
trường hợp này là quan hệ NCN giữa người nước ngoài không thường trú tại
Việt Nam với trẻ em mang quốc tịch Việt Nam.
- Quan hệ NCN giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam.
- Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở
nước ngoài. Theo giải thích tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm
2008 thì: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Trong trường

hợp này là việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc
tịch và đang sinh sống tại Việt Nam làm con nuôi.
Như vậy, các quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài có liên quan đến pháp
luật của nhiều nước, trong đó ít nhất có pháp luật của cha mẹ nuôi (Luật Quốc
tịch hoặc luật nơi thường trú của người nhận nuôi) và pháp luật của con nuôi
(Luật nơi thường trú hoặc Luật Quốc tịch của con nuôi). Thực tiễn cho thấy,
không tránh khỏi những trường hợp pháp luật của các nước có liên quan quy
định khác nhau về vấn đề NCN (như vấn đề điều kiện NCN, thủ tục thực hiện
việc NCN, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi), từ đó đặt ra yêu
cầu lựa chọn pháp luật của một trong các nước có liên quan điều chỉnh việc
NCN.
1.2.
ngoàiu6


Ý nghĩa của việc quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước

Ý nghĩa đối với người nhận con nuôi
Con trẻ là nguồn vui, là động lực trong cuộc sống của bất kỳ cha mẹ nào.
Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà cặp vợ chồng không thể có con, xuất phát
từ tấm lòng nhân đạo hoặc không có ý định xây dựng gia đình thì nhận con
nuôi chính là giải pháp tốt nhất. Pháp luật Việt Nam quy định về nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho người nước
ngoài thực hiện mong ước lớn lao đó là có một đứa con. Kể từ ngày giao nhận
con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của


12

cha mẹ và con. Cha mẹ nuôi từ đây sẽ cùng sống dưới một mái nhà với con

nuôi, sẽ chăm sóc, giáo dục con nuôi như chính con đẻ của mình, điều này có
ý nghĩa vô cùng to lớn với cha mẹ nuôi.


Ý nghĩa đối với người được nhận làm con nuôi
NCN có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người
được nhận làm con nuôi. Mỗi đứa trẻ khi sinh ra đều có quyền được hưởng sự
yêu thương, chăm sóc của bố mẹ, gia đình, nhưng không phải đứa trẻ nào
cũng may mắn như vậy. Trên thực tế, rất nhiều trẻ em khi sinh ra đã bị cha mẹ
bỏ rơi hoặc hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ không có điều kiện để chăm
sóc cho các em, các em phải lang thang kiếm sống và cuối cùng được đưa vào
các cơ sở bảo trợ xã hội. Dù hiện nay, được sự quan tâm của các nhà hảo tâm
trong và ngoài nước, điều kiện sống ở các cơ sở này đã cải thiện rõ rệt song
các em ở đây vẫn chịu nhiều thiệt thòi so với các bạn cùng trang lứa. Bởi ở
các cơ sở này, số lượng trẻ em ngày một gia tăng mà số lượng nhân viên
chăm sóc lại hạn chế cùng với đó là gánh nặng về chi phí sinh hoạt do đó
không thể quan tâm một cách tốt nhất đến các em. Không phải gia đình Việt
Nam nào cũng có điều kiện nhận nuôi các em, nhất là những bé có bệnh cần
được chữa trị và cả những bé nhiễm HIV, khi đó thì việc gia đình nước ngoài
có lòng hảo tâm, tiềm lực kinh tế và mong muốn nuôi các em là một trong
những giải pháp tốt nhất cho các em.


Ý nghĩa đối với cơ quan có thẩm quyền
Việc trẻ em được nhận làm con nuôi làm giảm gánh nặng về tài chính,
kinh tế, xã hội cho Nhà nước ta trong việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn.
Pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài đã tạo dựng những căn cứ, biện
pháp để cơ quan chức năng dễ dàng thực hiện việc điều tra, giám sát, giải
quyết những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ

này. Đồng thời việc quy định NCN có yếu tố nước ngoài cũng sẽ tạo hành
lang pháp lý thuận lợi cho Việt Nam với các nước khi tham gia ký kết các
Hiệp định Hợp tác NCN quốc tế, từ đó nâng cao mối quan hệ bang giao
không chỉ trong lĩnh vực này mà trên các lĩnh vực khác.


13

Chính vì vậy, pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài có vai trò, ý nghĩa
vô cùng quan trọng với trẻ em được nhận làm con nuôi và cả cha mẹ nuôi của
các em. Nó là cơ sở pháp lý đem lại cho trẻ em mái ấm gia đình cũng như bảo
vệ quyền lợi của cha mẹ nuôi người nước ngoài, đồng thời, nó hạn chế phần
nào những sai phạm, hành vi trái pháp luật có thể xảy ra trong quá trình nhận
NCN có yếu tố nước ngoài mà cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết.
1.3.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy

định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
1.3.1. Thời kỳ trước năm 2000
Bước vào thời kỳ đổi mới, với chính sách ngoại giao rộng mở, phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần, quan hệ giữa Việt Nam và các nước ngày càng
phát triển, cùng với đó các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có xu hướng
ngày càng mở rộng đã đặt ra yêu cầu cần có một văn bản quy định cụ thể hơn
về vấn đề này. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 là văn bản đầu tiên quy
định về vấn đề NCN trong một chương riêng (Chương VI), nhưng vấn đề
NCN có yếu tố nước ngoài chỉ được quy định chung chung ở Điều 53.
Ngày 29/04/1992, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 145HĐBT ban hành quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con
nuôi là trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng
do Ngành Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý - Đây là văn bản đầu

tiên đánh dấu bước phát triển của pháp luật Việt Nam về NCN có yếu tố nước
ngoài. Sau đó, liên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội – Tư pháp – Ngoại
giao – Nội vụ đã ban hành Thông tư số 01/TTLB ngày 19/01/1993 hướng dẫn
thi hành Quyết định số 145-HĐBT.
Ngày 02/12/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh
Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ngày
30/11/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 184/CP quy định về thủ tục kết
hôn, nhận con ngoài giá thú, NCN, nhận con đỡ đầu giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài. Ngày 25/05/1995, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ban hành
Thông tư số 503-LB/TT hướng dẫn thi hành Nghị định số 184/CP của Chính
phủ. Như vậy, các văn bản trên đã tạo nên cơ sở pháp lý thống nhất mang lại


14

chuyển biến tích cực trong việc giải quyết quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài
thời điểm này.
Pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn từ 1990 – 2000
nổi lên một số điểm như sau:
Thứ nhất, trên thế giới, Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế được thông qua ngày 29/05/1993. Đại diện
Việt Nam cũng tham gia phiên họp thông qua Công ước này nhưng do điều
kiện của Việt Nam khi đó chưa có sự chuẩn bị sẵn sàng cho việc tham gia
Công ước nên quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài của Việt Nam được tiến
hành theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài của Việt Nam trong
giai đoạn này có nhiều điểm khác so với nhiều nước và thông lệ quốc tế:
Một là, Việt Nam chưa cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài vào hoạt
động cho nên người nước ngoài phải trực tiếp vào Việt Nam đi tìm trẻ em phù
hợp để xin làm con nuôi.

Hai là, pháp luật không quy định về các vấn đề tài chính (như lệ phí, chi
phí, hỗ trợ nhân đạo...), cho nên “thông lệ” đặt ra là sau khi nhận con nuôi,
cha mẹ nuôi nước ngoài thường ủng hộ cho cơ sở nuôi dưỡng trẻ em một
khoản tiền dưới hình thức “cảm ơn, ghi sổ vàng”. Đây là hình thức phổ biến
trong giai đoạn này.
Ba là, do pháp luật quy định không rõ ràng và do hạn chế trong công tác
quản lý, nên giai đoạn này có nhiều công dân Việt Nam, nhiều tổ chức luật sư
tham gia vào việc môi giới, tìm kiếm trẻ em cho người nước ngoài nhận làm
con nuôi, làm ảnh hưởng đến chính sách nhân đạo nói chung trong việc cho
trẻ em làm con nuôi, thậm chí một số vụ án hình sự về mua bán trẻ em làm
con nuôi người nước ngoài đã xảy ra4.
1.3.2. Thời kỳ từ năm 2000 đến năm 2010
Trước tình hình đất nước phát triển mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế, xã hội
giữa Việt Nam với nước ngoài ngày càng nâng cao, nhu cầu cho, nhận con
4
Xem: Nguyễn Công Khanh (2011), Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về NCN có yếu tố
nước ngoài, Kỷ yếu hội thảo khoa học Trường Đại học Luật Hà Nội về NCN có yếu tố nước ngoài theo Luật
NCN năm 2010, Hà Nội, tr 2 – 17.


15

nuôi giữa người Việt Nam và người nước ngoài tăng theo. Trong khi đó,
những văn bản đầu tiên của Việt Nam quy định về NCN có yếu tố nước ngoài
nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, bất cập trong quá trình thực hiện.
Để khắc phục những hạn chế này, ngày 09/06/2000, Quốc hội đã thông qua
Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Chương XI của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Trong đó Điều 105 quy định về NCN có yếu tố nước
ngoài: “Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước

ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật
này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều
kiện nhận NCN...”.
Ngày 10/07/2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan
hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nghị định có một số quy định
thay đổi phù hợp hơn với nguyên tắc, trình tự, thủ tục cho người nước ngoài
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP là văn bản
pháp luật quan trọng đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề
NCN có yếu tố nước ngoài. Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em Việt Nam
làm con nuôi người nước ngoài theo Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, bước đầu
đã tiệm cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để các cơ quan
nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.
Ngày 16/12/2002, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 07/2002/TT-BTP hướng
dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP.
Sau gần 5 năm thi hành, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP đã bộc lộ một số
điểm chưa thực sự phù hợp. Ngày 23/07/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP đã khắc phục được một số
hạn chế của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP như: mở rộng đối tượng được xin
trẻ em Việt Nam làm con nuôi, đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi; hồ
sơ của người xin nhận conn nuôi và hồ sơ của trẻ em được nhận làm con nuôi.
Ngày 08/12/2006, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 08/2006/TT-BTP
hướng dẫn thi hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP.


16

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, pháp luật Việt Nam về
NCN đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Các vấn đề liên quan đến NCN còn tản

mạn trong nhiều văn bản pháp luật (Như Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký
quản lý hộ tịch,…). Do chưa được quy định thống nhất trong một đạo luật
chung, nên một số quy định về NCN còn chồng chéo, mâu thuẫn với nhau,
làm giảm hiệu lực áp dụng trong thực tế. Nhiều vấn đề liên quan đến quyền
NCN, quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân, tuy được khẳng định trong
Bộ luật dân sự, song lại chưa được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, với sự tồn tại
của hai khung pháp lý gần như riêng biệt về NCN trong nước và NCN có yếu
tố nước ngoài thời gian qua đã làm cho cơ chế thực hiện pháp luật về NCN
thiếu đồng bộ và thống nhất.
Một trong những hạn chế của pháp luật về hôn nhân gia đình nước ta nói
chung và Nghị định số 68/2002/NĐ-CP nói riêng là còn thiếu các quy định
đảm bảo sự gắn kết giữa NCN trong nước và NCN quốc tế theo hướng ưu tiên
NCN trong nước; NCN nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối
cùng khi không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Ngoài ra, Nghị
định số 69/2006/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) cũng không
quy định phải thông báo tìm mái ấm gia đình cho trẻ em mồ côi, trẻ em được
cha mẹ đưa vào cơ sở nuôi dưỡng, do đó, chưa tạo ra sự thống nhất về việc
tìm mái ấm gia đình cho trẻ em nói chung, trước khi giải quyết cho làm con
nuôi người nước ngoài.
Pháp luật chưa có cơ chế để quản lý chặt chẽ các hoạt động của Văn
phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam. Văn phòng con nuôi của các nước
hoạt động tại Việt Nam một mặt phải tuân theo pháp luật Việt Nam, mặt khác
phải tuân theo pháp luật của nước nhận. Nhiều nước có các quy định rất khác
nhau về hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là các quy định về
tài chính. Nhiều tổ chức lại có khả năng tài chính mạnh, cơ chế xử lý tài chính
mềm dẻo liên quan đến việc giải quyết NCN quốc tế, trong nhiều trường hợp
họ dùng tiền mặt để hỗ trợ cơ sở nuôi dưỡng. Trong khi đó các quy định của



17

pháp luật nước ta về hỗ trợ nhân đạo, quản lý việc tiếp nhận, sử dụng các
khoản hỗ trợ nhân đạo còn thiếu và chưa cụ thể, chưa rõ ràng; không có quy
định về việc cấm sử dụng tiền mặt; kỷ luật tài chính nói chung còn chưa chặt
chẽ. Đây chính là những sơ hở, thiếu sót về mặt pháp lý, nên chưa bảo đảm
được sự minh bạch, công khai và sử dụng đúng mục đích các khoản hỗ trợ
nhân đạo. Trong thực tiễn cả tổ chức con nuôi nước ngoài và các cơ sở nuôi
dưỡng đều chưa thực hiện báo cáo đầy đủ và đúng về các khoản hỗ trợ nhân
đạo cho Bộ Tư pháp. Thậm chí các báo cáo của phía tổ chức con nuôi nước
ngoài và phía địa phương Việt Nam rất khác nhau. Điều này gây rất nhiều khó
khăn cho việc quản lý, thống kê, theo dõi các khoản hỗ trợ nhân đạo và giám
sát việc sử dụng các khoản hỗ trợ đó.
Mặc dù Nghị định số 68/2002/NĐ-CP đã có nhiều cải cách trong trình tự
thủ tục giải quyết việc NCN, song vẫn còn một số tồn tại bất cập cần được
khắc phục.
Trước hết đó là sự bất cập về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Trên
thực tế, việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm
con nuôi hiện nay là do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện. Mặc dù theo yêu
cầu của pháp luật hiện hành, các cơ sở nuôi dưỡng của địa phương vẫn gửi
danh sách trẻ em có đủ điều kiện làm con nuôi người nước ngoài về Bộ Tư
pháp. Nhưng trên thực tế, đó mới thuần túy là sự cung cấp danh sách về số
lượng và họ tên của trẻ em (danh sách trích ngang), chưa kèm theo hồ sơ đầy
đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện cho làm con nuôi. Đồng thời, việc
gửi danh sách cho Cơ quan Trung ương cũng chỉ là hình thức để thông báo,
bởi thực chất, Cơ quan Trung ương không thực hiện việc giới thiệu trẻ em
làm con nuôi, mà các cơ sở nuôi dưỡng đã phối hợp với các tổ chức con nuôi
nước ngoài giới thiệu trẻ em cho các gia đình xin nhận con nuôi. Quyền giới

thiệu trẻ em nào là do cơ sở nuôi dưỡng quyết định.
Việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ
được thực hiện có tính hình thức. Mặc dù trên thực tế, nhiều địa phương giao
toàn bộ trách nhiệm chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển
cho Sở Tư pháp kiểm tra, nhưng Sở Tư pháp cũng chỉ kiểm tra về hình thức,
chiếu lệ rồi làm công văn gửi Cục Con nuôi. Để bảo đảm an toàn về hồ sơ của


18

trẻ em, nhiều địa phương đã chuyển tất cả hồ sơ của trẻ em cho cơ quan Công
an tỉnh xác minh, cho ý kiến. Nhưng trong đại đa số các trường hợp, cơ quan
Công an cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác
minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em. Sau khi có ý kiến của cơ quan
Công an, thì Sở Tư pháp chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi.
Vì vậy, việc ban hành một đạo luật riêng về NCN nhằm tạo khuôn khổ
pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài để thu hút sự quan tâm,
ủng hộ và giúp đỡ của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nuôi
dưỡng trẻ em, nâng cao trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, cơ quan, tổ
chức và xã hội trong việc bảo đảm quyền của trẻ em là hết sức cần thiết.
1.3.3. Thời kỳ từ năm 2010 đến nay
Ngày 17/06/2010, Quốc hội đã thông qua Luật NCN có hiệu lực từ ngày
01/01/2011. Lần đầu tiên, pháp luật nước ta đã điều chỉnh thống nhất vấn đề
NCN trong nước và NCN có yếu tố nước ngoài trong một Luật - điều mà các
quy định pháp luật trước chưa làm được. Luật NCN đã tạo cơ sở pháp lý ổn
định, thống nhất giải quyết vấn đề NCN; góp phần nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của người dân, của các cơ quan ban ngành và của toàn xã hội trong
việc bảo vệ trẻ em mà cụ thể ở đây là quyền được sống trong môi trường gia
đình. Ngày 21/03/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2011/NĐ-CP
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật NCN năm 2010.

Ngày 07/12/2010, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của
Công ước Lahay số 33 ngày 29/05/1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực NCN quốc tế. Công ước Lahay năm 1993 là một trong số 38 Công
ước quốc tế về tư pháp quốc tế trong khuôn khổ Hội nghị Lahay về tư pháp
quốc tế. Hiện tại, Công ước có 95 quốc gia thành viên. Việc Việt Nam ký kết
Công ước này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc từng bước hội
nhập vào khuôn khổ hợp tác đa phương về tư pháp quốc tế mà trước hết là
việc thực hiện Công ước về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi
quốc tế. Cùng với việc Luật NCN có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, việc ký gia
nhập Công ước này chắc chắn tạo ra một khuôn khổ pháp luật đồng bộ, điều
chỉnh cả các vấn đề NCN trong nước và NCN có yếu tố nước ngoài vì lợi ích
cao nhất của trẻ em, trong đó có trẻ em Việt Nam.


×