Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Pháp tu Tịnh độ trong Phật giáo Việt Nam (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.75 KB, 180 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN SƠN

PHÁP TU TỊNH ĐỘ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN SƠN

PHÁP TU TỊNH ĐỘ
TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 9 22 90 09

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÔN GIÁO HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS Nguyễn Phúc Đàn (Thích Thanh Đạt)
2. TS Lê Tâm Đắc



Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Các kết luận khoa học của luận án chưa từng
công bố trên bất kỳ công trình nào khác. Nếu vi phạm tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả luận án

NGUYỄN TIẾN SƠN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 6
1. 1. Tài liệu gốc .......................................................................................................... 6
1. 2. Tình hình nghiên cứu Pháp tu Tịnh Độ tại nước ngoài....................................... 9
1. 3. Tình hình nghiên cứu về Pháp tu Tịnh Độ tại Việt Nam .................................. 10
1. 4. Đánh giá kết quả các công trình đã có và một số vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu ................................................................................................................. 18
1. 5. Một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận án ............................................... 19
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
TU TỊNH ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM .............................................. 22
2. 1. Khái lược về Pháp tu Tịnh Độ .......................................................................... 22
2. 2. Tổng quan về Pháp tu Tịnh Độ trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam ............. 37
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 56

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG CỘNG ĐỒNG TỊNH ĐỘ TRONG PHẬT
GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................................. 58
3. 1. Khái quát về cộng đồng Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam hiện nay ............. 58
3. 2. Phương thức tu tập của Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................................. 75
Tiểu kết chương3....................................................................................................... 98
Chƣơng 4: Đ C ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ XU HƢỚNGCỦA PHÁP TU TỊNH
ĐỘ TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM ............................................................... 100
4. 1. Một số đ c điểm của Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam.................. 100
4. 2. Vai trò của Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam ................................. 114
4. 3. Xu hướng của Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam và một số
khuyến nghị giải pháp ............................................................................................. 131
Tiểu kết chương 4.................................................................................................... 142
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 144
DANH MỤCCÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁNĐÃ CÔNG BỐ . 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 148
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 157


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AHLLVTND

:

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

GHPGVN

:


Giáo hội Phật giáo Việt Nam

HT

:

Hoà thượng

NXB

:

Nhà xuất bản

PGVN

:

Phật giáo Việt Nam

PTTĐ

:

Pháp tu Tịnh Độ

TP

:


Thành phố

UBND

:

Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 2. 1: Các tông phái Phật giáo Trung Quốc

32

Bảng 3. 1: Mục đích theo đạo Phật của người dân

58

Bảng 3. 2: Thống kê môn học và thời lượng học tại các trường Phật học

65

tiêu biểu trên cả nước có nội dung giảng dạy liên quan đến PTTĐ
Bảng 3. 3: Thống kê số lượng đạo tràng niệm Phật của Ban Hướng dẫn

71

Phật tử TP. Hồ Chí Minh -bản lưu hành nội bộ tháng 12 năm 2016

Bảng 3. 4: Thời khoá giảng pháp 2012 tại chùa Hoằng Pháp

85

Bảng 3. 5: Thời gian biểu tại Pháp hội Khe Sanh2014

89

Bảng 3. 6: Thời gian biểu tại Pháp hội Hoàng thành Thăng Long 2015

91

Bảng 4. 1: So sánh khổ vui giữa Sa Bà và Cực Lạc

115


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ TRONG LUẬN ÁN
Trang
Hình 3. 1: Mức độ ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến các hoạt

69

động của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay
Hình 3. 2: Số lượng đạo tràng tại TP. Hồ Chí Minh

74

Hình 3. 3: Phật tử tham gia trong các đạo tràng


74

Hình 3. 4: Sơ đồ mối quan hệ Phật - Tâm - Chúng sinh

82

Hình 4. 1: Mối tương quan Thiền - Tịnh - Mật - Luật

107


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, là tôn giáo lớn nhất ở
Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện nay. Du nhập vào từ đầu Công nguyên, Phật
giáo nhanh chóng có được chỗ đứng vững chắc trong nhiều cộng đồng tộc người
trên nhiều vùng miền của nước ta. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu rộng xuyên vượt
thời gian của Phật giáo trong xã hội Việt Nam có phần đóng góp rất lớn của Pháp tu
Tịnh Độ, một trong những pháp tu phổ biến của Phật giáo Bắc tông (Phật giáo Đại
thừa) trong Tăng ni, Phật tử nước ta. Biểu hiện của nó thể hiện rõ nhất khi Tăng ni,
Phật tử Việt Nam thường chào nhau bằng câu “Nam Mô A Di Đà Phật”; đa phần
mọi người từ già đến trẻ, từ người hiểu đạo Phật hay không hiểu đạo Phật đều biết
đến 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”; thời khóa tụng niệm ở các chùa thường tụng
Kinh A Di Đà và niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà; tượng Đức Phật A Di Đà thờ
trong các ngôi chùa miền Bắc thường có kích thước lớn nhất; khi có người lâm
chung, Tăng ni và Phật tử thường tụng Kinh A Di Đà, niệm danh hiệu Đức Phật A
Di Đà để cầu nguyện cho vong linh được vãng sinh về Tây phương Cực lạc, v. v…
Theo Cao Tăng truyện, nhà sư Đàm Hoằng đã từ Trung Quốc vào Việt Nam tu
tập theo PTTĐ đầu tiên. Tại chùa Tiên Sơn (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày
nay), vào năm 422, nhà sư này đã tụng Quán kinh và cầu vãng sinh Tịnh Độ. PTTĐ

sau đó trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn và hiện nay được Tăng ni, Phật tử
Việt Nam thực hành đông đảo. Trong quá trình hình thành và phát triển của PTTĐ,
người Việt Nam đã tiếp nhận có chọn lọc Tịnh Độ tông ở Trung Quốc để áp dụng
cho phù hợp với con người và thời đại, từ đó hình thành nên nét riêng của PTTĐ
trong PGVN.
Hiện nay, PTTĐ đang trở nên phổ biến trong đời sống PGVN. Ngày càng có
nhiều tín đồ Phật giáo thực hành theo PTTĐ. Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ
người dân có cảm tình với Phật giáo (quần chúng tín đồ Phật giáo) cũng đang tu tập
theo PTTĐ. Việc tu tập của những thành phần này có khi được sự hướng dẫn trực
tiếp của chức sắc và nhà tu hành Phật giáo, nhưng có khi chỉ thông qua băng đĩa, bài
giảng trên internet. . . Cách thức tu tập của những hình thức này nhiều khi không

1


giống nhau: niệm Phật lớn tiếng, niệm Phật có nhạc, niệm Phật lần tràng hạt, đạo
tràng chuyên tu Phật thất 7 ngày, tổ chức pháp hội 3 ngày, niệm Phật một mình, tu
niệm với đại chúng, v. v. . . Đáng chú ý là, PTTĐ ở nước ta đang chịu ảnh hưởng của
một số yếu tố do quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nên có
những xu hướng vận động và phát triển khá phức tạp. Trước thực tế đó, vấn đề đ t ra là
làm sao PTTĐ có thể “toả hương” hơn nữa vào đời sống Phật giáo và đời sống xã hội
nước ta.
Cho đến nay, nghiên cứu về PTTĐ trong PGVN từ nhiều chiều cạnh và mức
độ khác nhau đã được thực hiện. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu tổng thể và
cập nhật dưới góc độ Tôn giáo học nhằm làm rõ lịch sử hình thành và phát triển,
cũng như thực trạng PTTĐ trong PGVN hiện nay, qua đó chỉ ra đ c điểm, vai trò và
xu hướng vận động, đưa ra một số khuyến nghị giải pháp nhằm phát huy những
điểm tích cực, hạn chế những điểm tiêu cực trong hoạt động của PTTĐ nước ta thời
gian tới vẫn có giá trị, có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2. 1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án đi sâu nghiên cứu tổng thể và cập nhật về PTTĐ trong PGVN dưới
góc độ Tôn giáo học, từ lịch sử truyền nhập, quá trình phát triển cho đến những vấn
đề liên quan đến hoạt động của PTTĐ giai đoạn hiện nay.
2. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thứ nhất, luận án trình bày có hệ thống về lịch sử PTTĐ, từ kinh điển Phật
giáo đến những nhân vật Phật giáo tiêu biểu thực hành PTTĐ ở Ấn Độ, Trung Quốc;
sự du nhập và phát triển của PTTĐ trong tiến trình Phật giáo Việt Nam từkhởi
nguyên đến hiện nay.
Thứ hai, luận án đi sâu phân tích thực trạng cộng đồng Tịnh Độ trong PGVN
hiện nay, từ sự phân bố cộng đồng thực hành PTTĐ tại ba vùng miền, đến cách thức
tu tập Tịnh Độ của các đạo tràng tiêu biểu trên khắp cả nước.
Thứ ba, trên cơ sở nêu bật một số đ c điểm và vai trò, cũng như chỉ rõ xu
hướng của PTTĐ trong PGVN, luận án đưa ra một số khuyến nghị giải pháp nhằm

2


phát huy những điểm tích cực, hạn chế những điểm tiêu cực trong hoạt động
củaPTTĐ thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3. 1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là PTTĐ, một trong bốn pháp tu tiêu biểu
(Thiền, Mật, Tịnh, Luật) của Phật giáo Bắc tông (Phật giáo Đại thừa) đã và đang tồn
tại trong PGVN từ lịch sử đến hiện tại.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi nghiên cứu của luận án là PTTĐ từ năm 1981 (năm thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam) trở lại đây trên khắp cả nước, trong đó chủ yếu tại ba trung
tâm Phật giáo lớn nhất và tiêu biểu nhất của đất nước hiện nay là thành phố Hà Nội,
tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Hồ Chí Minh.

4. Lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4. 1. Lý thuyết nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụngchủ yếu hai lý thuyết nghiên cứu, gồm: Lý thuyết thực thể tôn
giáo và Lý thuyết phân kỳ lịch sử.
Lý thuyết thực thể tôn giáo được luận án sử dụng để làm rõ 3 thành tố cơ bản
của tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là: niềm tin tôn giáo/ Phật giáo, thực
hành tôn giáo/ Phật giáo và cộng đồng tôn giáo/ Phật giáo. Niềm tin tôn giáo của
cộng đồng PTTĐ ở nước ta cơ bản là niềm tin vào Đức Phật Di Đà và thế giới Tây
Phương Cực Lạc. Thực hành tôn giáo của cộng đồng PTTĐ ở nước ta chủ yếu thể
hiện thông qua sinh hoạt tu tập của các đạo tràng, từ đó ảnh hưởng đến cộng đồng
bằng những tác dụng như cố kết xã hội, an ninh tinh thần, v, v. . .
Lý thuyết phân kỳ về lịch sử được luận án sử dụng để phân chia lịch sử PTTĐ
trong PGVN thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 của PTTĐ ở nước ta từ thế kỷ V (năm
422, thời điểm Đàm Hoằng tu tập ở chùa Tiên Sơn trên núi Tiên Du) đến hết thế kỷ
XVIII. Giai đoạn 2 của PTTĐ nước ta từ đầu thế kỷ XIX (năm 1802, lập ra nhà
Nguyễn) đến nay (năm 2018).
4. 2. Cách tiếp cận nghiên cứu của luận án

3


Luận án sử dụng một số cách tiếp cận như Sử học, Triết học, Nhân học, Xã hội
học, Văn hóa học.
Cách tiếp cận Sử học được luận án sử dụng để nghiên cứu lịch sử hình thành
và quá trình phát triển của PTTĐ ở Ấn Độ và Việt Nam, Tịnh Độ tông ở Trung
Quốc và Nhật Bản.
Cách tiếp cận Triết học được luận án sử dụng để nghiên cứu tư tưởng triết học
thể hiện trong kinh sách, giáo thuyết của PTTĐ và Tịnh Độ tông.
Các cách tiếp cận Nhân học, Xã hội học, Văn hóa học được luận án sử dụng
làm rõ thực trạng cộng đồng Tịnh Độ trong PGVN hiện nay.

4. 3. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, sơ cấp: được đề tài áp dụng nhằm
khai thác tối đa những tư liệu gốc, tài liệu tham khảo liên quan đến quá trình hình
thành và phát triển của PTTĐ ở Việt Nam.
Các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát tham dự: được đề tài áp dụng nghiên
cứu thực trạng và vấn đề đ t ra liên quan đến hoạt động của cộng đồng PTTĐ, cũng
như vai trò của pháp tu này đối với Phật giáo và xã hội Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án tổng quan khá đầy đủ tư liệu gốc và những công trình nghiên
cứu đi trước liên quan đến PTTĐ, đánh giá thành tựu cũng như hạn chế của những
công trình này, giúp cho những người nghiên cứu có được một cái nhìn toàn cảnh
về PTTĐ.
Hai là, luận án trình bày có hệ thống sự hình thành PTTĐ từ tam tạng kinh điển
đến các nhân vật Phật giáo tiêu biểu đại diện cho PTTĐ tại Ấn Độ và Trung Quốc,
đồng thời giới thiệu quá trình du nhập và phát triển của PTTĐ trong lịch sử PGVN.
Ba là, với những tư liệukhá phong phú vàđáng tin cậy, luận án đi sâu phân tích
thực trạng cộng đồng PTTĐ trong PGVN hiện nay, từ thành phần tu tập và sự phân bố
thực hành, đến cách thức tu tập Tịnh Độ tại các đạo tràng trên khắp cả nước.
Bốn là, sau khi nêu bật một số đ c điểm và vai trò, cũng như xu hướng của
PTTĐ trong PGVN, luận án đưa ra một số khuyến nghị giải pháp đối với GHPGVN,

4


cộng đồng thực hành PTTĐ và chính quyền các cấp nhằm phát huy những điểm tích
cực, hạn chế những điểm tiêu cực trong hoạt động của PTTĐ nước ta thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6. 1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho giới khoa học xã hội và nhân
văn nói chung, Tôn giáo học nói riêng, cũng như toàn thể giới Phật giáo và xã hội

thấy được một pháp tu trong Phật giáo được đông đảo Tăng ni, Phật tử Việt Nam
thực hành, có vai trò cực kỳ to lớn trong việc truyền bá Phật giáo sâu rộng đến
quảng đại người dân Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại.
6. 2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án có thể dùng làm tài liệu cho các trường/ lớp Phật học (Học viện Phật
giáo, Cao đẳng Phật học, Trung cấp Phật học, …) và cơ sở nghiên cứu của
GHPGVN các cấp (Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Phân viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam, …); các cơ sở nghiên cứu và đào tạo quốc dân về tôn giáo nói
chung, Phật giáo nói riêng (Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam; Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Tín ngưỡng thuộc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Trần Nhân Tông và Bộ môn Tôn giáo học
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, …). Kết quả của luận án còn cung cấp những luận
cứ khoa học cho các ban ngành chính quyền trong việc tiếp tục hoàn thiện chính
sách và pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Lời cam đoan, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các hình,
Danh mục các bảng, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình liên quan đến luận
án đã công bố, Tài liệu tham khảovà Phụ lục, nội dung của luận án được chia thành
4 chương, 12 tiết và tiểu kết các chương.

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1. 1. Tài liệu gốc
1. 1. 1. Kinh điển chữ Hán, chữ Phạn về Pháp tu Tịnh Độ
Tư tưởng Tịnh Độ khởi nguồn từ Ấn Độ. Các kinh điển Hán tạng liên quan
đến PTTĐ được lưu trữ phần lớn trong bộ Đại Chính Tạng. Những tác phẩm

mànhiều danh tăng căn cứ vào để lập nên tông Tịnh Độ bao gồm 5 bộ kinh: Phật
thuyết A Di Đà Kinh, thường gọi là Kinh A Di Đà[103]; Phật thuyết Vô Lượng Thọ
Kinh, thường gọi là Kinh Vô Lượng Thọ[102]; Phật thuyết Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh, thường gọi là Quán Kinh [104]; Kinh Hoa Nghiêm - phẩm Phổ Hiền
hạnh nguyện [100]; Kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông [106]; và
một bộ luận: Vô Lượng Thọ Kinh, Ưu ba đề xá nguyện sinh kệ, gọi tắt là Vãng sinh
luận (hiện lưu trong Đại Chính Tạng, tập 26) [112]. Sáu công trình của Tịnh Độ nêu
trên được giới nghiên cứu gọi là “Ngũ kinh nhất luận” (Năm kinh một luận).
Giới tu hành PGVN thường lấy các bộ sách Nhật tụng Bồ đề, Nhật tụng Vĩnh
Nghiêm, … làm khoá lễ tu tập, tụng niệm sớm tối. Những tác phẩm nhật tụng này
chiếm 2/3 nội dung thuộc về tư tưởng Tịnh Độ, tiêu biểu gồm: Tịnh Độ nhật tụng
[165], Chư kinh nhật tụng[137], Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi [156], Chư kinh
nhật tụng (2 tập)[138], Chư kinh nhật tụng[153], Chư kinh nhật tụng tập yếu lễ nghi
[139]. Trong các bộ nhật tụng kể trên đều có Kinh Di Đà. Như vậy, việc thực hành
PTTĐ của Tăng ni và Phật tử Việt Nam sớm nhất từ đầu thế kỷ XX trở lại đây đều
lấy niệm Đức Phật A Di Đà, tụng Kinh Di Đà làm cơ bản.
Nội dung cơ bản của năm kinh một luận cung cấp những thông tin cơ bản về
Đức Phật A Di Đà, quá trình tu hành thành Phật của Đức Phật ấy, môi trường cõi
Cực Lạc, điều kiện vãng sinh về thế giới Tây Phương. Đây là những nội dung nền
tảng để tông Tịnh Độ ở Trung Quốc được thành lập và là yếu tố quan trọng để
PTTĐ trong PGVN nương vào thực hành từ xưa đến nay.
Trong năm kinh một luận, phần lớn những bản chữ Phạn vẫn còn được bảo lưu.
Hiện nay, nhiều học giả Trung Quốc, Nhật Bản… đối chiếu, so sánh, dịch lại từ bản

6


tiếng Phạn sang tiếng Hán, tiêu biểu như Phạn văn Phật điển nghiên cứudo Hàn
Đình Kiệt trước tác [133]. Tác giả đã trích dẫn từng đoạn bản tiếng Phạn của Kinh
Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ. . . so sánh với bản dịch của đại sư Cưu Ma La Thập,

dẫn thêm phần dịch của đại sư Huyền Trang, dịch mới ra văn phong hiện đại. Công
việc đó đã càng tăng thêm niềm tin về sự truyền thừa của kinh điển Tịnh Độ.
Ngoài ra, một số tư liệu gốc in bằng chữ Hán ở Việt Nam ít nhiều nói lên diện
mạo của PTTĐ trong PGVN từ lúc pháp tu này truyền vào nước ta đến thời Lý - Trần.
Đại Chính Tạng, tập 50, Cao Tăng Truyện, do nhà sư Thích Tuệ Kiểu soạn nói
về vị Tăng thực hành PTTĐ đầu tiên của Việt Nam đó là Thích Đàm Hoằng. Đây là
cuốn sử liệu đáng tin cậy nhất để xác định PTTĐ truyền đến nước ta. Chỉ với 180
ký tự, nhưng tác phẩm này đã cung cấp nhiều thông tin liên quan đến lịch sử truyền
nhập, con người thực hành, kinh điển thực hành, cách thức thực hành PTTĐ tại
nước ta.
Thiền Uyển tập anh, in năm Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715) [143], giới thiệu về
hành trạng các vị cao tăng thời Lý - Trần, trong đó có những vị hướng tâm Tịnh Độ
như Thiền sư Tịnh Lực đã tu niệm Phật tam muội.
Thái Tông hoàng đế ngự chế khoá hư, của Trần Thái Tông[151], đề cập đến
đ c điểm Thiền -Tịnh song tu của PGVN thời nhà Trần. Chương “Niệm Phật luận”
trong tác phẩm này thể hiện rõ quan điểm về PTTĐ của vua Trần Thái Tông.
Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, đại sư Pháp Loa thời Trần biên
tập[147], Việt Quốc Yên Tử sơn Trúc Lâm chư tổ thánh đăng lục do nhà sư Thích
Quảng Điều khắc lại [141]. Hai tác phẩm này đề cập đến tư tưởng của các nhân vật
Phật giáo tiêu biểu thời Trần như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông.
Từ khởi nguyên cho đến hết thời nhà Trần, tư liệu về PTTĐ ở nước ta không
nhiều. Nhưng từ thời nhà Lê trở về sau, tư liệu PTTĐ phong phú hơn. Đương nhiên,
những tác phẩm Hán văn vẫn chiếm ưu thế, một điều kiện thuận lợi để luận án này y
cứ và xác định tiến trình lịch sử PTTĐ trong PGVN.
1. 1. 2. Tư liệu điền dã thực tế
Trước và trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã điền dã thực tế tại nhiều
cơ sở thực hành PTTĐ trên khắp cả nước, tiêu biểu như: chùa Bút Tháp (huyện

7



Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), chùa Phật Tích (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), chùa
Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên,
tỉnh Bắc Giang), chùa Hoàng Kim (huyện Quốc Oai, Hà Nội), chùa Tây Phương và
chùa Cực Lạc (huyện Thạch Thất, Hà Nội), chùa Liên Phái (quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội), chùa Đồng Dương (quận Hà Đông, Hà Nội), chùa Vũ Lăng (huyện Thanh Oai,
Hà Nội), chùa Đại Từ Ân (huyện Đan Phượng, Hà Nội), Tịnh Độ đạo tràng (huyện
Gia Lâm, Hà Nội), chùa Đồng Ngọ (huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương), Chùa Giám
(huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương), chùa Từ Đàm, chùa Báo Quốc, Ni viện Diệu
Đức (tỉnh Thừa Thiên - Huế), chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Huệ Quang, chùa Hoằng
Pháp (TP. Hồ Chí Minh), v. v. . . Những cơ sở nêu trên bảo lưu nhiều tư liệu phong
phú, sâu sắc về PTTĐ trong PGVN.
Trung Quốc là nơi Tịnh Độ tông được thành lập, nên việc khảo sát thực tế các
tự viện tu tập Tịnh Độ giúp tác giả thấy sự truyền thừa liền mạch về PTTĐ từ quá
khứ đến hiện tại. Những tự viện tiêu biểu tại Trung Quốc mà tác giảtừng điền dã
như: chùa Long Tuyền, chùa Đàm Giá, chùa Giới Đài (thành phố Bắc Kinh), chùa
Đại Giác, chùa Kê Minh (tỉnh Giang Tô), chùa Đông Lâm (tỉnh Giang Tây), chùa
Phổ Đà (tỉnh Triết Giang), v. v… Đây là các tự viện tiêu biểu ghi dấu tích sự hình
thành và phát triển của Tịnh Độ tông, từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến PTTĐ trong
PGVN.
Tại những địa điểm điền dã nêu trên, tác giả đã khảo sát khá nhiều sách cổ,
văn bia, tượng Phật; sưu tầm kinh điển, phỏng vấn, tham dự một số khoá tu Tịnh Độ
nên đã có những tư liệu liên quan đến PTTĐ có giá trị. Chẳng hạn, tác giả đã phỏng
vấn Thượng toạ Thích Chơn Tính, trụ trì chùa Hoằng Pháp (huyện Hóc Môn, TP.
Hồ Chí Minh), phỏng vấn Phật tử Đ ng Minh Châu - Trưởng ban Tịnh Độ đạo
tràng. Tác giả đến chùa Diệu Đức (tỉnh Thừa Thiên - Huế), chùa Vũ Lăng (huyện
Thanh Oai, Hà Nội), chùa Kê Minh (tỉnh Giang Tô, Trung Quốc). . . để khảo sát
thực hành PTTĐ của các nhà sư tại những địa điểm đó. Tác giả còn trực tiếp tham
dự các khoá lễ của Tịnh Độ đạo tràng ở Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), ở
Nghĩa trang Trường Sơn (tỉnh Quảng Trị), v. v. . . từ đó thu thập được nhiều thông

tin thực tiễn về PTTĐ trong PGVN hiện nay.

8


1. 2. Tình hình nghiên cứu Pháp tu Tịnh Độ tại nƣớc ngoài
Tổng quan những kinh điển liên quan đến Tịnh Độ tông Trung Quốc, Hiệp hội
Phật giáo tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc), tháng 7 năm 2010 xuất bản bộ Tịnh Độ tạng,
50 tập, biên soạn 787 tác phẩm [127]. Bộ đại tạng này kiết tập toàn bộ những tác
phẩm được sáng tác ở Trung Quốc từ thời Hậu Hán đến thời Trung Hoa dân quốc.
Tịnh Độ tạng chia ra làm 2 loại hình chính. Một là thống kê những kinh điển
chuyên khảo về Tịnh Độ ho c một phần liên quan đến PTTĐ (nội dung này có thể
liệt kê vào tư liệu gốc). Hai là, giải thích các bộ kinh do Đức Phật Thích Ca thuyết
giảng. Loại hình thứ hai chủ yếu giải thích tư tưởng triết học của PTTĐ, tiêu biểu
nhưđại sư Trí Khải thời nhà Tuỳ biên trước Phật thuyết Quán Vô Lượng thọ kinh sớ
[107]. Đại sư Trí Húc thời nhà Minh chú giải Phật thuyết A Di Đà kinh yếu giải
(Đại Chính Tạng, tập 37) [109]. Những tác phẩm này hành văn theo lối học thuật
truyền thống của Trung Quốc và Việt Nam: phân tích, chú giải từng câu, từng đoạn
trong kinh điển dưới góc nhìn của tác giả.
Gần đây, nhiều tác phẩm chuyên khảo về PTTĐ được các học giả Trung Quốc
nghiên cứu theo lối hiện đại, tiêu biểu như Trung Quốc Tịnh Độ tông thông sử của
Trần Dương Quýnh [115], một trong những bộ tập đại thành của các tông phái
Trung Quốc. Bên cạnh đó còn phải kể đến những tác phẩmTrung Quốc Thiền tông
thông sử, Trung Quốc Luật tông thông sử, Trung Quốc Thiên Thai tông thông sử, v,
v. . . Trong đó, đứng vững trên phương diện lịch sử và tư tưởng như thông lệ của
các bộ thông sử, Trung Quốc Tịnh Độ tông thông sử đã khảo cứu về quá trình
truyền thừa của Tịnh Độ tông và tư tưởng của các kinh điển Tịnh Độ cũng như tư
tưởng Tịnh Độ của các vị cao tăng Trung Quốc.
Thích Đại An, Tịnh Độ tông giáo trình [1] nghiên cứu Tịnh Độ tông dưới hình
thức “giáo trình”. Thích Đại An là đương kim trụ trì chùa Đông Lâm ở Lư Sơn

(Đạo tràng của Tuệ Viễn - Sơ tổ Tịnh Độ tông Trung Quốc), nên tác phẩm này cung
cấp nhiều thông tin lợi ích không chỉ cho người nghiên cứu, mà còn đối với người
tu hành Phật giáo. Những thể loại sách nghiên cứu về Tịnh Độ như vậy rất nhiều, có
thể liệt kê thêm một vài tác phẩm khác tiêu biểu như Nghiên cứu Tịnh Độ tông
Trung Quốc của Thích Thông Căn và Ôn Kim Ngọc [116], Giáo trình Tịnh Độ tông
của Ngụy Lỗi [121], v. v. . .

9


Người Nhật Bản cũng có nhiều nghiên cứu sâu sắc về Tịnh Độ tông Trung
Quốc và Tịnh Độ tông Nhật Bản, tiêu biểu phải kể đến bác sĩ Vọng Nguyệt Tín
Hanh (1869 - 1948). Ông là nhân vật điển hình cho thế hệ nghiên cứu Tịnh Độ tông
thời cận đại. Những tác phẩm nghiên cứu về Tịnh Độ của ông tiêu biểu như: Tịnh Độ
giáo chi khởi nguyên cập kỳ khai triển [124], Lược thuật Tịnh Độ giáo lý sử, Tịnh Độ
giáo chi nghiên cứu, Trung Quốc Tịnh Độ giáo lý sử. Nhìn chung, những tác phẩm
nghiên cứu về Tịnh Độ của các học giả NhậtBản rất công phu và quy phạm. Nhiều vấn
đề tiêu biểu của Tịnh Độ được các học giả Nhật Bản tìm hiểu kỹ lưỡng.
Ngoài ra, nhiều luận văn và luận án ở Trung Quốc gần đây nghiên cứu khá sâu
rộng về Tịnh Độ tông Trung Quốc như: Đỗ Cương với luận án hậu tiến sĩ Trung Quốc
Phật giáo Tịnh Độ tông giáo dục nghiên cứu [131]. Tác phẩm này không những luận
thuật tư tưởng triết học, lịch sử của Tịnh Độ tông mà còn có tính Tôn giáo học, đó là
khảo sát điền dãnhững đạo tràng Tịnh Độ tiểu biểu ở Trung Quốc, từ đó chỉ ra sự ảnh
hưởng của nó đối với đời sống của người tu hành Phật giáo và xã hội.
Nguyễn Tiến Sơn, Việt Nam Tịnh Độ tín ngưỡng sử luận [134] nghiên cứu tư
tưởng Tịnh Độ ở góc độ Triết học và Sử học. Đây là luận văn thạc sĩ tiếng Trung
đầu tiên nghiên cứu về lịch sử PTTĐ ở Việt Nam. Do vậy, công trình không chỉ
cống hiến cho học giả trong nước mà còn là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên
cứu nước ngoài.
Nhìn chung, khối lượng tác phẩm đề cập đến PTTĐ bằng ngoại ngữ từ quá

khứ đến hiện tại nhiều gấp hàng trăm lần so với kinh điển Tịnh Độ mà Đức Phật
Thích Ca Mâu Nithuyết giảng. Vì vậy, chúng là những tư liệu rất quý để luận án
này tham khảo và trích dẫn.
1. 3. Tình hình nghiên cứu về Pháp tu Tịnh Độ tại Việt Nam
1. 3. 1. Tình hình nghiên cứu về lịch sử Pháp tu Tịnh Độ trong Phật giáo
Việt Nam
Tư liệu bằng chữ Hán in ở Việt Nam thời Lê - Nguyễn là những cứ liệu xác
đáng cho nghiên cứu quá trình truyền nhập và phát triển PTTĐ thời kỳ này: Kiến
tính thành Phật của thiền sư Chân Nguyên[149]; Đại thừa chư Tịnh Độ kinh [155],
Kim Cương Di Đà kệ chú châm minh [157], Di Đà kinh sớ sao do đại sư Liên Trì

10


trước tác[152]; Phật thuyết A Di Đà Kinh yếu giải do Sa môn Thông Duệ trùng
san[140]; Tịnh Độ hội nguyên[158], Tịnh Độ chỉ quy [159], Tịnh Độ vấn đáp [160],
Tịnh Độ thần chung [161], Vãng sinh tập [166], Tây Phương mỹ nhân, Trương Tây
Dân tập giải [162], Tây Phương hợp luận [163], Quy nguyên trực chỉ do Sa môn
Nhất Nguyên Tông Bản soạn[135]; Long thư Tịnh Độ doTiến sĩ Vương Nhật Hưu
soạn[146]. Các tác phẩm này phần lớn do người Trung Quốc viết nhưng được người
Việt Nam chủ trì khắc ván tái bản. Căn cứ vào phần lời tựa và phần lời bạt của cuốn
sách có thể thấy được tình hình thực hành PTTĐ của người Việt Nam thời bấy giờ.
Ví dụ, bộ Tịnh Độ sám nguyện, do Sa môn Tuân Thức thời nhà Tống soạn, bản in
tại nước ta năm Quý Dậu, niên hiệu Tự Đức (1873), tái bản năm Thành Thái
(1897)[57]. Tác phẩm này hiện nay vẫn thường dùng làm khoá lễ của Tăng ni, Phật
tử Việt Nam. Lời tựa cuốn sách này cho biết: “Tại nước ta vào niên hiệu Vĩnh Hựu
(1735 - 1740), Tổ sư Trạm Công đến Bắc Quốc (Trung Quốc) thỉnh mang về lưu trữ
ở chùa Càn An. Năm Ất Sửu niên hiệu Tự Đức, Pháp chủ chùa Vĩnh Nghiêm được
kinh này in lại để đại chúng cùng thực hành” [60, tr 1]. Lời tựa bộ Di Đà sớ sao in
năm Cảnh Hưng thứ 27 (1786) cho biết số mục người ấn tống in kinh này: “Pháp

quyến gồm 124 người, Tỷ khiêu gồm 53 vị, Tỷ khiêu ni gồm 88 vị, người tại gia
gồm 1. 108 người”; mọi người đều hy vọng “vào vô thượng pháp môn, cùng các
bậc thượng thiện nhân, đều đến Lạc Bang, chóng lên quả Phật” [95, tr. 308].
Các tài liệu nói về cơ cấu tổ chức, mục đích, tông chỉ của các hội đoàn tu tập
Tịnh Độ không nhiều, nhưng nhìn chung có giá trị cao. Chẳng hạn, sách Liên xã
niệm Phật hội, Sa môn Nguyên Biểu biên soạn vào năm 1887, chùa Đại Khánh, tỉnh
Hải Dương in[136 ], phản ánh khá rõ diện mạo của một vùng Phật giáo phía Bắc
nước ta tu tập pháp môn Niệm Phật và các hoạt động Phật pháp có ảnh hưởng đến
xã hội khá sâu rộng.
Ngoài chữ Hán, nhiều kinh điển bằng chữ Nôm có nội dung về PTTĐ cũng là
những tư liệu đáng quý, tiêu biểu như: Long thư Tịnh Độ diễn âm do Sa môn Tính
Định soạn [144]; Tây Phương công cứ tiết yếu diễn âm[164], Di Đà cảnh giới
hạnh[154], Đại Di Đà kinh chính văn đặc niệm chích yếu diễn âm do Sa môn Tính
Định soạn[143]. Những bộ kinh điển kể trên miêu tả về thế giới Cực Lạc cũng như

11


cách thức thực hành PTTĐ. Phần lớn tác phẩm chữ Nôm được diễn tả bằng thể thơ
lục bát, giúp người đọc sẽ dễ nhớ hiểu, dễ truyền bá.
Đầu thế kỷ XX, những kinh sách Tịnh Độ bằng quốc ngữ ra đời. Nhiều kinh
gốc của PTTĐ bằng chữ Hán được dịch ra quốc ngữ để mọi người dễ tụng niệm
hằng ngày, cũng là cơ sở để các nhà nghiên cứu làm tài liệu tham khảo và trích dẫn.
Những ấn phẩm tiêu biểu về thể loại này phải kể đến: Vô Lượng thọ [20], Quán Vô
Lượng thọ [92], Phật thuyết A Di Đà Kinh [93], Tịnh Độ ngũ kinh [21], v. v. . .
Ngoài những bộ kinh luận gốc, nhiều tác phẩm giải thích nghĩa lý Tịnh Độ được
các học giả Việt Nam biên dịch, tiêu biểu như Kinh A Di Đà sớ sao [35], Kinh A Di Đà
yếu giải [56], Sám nguyện [60], Khuyến tu Tịnh Độ thiết yếu [74]. Những tác phẩm này
giúp người nghiên cứu, người tu hành ở Việt Nam tiếp cận giáo lý Tịnh Độ sâu sắc hơn.
Ngoài những tác phẩm được phiên dịch, các học giả Việt Nam còn chuyên

khảo thành những tác phẩm của Tịnh Độ, tiêu biểu như các tác phẩm của HT. Thích
Thiền Tâm: Niệm Phật thập yếu [68], 13 vị Tổ Tịnh Độ tông [70]; Thiết lập Tịnh Độ
- Kinh A Di Đà Thiền giải [31], … đã kiến giải sâu rộng về PTTĐ. Những kiến giải
này một m t kế thừa tư tưởng PTTĐ của Trung Quốc, m t khác cũng có những lĩnh
vực riêng biệt đại diện cho người Việt Nam đương thời.
Những công trình như Kinh điển y cứ của Pháp tu Tịnh Độ và nhân vật tiêu
biểu thực hành Pháp tu Tịnh Độ, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1&2
năm 2017; Khái niệm „Tịnh Độ tông‟ tại Trung Quốc và „Pháp tu Tịnh Độ‟ tại
Việt Nam, đăng trên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 395 năm 2017 của Nguyễn
Tiến Sơn [63] chú trọng giới thiệu về PTTĐ tại Việt Nam dưới góc độ Tôn giáo học.
Những tác phẩm nêu trên đề cập không chỉ đến lịch sử truyền nhập và phát
triển PTTĐ trong PGVN, mà còn đến những lĩnh vực Triết học, Tôn giáo học của
pháp tu này, những điều được chúng tôi lưu tâm tập hợp, chắt lọc phục vụ cho việc
hoàn thiện luận án.
1. 3. 2. Tình hình nghiên cứu về cộng đồng Tịnh Độ trong Phật giáo Việt Nam
hiện nay
Nghiên cứu liên quan đến cộng đồng Tịnh Độ trong PGVN khu vực phía Bắc
có luận án tiến sĩ Triết học của Ngô Thị Lan Anh (2011), Ảnh hưởng của “Tâm”

12


trong Phật giáo đối với đời sống đạo đức nước ta hiện nay [3]. Triển khai luận án,
tác giả đã phỏng vấn 1. 500 phiếu dành cho người không phải tu hành Phật giáo và
500 phiếu cho người tu hành Phật giáo tại 7 tỉnh thành phía Bắc gồm: Hà Nội, Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Nam Định, Quảng Ninh. Một trong
những kết quả phiếu điều tra xã hội học cho thấy các mục đích theo đạo Phật của
người dân, trong đó có mục đích “được về Tây phương Cực Lạc”.
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Thị Thuý Hằng (2015), Ảnh hưởng của
nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần cư dân Đồng bằng Bắc Bộ hiện

nay [32]. Tác giả luận án này cũng dùng phương pháp điều tra xã hội học trên địa
bàn 5 tỉnh thành: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định. Đối tượng
khảo sát phiếu điều tra xã hội học là nhà tu hành Phật giáo (125 phiếu) và không
phải nhà tu hành Phật giáo (500 phiếu). Kết quả thu được cho thấy ảnh hưởng mạnh
mẽ của nhân sinh quan Phật giáo đối với người dân, trong đó việc Niệm Phật, chiếm
tỷ lệ tốp đầu.
Số liệu từ Báo cáo tổng kết 2012 [5] của Ban Trị sự Phật giáo thành phố Hà
Nội ngày 20/12/2012, Báo cáo tổng kết năm học 2015 [89] khoá 2014 - 2018 của
Trường Trung cấp Phật học Hà Nội, Tài liệu đại hội đại biểu Phật giáo thành phố Hà
Nội năm 2017 [29] của Ban Trị sự Phật giáo thành phố Hà Nội đã cung cấp nhiều
thông tin về các đạo tràng thực hành PTTĐ trên địa bàn thủ đô và việc giảng dạy cho
các tăng ni sinh tại Trường Trung cấp Phật học có nội dung về PTTĐ hiện nay.
Nghiên cứu liên quan đến PTTĐ tại khu vực miền Trung, tiêu biểu là tỉnh
Thừa Thiên - Huế, trước hết phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ do TS. Lê Tâm Đắc
làm chủ nhiệm (2010), Phật giáo Huế và vùng phụ cận thời kỳ từ năm 1932 đến nay,
Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Khoa học xã hội Việt Nam [18]. Đề tài đã dành
gần 20 trang khảo cứu PTTĐ đã và đang tồn tại ở Phật giáo xứ Huế. Trong đó, đề
tài đã chỉ ra mô hình thực hành PTTĐ ở Huế với nét nổi bật là “Niệm Phật đường”:
“Niệm Phật Đường có hình chữ T quốc ngữ. Do công năng sử dụng có sự khác biệt
với các ngôi chùa truyền thống, Niệm Phật Đường thường có 2 phần rõ rệt: phần
ngôi chùa cùng các kiến trúc thuộc chùa, và phần giảng đường với các nhà làm việc
của các tổ chức Phật giáo địa phương của Hội Phật Học An Nam. . . Phật điện của

13


Luận án đầy đủ ở file: Luận án full







×