BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THỊ MỸ HẠNH
THỦ TỤC XÉT XỬ BỊ CÁO
LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
VŨ THỊ MỸ HẠNH
THỦ TỤC XÉT XỬ BỊ CÁO
LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Phƣợng
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện trên cơ sở các kiến thức lý luận, thực tiễn
và tham khảo các tài liệu liên quan. Các số liệu có nguồn trích dẫn đảm bảo
tính trung thực, chính xác; luận văn chƣa từng công bố trong công trình
nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2016
Ngƣời viết luận văn
Vũ Thị Mỹ Hạnh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
NCTN
Ngƣời chƣa thành niên
TAND
Toà án nhân dân
TTHS
Tố tụng hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 1.
Thống kê số lƣợng bị cáo là NCTN trong tổng số bị
Trang
cáo bị xét xử trên cả nƣớc 2010-2015
53
Bảng 2.
Cơ cấu loại tội phạm do NCTN thực hiện
55
Bảng 3.
Số bị cáo là NCTN bị xử phạt tù giam trên cả nƣớc
56
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………..........
1
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ
BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN……………………………...
9
1.1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên…………………………………...…………………………….... 9
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên…...... 9
1.1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên………………………...…………………….…………………... 14
1.1.3. Khái quát lịch sử phát triển của thủ tục xét xử đối với bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên………………………………………..…………….. 18
1.2. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự Việt Namvề thủ tục xét xử
bị cáo là ngƣời chƣa thành niên……………..…………………………….
23
1.2.1 . Quy định của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về
thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên………...…………………... 23
1.2.2. Những điểm mới của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015 về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên…………......…….. 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG I……………………………………………... 52
CHƢƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN THỦ TỤC XÉT XỬ BỊ CÁO LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN …….………………….…………………. 53
2.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
53
2.1.1. Tình hình xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên……………... 53
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên…………………………………………………………………... 57
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về thủ tục xét xửbị cáo là ngƣời chƣa thành niên và giải pháp đảm
bảo thực hiện……………………………………………………………….. 70
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS về thủ tục
xét xử bị cáo là NCTN………………………………………………..……. 70
2.2.2. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện…………………………… 77
KẾT LUẬN CHƢƠNG II……………………………….………..…..
84
KẾT LUẬN……………………….……………………………..……
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc thực hiện và bảo vệ quyền trẻ em nói chung cũng nhƣ ngƣời chƣa
thành niên nói riêng trong những năm gần đây tại Việt Nam đã có nhiều điểm
tiến bộ, vì phát triển con ngƣời, đặc biệt là trẻ em – thế hệ tƣơng lai của đất
nƣớc luôn là một trong những chiến lƣợc phát triển hàng đầu. Tuy nhiên, có
một thực tế là trong những năm qua và nhất là thời điểm hiện nay, tình trạng
ngƣời chƣa thành niên phạm tội diễn biến rất phức tạp và có xu hƣớng tăng.
Việc giải quyết vấn đề ngƣời chƣa thành niên phạm tội là việc làm rất cần
thiết, đã và đang là vấn đề khiến toàn xã hội quan tâm, do ngƣời chƣa thành
niên nói chung và ngƣời chƣa thành niên phạm tội nói riêng có đặc điểm tâm
lý đang phát triển,chƣa đƣợc định hình, nhận thức còn non nớt, hơn nữa,
ngƣời chƣa thành niên phạm tội cũng là nạn nhân của sự thiếu giáo dục, thiếu
sự chăm sóc của gia đình, nhà trƣờng cũng nhƣ xã hội…Dù có hành vi vi
phạm pháp luật nhƣng ngoài việc giải quyết nhằm giữ ổn định trật tự an toàn
xã hội thì hơn lúc nào hết, quyền và lợi ích của NCTN vẫn cần đƣợc đảm bảo
và điều quan trọng là tìm ra cách để giảm bớt những hoạt động vi phạm đó.
Chính vì vậy nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam đã có quy định đặc
biệt về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên, trong đó bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam đã dành riêng một chƣơng để quy định thủ tục giải quyết
các vụ án này. Trong các giai đoạn giải quyết vụ án, không thể không nói tới
thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.Tuy nhiên, qua quá trình
nghiên cứu lý luận các quy định của bộ luật tố tụng hình sự trong việc xét xử
bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, có thể thấy, các quy định này còn nhiểu điểm
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của hoạt động tố tụng đối với bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên, có nhiều quy định còn mang tính hình thức nhƣ quy định về
việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trƣờng và các tổ chức xã hội; Hoặc
2
một số quy định còn chƣa rõ ràng, cụ thể, có thể dẫn tới nhiều cách hiểu sai
nhƣ tiêu chuẩn của Thẩm phán tiến hành tố tụng… gây nhiều khó khăn trong
quá trình áp dụng, ảnh hƣởng đến quyền lợi của bị cáo là ngƣời chƣa thành
niên. Trong thực tiễn áp dụng cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng áp dụng
linh hoạt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tuy nhiên việc giải quyết
các vụ án này vẫn còn bộc lộ hiều hạn chế do chính sách hình sự còn nhiều
bất cập hay trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ ngƣời tiến hành tố
tụng còn chƣa cao, chƣa có những hiểu biết nhất định về đặc điểm tâm sinh lý
của ngƣời chƣa thành niên… Từ đó đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết
trong đó có việc đánh giá các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong quá
trình phòng, chống tội phạm là ngƣời chƣa thành niên đã thực sự đạt hiệu quả
hay chƣa?
Trƣớc bối cảnh trên, trƣớc những yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ
pháp và những đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm do ngƣời
chƣa thành niên thực hiện, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống về thủ tục xét xử đối
với bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của bộ luật tố tụng hình sự và những
giải pháp nhằm đảm bảo cho việc giải quyết các loại án này là việc làm cần
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng. Chính vì vậy, tôi
đã chọn đề tài: “Thủ tục xét xử bị cáo là người chưa thành niên trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý hình sự, tố tụng hình sự liên quan đến ngƣời
chƣa thành niênđã có nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài khoa học, các
3
giáo trình và những cuốn bình luận khoa học, có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu nhƣ sau:
- Sách: Ngƣời chƣa thành niên phạm tội – Đặc điểm tâm lý và chính
sách xử lý của tác giả Đặng Thanh Nga và Trƣơng Quang Vinh, Nhà xuất bản
Tƣ pháp, Hà Nội. Nội dung cuốn sách nghiên cứuvề về tâm lý ngƣời chƣa
thành niên nói chung và ngƣời chƣa thành niên phạm tội nói riêng;nguyên
nhân dẫn đến hành vi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên, từ đó có những thủ
tục, chính sách xử lý phù hợp với lứa tuổi này. Trong đó tác giả có phân tích
các đặc điểm tâm lý của ngƣời chƣa thành niên phạm tội đó là: trạng thái cảm
xúc, nhu cầu độc lập, thái độ đối với học tập, nhận thức về pháp luật và nhu
cầu khám phá cái mới, tất cả những đặc điểm tâm lý trên đều có thể dẫn tới
hành vi phạm tội của ngƣời chƣa thành niên.
- Luận án tiến sĩ luật học:
Đỗ Thị Phƣợng (2008),Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận án, tác giả đã khẳng định thủ
tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên là những thủ tục đặc biệt cần đƣợc
thực hiện khi tiến hành giải quyết vụ án mà ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
ngƣời bị kết ánlà ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi nhằm giải quyết đúng
đắn, khách quan vụ án và đảm bảo lợi ích của họ trong hoạt động tố tụng hình
sự. Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng đối với ngƣời
chƣa thành niên. Sau đó phân tích những quy định của bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 và thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự đối với ngƣời chƣa
thành niên, tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những điểm
hạn chế, những nguyên nhân của những hạn chế, từ đó tác giả kiến nghị
những giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục tố tụng hình sự đối với ngƣời chƣa
thành niên.
- Luận văn thạc sĩ:
4
+ Nguyễn Thu Huyền (2006), Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ
luật học, Đại học quốc gia Hà Nội. Trong luận văn, tác giả đã tập trung
nghiên cứu về thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, tác giả
chỉ ra thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên là tổng hợp các
quy định về thủ tục đặc biệt mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo trong hoạt động xét xử. Qua việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận, những quy định cũng nhƣ đánh giá thực trạng của bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành
niên, tác giả đã chỉ ra những điểm chƣa hợp lý từ đó đƣa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
+ Đỗ Xuân Hồng (2014), Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn, tác giả nghiên cứu thủ tục xét xử vụ án mà
bị cáo là ngƣời chƣa thành niên đó là tổng hợp các quy định chung về thủ tục
xét xử vụ án hình sự và các quy định về thủ tục đặc thù mang tính chất nhân
đạo đối với bị cáo là ngƣời chƣa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi
nhằm xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng
thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong hoạt động
xét xử. Tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận qua việc đƣa ra khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa và khái quát về lịch sử của thủ tục xét xử vụ án có bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên. Sau đó phân tích các quy định, thực tiễn áp dụng các
quy định đócủa BLTTHS hiện hành và chỉ ra những vƣớng mắc, tồn tại trong
việc áp dụng. Từ đó, tác giả khẳng định nhu cầu cần phải hoàn thiện các quy
định của BLTTHS hiện hành và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật
5
và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử
các vụ án mà bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
- Các bài báo:
+ Nguyễn Thanh Tùng (2012), Thực tiễn xét xử ngƣời chƣa thành niên
phạmtội, đề xuất và kiến nghị, Tạp chí Toà án nhân dân, số 03/2012. Trong
bài viết, tác giả chỉ ra thực trạng ngƣời chƣa thành niên phạm tội và thực tiễn
xét xử qua việc đƣa ra phân tích hai vụ án cụ thể, từ đó nếu ra một số đề xuất,
kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành
niên.
+ Đỗ Thị Phƣợng (2014), Các quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời
chƣa thành niên trong dự thảo bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (sửa đổi), Tạp
chí Luật học, số 12/2014. Nội dung bài viết tác giả nghiên cứu về thủ tục tố
tụng đối với ngƣời chƣa thành niên qua việc đƣa ra các đóng góp về việc sửa
đổi, bổ sung các quy định về thủ tục hiện hành này nhằm góp phần xây dựng,
hoàn thiện các quy định của dự thảo BLTTHS, đảm bảo chất lƣợng giải quyết
các vụ án có ngƣời chƣa thành niên tham gia.
Các bài viết, các công trình khoa học đều tập trung nghiên cứu về thủ tục
tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên nói chung và thủ tục xét xử bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên nói riêng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ vấn đề thủ tục xét
xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên vẫn còn nhiều vƣớng mắc, hạn chế, hơn
nữa chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu về thủ tục xét xử bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do vậy, vấn đề
nàycần đƣợc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
6
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận; Những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng thủ tục xét
xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm
2003 về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
- Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2003 về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015.
Do bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đƣợc ban hành và theo Nghị
quyết số 144/2015/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13 từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa
đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực
thi hành, nên ngoài việc phân tích quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, luận văn còn nghiên cứu một số nội dung liên quan trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của các quy định của pháp luật về thủ tục xét xử mà bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên, qua đó kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm
bảo thi hành để bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam phù hợp hơn trên thực tế
cũng nhƣ phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt đƣợc những mục đích trên, đề tài đặt ra những câu hỏi nghiên
cứu sau đây:
7
+ Khái niệm, cơ sở của việc quy định thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời
chƣa thành là gì? Lịch sử phát triển của thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên nhƣ thế nào?
+ Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và
những điểm mới của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 về thủ tục
xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên nhƣ thế nào?
+ Thực tiễn áp dụng các quy định của bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003 về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên thế nào?Có những
tồn tại, hạn chế là gì? Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần hoàn thiện, kiến
nghị những nội dung gì để hoàn thiện hơn nữa thủ tục này?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục đích đã đề ra của luận văn, tác giả sử dụng phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng pháp quyền XHCN, về pháp luật và đấu
tranh phòng chống tội phạm và chính sách hình sự của Nhà nƣớc.
Về phƣơng pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phƣơng pháp nhƣ:
phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; phƣơng pháp so
sánh;…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình khoa học cấp thạc sỹ nghiên cứu về thủ tục xét xử bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận,
luận văn đƣa ra khái niệm, phân tích cơ sở của việc quy định thủ tục xét xử bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên, cũng nhƣ tìm hiểu khái quát lịch sử phát triển
của thủ tục này góp phần làm giàu thêm nhận thức về thủ tục xét xử bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên.
Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hình sựvề
thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niêncùng với thực tiễn áp dụng các
8
quy định này, kết quả nghiên cứu của luận văn không những chỉ ra những
điểm bất hợp lý trong quy định của pháp luật, mà còn thấy đƣợc cả những khó
khăn, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng nhƣ các kiến nghị khác góp phần đảm
bảo cho việc áp dụng các quy định về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên vào thực tiễn có hiệu quả.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn đƣợc chia thành 2 chƣơng:
Chƣơng I. Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
Chƣơng II. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực
hiện thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
9
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC XÉT XỬ BỊ CÁO LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên
1.1.1. Khái niệm thủ tục xét xử bị cáo là người chưa thành niên
Thủ tục tố tụng là cách thức, trình tự, là nghi thức tiến hành xem xét
một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã đƣợc thụ lý hoặc khởi tố theo các
quy định của pháp luật1.Để đảm bảo tính chính xác, khách quan khi giải quyết
vụ án, đảm bảo sự bình đẳng và lợi ích của các bên trong vụ án, pháp luật quy
định thẩm quyền giải quyết, trình tự giải quyết, trình tự tiến hành cũng nhƣ
quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia. Khi tiến hành giải quyết vụ án,
các cơ quan có thẩm quyền hay các bên tham gia đều bắt buộc thực hiện theo
những cách thức, trình tự này. Thủ tục tố tụng hình sự đƣợc quy định cho việc
giải quyết vụ án hình sự, trong đó có nhiều giai đoạn, xét xử là một trong các
giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bên cạnh thủ tục xét xử vụ
án nói chung đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, thì còn có thủ tục
xét xử chỉ áp dụng cho đối tƣợng đặc biệt, đó là thủ tục xét xử ngƣời chƣa
thành niên. Mặc dù bộ luật tố tụng hình sự hiện hành dành một chƣơng riêng
để quy định về thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niênnhƣng lại không
quy định về khái niệm thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành niên cũng nhƣ
không quy định về khái niệm thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
dẫn việc trên thực tế đã có nhiều cách hiểu khác về thủ tục này.
1
Viện khoa học pháp lý – Bộ tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa và
Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
10
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thủ tục tố tụng hình sự đối với ngƣời bị
bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên là một loại thủ
tục đặc biệt mà phạm vi áp dụng của nó là những quy định tại Chƣơng XXXII
BLTTHS và những quy định khác của BLTTHS không trái với những quy
định của Chƣơng này2.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thủ tục tố tụng đối với ngƣời chƣa thành
niên đƣợc quy định trong BLTTHS là thủ tục đặc biệt đƣợc áp dụng đối với
ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi cho đến dƣới 18
tuổi 3.
Quan điểm thứ ba cho rằng, thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là tổng hợp các quy
định về thủ tục đặc biệt mang tính chất nhân đạo đối với bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo trong hoạt động xét xử 4.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ tìm hiểu khái niệm thủ tục xét xử bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên, đối tƣợng áp dụng là bị cáo là ngƣời chƣa thành
niên, do đó quan điểm thứ nhất đã xác định đƣợc phạm vi áp dụng của thủ tục
nhƣng chƣa xác định rõ độ tuổi của đối tƣợng áp dụng và mục đích quy định
tục đặc biệt này trong BLTTHS năm 2003. Quan điểm thứ hai xác định đƣợc
rõ độ tuổi của đối tƣợng áp dụng, nhƣng không đề cập đến mục đích áp dụng
thủ tục này.
Viện khoa học pháp lý – Bộ tƣ pháp (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam năm 2003, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
3Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội.
4
Nguyễn Thu Huyền (2006), Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành
niên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học quốc gia
HàNội.
2
11
Quan điểm thứ ba là hợp lý vì đã xác định đối tƣợng áp dụng thủ tục
đặc biệt đối với bị cáo là ngƣời chƣa thành niên là ngƣời từ đủ 14 tuổi đến
dƣới 18 tuổi, ngoài ra còn đề cập đến mục đích của việc áp dụng thủ tục này.
Theo tác giả, để nghiên cứu về thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên, trƣớc hết cần thống nhất cách hiểu về ngƣời chƣa thành niên.Theo
quy định tại Điều 1 Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em năm 1990: “Trẻ em là
những ngƣời dƣới 18 tuổi trừ trƣờng hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có
quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh đó thì Quy tắc tối thiểu phổ
biến của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc
Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29/11/1985, tại
quy tắc số 2.2 mục a cũng nêu rõ:“Ngƣời chƣa thành niên là trẻ em hay ngƣời
ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo
một phƣơng thức khác với việc xét xử ngƣời lớn”. Quy tắc Riyadh về phòng
ngừa phạm pháp ở ngƣời chƣa thành niên đƣợc Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 14/12/1990 mặc dù không đƣa ra một cách cụ thể về khái niệm NCTN
song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu NCTN là ngƣời dƣới 18
tuổi.Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia là khác nhau, nên khái
niệm NCTN ở các quốc gia cũng khác nhau, bên cạnh việc đƣa ra các khái
niệm này thì Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em vẫn còn những điều khoản để
ngỏ cho các nƣớc quy định về độ tuổi cho NCTN.
Trên cơ sở của giới hạn độ tuổi của Hiến pháp, qua tham khảo các quy
định của Liên hợp quốc, các văn bản pháp luật Việt Nam cũng giới hạn độ
tuổi cho ngƣời chƣa thành niên.Theo từ điển Tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ
học Việt Nam năm 2000 đã đƣa ra khái niệm về NCTN nhƣ sau: “NCTN là
ngƣời chƣa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng nhƣ
chƣa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân”.
Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm đƣợc thừa nhận trong
quá khứ, dựa trên những thành tựu do các nhà khoa học khác mang lại cũng
12
nhƣ tiếp thu các văn bản pháp luật quốc tế mà khái niệm NCTN, tuỳ theo
từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật mà đƣợc hiểu nhƣ sau:
Điều 18 Bộ luật dân sự quy định: “Ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên là ngƣời
thành niên. Ngƣời chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời chƣa thành niên”; Bộ luật lao
động Việt Nam cũng quy định: “Ngƣời lao động chƣa thành niên là ngƣời
dƣới 18 tuổi”. Còn theo Bộ luật hình sự thì “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự…”.
Nhƣ vậy có thể thống nhất một quan điểm là NCTN là ngƣời dƣới 18
tuổi, điều này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em.
Mặc dù BLTTHS có một chƣơng riêng quy định thủ tục tố tụng đối với
NCTN nhƣng cũng không có quy định nào giải thích, nên khái niệm NCTN
đƣợc dẫn chiếu từ quy định của BLHS. Theo khái niệm tội phạm tại Điều 8
BLHS thì tội phạm phải do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
Ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là ngƣời
đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự) và không
thuộc trƣờng hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
(Điều 13 Bộ luật hình sự)5. Theo Điều 68 Bộ luật hình sự thì “NCTN phạm
tội” bao gồm những ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 18 tuổi. Từ đó có thể định
lƣợng về độ tuổi của NCTN tham gia tố tụng hình sự là từ đủ 14 tuổi đến dƣới
18 tuổi.
Điều 50 bộ luật tố tụng hình sự hiện hành quy định bị cáo là ngƣời đã
bị Toà án quyết định đƣa ra xét xử, nhƣ vậy, căn cứ vào những phân tích trên,
có thể đƣa ra khái niệm bị cáo là NCTN nhƣ sau: “Bị cáo là NCTN là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị Toà án quyết định đưa ra xét xử”. Việc xác
định tuổi của bị cáo là NCTN rất quan trọng vì đây là căn cứ ngăn chặn, áp
dụng các thủ tục đặc biệt đối với bị cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
5
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập 1, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 123.
13
pháp cho NCTN, ngoài ra còn giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định đƣợc
việc xét xử và áp dụng hình phạt đối với NCTN.
Giai đoạn xét xử vụ án hình sự là một trong những giai đoạn của quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đƣợc bắt đầu khi Toà án nhận hồ sơ vụ án hình
sự cùng bản cáo trạng hay quyết định truy tố do Viện kiểm sát chuyển đến và
Toà án vào sổ thụ lý, sau đó xem xét, giải quyết vụ ánvà kết thúc khi Toà án
ra bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Đây là một giai
đoạn tố tụng độc lập, những phán quyết của Toà án ngoài việc dựa trên những
tài liệu chứng cứ mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập trƣớc đó còn
phải dựa vào kết quả điều tra công khai tại phiên toà.
Từ những phân tích trên, có thể thấy đƣợc những dấu hiệu đặc trƣng
của thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên nhƣ sau:
Thứ nhất, đối tƣợng áp dụng của thủ tục đặc biệt này là bị cáo từ đủ 14
tuổi đến dƣới 18 tuổi.
Thứ hai, thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên có những điểm
khác biệt đối với thủ tục xét xử ngƣời thành niên. Khi đối tƣợng áp dụng thủ
tục xét xử này là đối tƣợng đặc biệt, chỉ áp dụng đối với bị cáo từ đủ 14 tuổi
đến dƣới 18 tuổi nên thủ tục xét xử cũng có những nét đặc trƣng: đó là các
quy định về ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng, việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn, đối tƣợng chứng minh, và các thủ tục khác trong xét xử
vụ án.
Thứ ba, thủ tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên đƣợc áp dụng
theo các quy định đặc biệt nhƣng không thể tách rời với thủ tục chung. Dù thủ
tục xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên là thủ tục đặc biệt nhƣng đƣợc thực
hiện trên cơ sở các thủ tục chung, vì nó cũng xuất phát từ những điểm chung
khi giải quyết vụ án hình sự, tuy nhiên các quy định chung này không đƣợc
trái với quy định đặc biệt.
14
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng ta có thể đƣa ra khái niệm
“Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là NCTN” nhƣ sau: “Thủ tục xét xử bị cáo là
NCTN theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là thủ tục đặc biệt mà Toà án
áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm xét xử vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật”.
1.1.2. Cơ sở của việc quy định thủ tục xét xử bị cáo là người chưa
thành niên
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm lý của NCTN
NCTN là ngƣời đang trong quá trình phát triển mạnh cả về thể chất và
tinh thần. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát
triển cơ thể mất cân bằng dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm
xúc của NCTN, dẫn đến NCTN có cảm giác mệt mỏi, dễ nổi nóng, dễ bị kích
động, có hành vi bất thƣờng... Sự mất cân bằng tạm thời này là một trong
những nhân tố có thể dẫn tới việc NCTN không làm chủ đƣợc bản thân hoặc
khi nó đƣợc kết hợp với một số yếu tố tâm lí có tính tiêu cực khác sẽ gây nên
hành vi phạm tội6.
Trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ này, NCTN không còn thỏa mãn
với vai trò thụ động của những ngƣời đƣợc dạy dỗ mà luôn biểu hiện nhu cầu
độc lập. Đó là mong muốn đƣợc tự hành động, tự đƣa ra quyết định theo cách
mà bản thân cảm thấy phù hợp hơn là để thỏa mãn đòi hỏi của xã hội, môi
trƣờng hay là của ngƣời khác. Và sự phát hình thành, phát triển nhu cầu độc
lập ở NCTN là sự phát triển tâm lý có tính tất yếu, hơn nữa còn rất cần thiết,
là cơ sở quan trọng để giúp các em trở thành ngƣời lớn sau này. Thực tế cho
thấy không phải sự hình thành và phát triển nhu cầu độc lập đều có nguy cơ
6
Đặng Thanh Nga và Trƣơng Quang Vinh (2011), NCTN phạm tội – Đặc điểm tâm lý và
chính sách xử lý, NXB Tƣ pháp, Hà Nội, tr.41-43.
15
phạm tội, mà chỉ là nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội khi có nhu cầu độc
lập thái quá kèm theo tính tự chủ kém7.
Hơn nữa, ở lứa tuổi NCTN, kinh nghiệm sống còn quá ít ỏi, đặc biệt là
khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Thực tế cho thấy, nhận thức và
quan niệm về pháp luật của NCTN hình thành chƣa đầy đủ hoặc bị lệch lạc
theo cách hiểu chủ quan của họ, NCTN thực hiện hành vi phạm tội mà không
biết đó là hành vi phạm tội, không thấy đƣợc hết tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi. Vì vậy, có thể nói ý thức về các chuẩn mực xã hội nói chung và
chuẩn mực pháp luật nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển nhân cách của NCTN8.
Ngoài ra, nhu cầu tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong những nhu
cầu tất yếu của lứa tuổi này, giúp nâng cao nhận thức, hiểu biết. Tuy nhiên,
điều đáng lƣu ý đó là lứa tuổi NCTN không chỉ có nhu cầu khám phá cái mới
mà còn tìm tòi, thử nghiệm cái mới, trong đó có cả những cái thiếu lành
mạnh, trái với chuẩn mực xã hội, dẫn đến hành vi phạm tội của NCTN9.
Qua tìm hiểu về các đặc điểm tâm sinh lý của NCTN cho thấy sự cần
thiết phải có những quy định đặc biệt về thủ tục tố tụng đối với NCTN trong
BLTTHS nói chung và thủ tục tố tụng trong việc xét xử bị cáo là NCTN nói
riêng để giải quyết vụ án một cách hiệu quả.
Thứ hai, xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối
với bị cáo là NCTN.
Quan điểm của Nhà nƣớc Việt Nam về vấn đề giải quyết đối với NCTN
phạm tội đƣợc ghi nhận tại Điều 69 Bộ luật hình sự, đó là nhằm giúp đỡ, giáo
dục họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho
7
Đặng Thanh Nga, tlđd chú thích 2, tr.46-51.
Đặng Thanh Nga, tlđd chú thích 2, tr.57-59.
9
Đặng Thanh Nga, tlđd chú thích 2, tr.64.
8
16
xã hội. Sự quan tâm đến NCTN dù họ là ngƣời bị buộc tội thể hiện chính sách
nhân đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Dựa trên nguyên tắc này, theo đó BLTTHS cũng quy định những thủ
tục tố tụng đặc biệt thể hiện sự phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi NCTN, trên
tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá và các quyền tự do cơ bản của NCTN
cũng nhƣ tăng cƣờng lòng tôn trọng của trẻ em đối với các quyền con ngƣời
và các quyền tự do cơ bản khác nhằm mục đích giáo dục, thúc đẩy sự tái hoà
nhập của ngƣời chƣa thành niên trong cộng đồng, tránh làm cho các em có
những ác cảm, mặc cảm với mọi ngƣời, với xã hội
10
. Các quy định của
BLTTHS về việc giao bị cáo là NCTN cho cha, mẹ hoặc ngƣời giám hộ giám
sát, theo dõi tƣ cách, đạo đức và giáo dục ngƣời đó để các em có cơ hội tiếp
xúc, hoà đồng với xã hội, đảm bảo việc học tập và quá trình tâm sinh lý
không bị gián đoạn; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trƣờng, tổ chức;
sự tham gia bắt buộc của ngƣời bào chữa tại phiên toà xét xử bị cáo là NCTN;
việc hội đồng xét xử phải có một hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh… đều là những quy định thể hiện
chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với bị cáo là NCTN.
Nhƣ vậy có thể thấy những quy định của thủ tục tố tụng đối với bị cáo
là NCTN trong BLTTHS Việt Nam không nhữngđã tạo cơ sở để bảo vệ
quyền và lợi ích của bị cáo là NCTN mà còn thể hiện đƣợc chính sách nhân
đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với đối tƣợng đặc biệt này.
Thứ ba, xuất phát từ việc đảm bảo tính phù hợp với pháp luật Quốc tế
về quyền trẻ em.
Việt Nam là nƣớc châu Á đầu tiên và là nƣớc thứ hai trên thế giới tham
gia ký kết phê chuẩn Công ƣớc Quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em từ
10
Đỗ Thị Phƣợng – Lê Cảm (2004), “Tƣ pháp hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên:
Những khía cạnh pháp lý hình sự, TTHS, tội phạm học và so sánh luật học”, Phần thứ hai,
Tạp chí Toà án nhân dân,(21), tr.3.
17
ngày 20/02/1990. Ngoài ra Việt Nam còn tham gia ký kết các văn bản pháp
luật quốc tế khác nhƣ: Quy tắc Bắc Kinh (năm 1985); Quy tắc Riyadh (năm
1990). Chính vì vậy, khi xây dựng những quy định về thủ tục tố tụng đối với
việc xét xử bị cáo là NCTN không chỉ phù hợp với chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nƣớc ta mà còn phù hợp với những văn bản pháp luật Quốc tế
mà Việt Nam tham gia ký kết. Có thể nói, những cam kết về mặt pháp lý và
các hoạt động tích cực nhằm bảo vệ quyền trẻ em trên mọi lĩnh vực ( trong đó
có lĩnh vực luật TTHS) là những bằng chứng thể hiện sự hợp tác chặt chẽ của
Việt Nam đối với nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam 11.
Cụ thể, Công ƣớc quốc thế về quyền trẻ em và các chuẩn mực quốc tế
luôn đề cao nguyên tắc “đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em” làm tƣ tƣởng
chủ đạo để xây dựng các chính sách và hoạt động liên quan đến NCTN12. Tại
Điều 40 Công ƣớc quốc tế quy định: “Các quốc gia thành viên công nhận
quyền của mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm pháp
luật hình sự, đƣợc đối xử theo cách thức phù hợp với việc bị cổ vũ ý thức của
trẻ về phẩm cách và phẩm giá nhằm làm tăng cƣờng lòng tôn trọng của trẻ em
đối với những quyền con ngƣời và tự do cơ bản của ngƣời khác và cũng phải
tính đến lứa tuổi của trẻ em và hƣớng tới thúc đẩy sự tái hoà nhập và việc
đảm đƣơng một vai trò xây dựng của trẻ em trong xã hội”.Điều 40 của Công
ƣớc cũng yêu cầu các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc thành lập một hệ
thống tƣ pháp NCTN riêng và đặc biệt là ban hành các đạo luật quy định trình
tự, thủ tục, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho NCTN vi phạm pháp
11
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tƣ pháp (1993), Quyền trẻ em trong pháp luật
Việt Nam, thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội, tr. 2, trích trong tài liệu: “Đỗ Thị Phƣợng
(2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội,
tr.34”
12
Nguyễn Đức Mai (1999), “Chế độ giám hộ đối với ngƣời chƣa thành niên”, Tạp chí Toà
án nhân dân,(10), tr.2.
18
luật. Ngoài ra, tại Quy tắc 12 của Quy tắc Bắc Kinh cũng nêu rõ: “cần nỗ lực
thiết lập trên vùng lãnh thổ thuộc quyền tài phán quốc gia một hệ thống luật
pháp, quy tắc và điều khoản áp dụng riêng cho NCTN, cũng nhƣ các thiết chế
và cơ quan đƣợc giao đảm trách nhiệm vụ quản lý tƣ pháp NCTN”.
Mặc dù các quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN còn chƣa đƣợc
đầy đủ, nhƣngtừ khi xây dựng BLTTHS, chúng ta đã dành một chƣơng riêng
để quy định về thủ tục này. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định này
ngày càng hoàn thiện. Trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay, bên cạnh
những đổi mới về hệ thống tƣ pháp, cán bộ tƣ pháp, Đảng và Nhà nƣớc ta vẫn
chú trọng tới việc bảo về quyền và lợi ích của NCTN thông qua việc hoàn
thiện các quy định của BLTTHS đối với NCTN, xây dựng các Toà chuyên
trách, đào tạo cán bộ… Điều này đã thể hiện rõ chính sách hình sự của nƣớc
ta cũng nhƣ thể hiện sự phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế mà
Việt Nam tham gia ký kết.
Tóm lại, từ những cơ sở đã đƣợc phân tích ở trên, BLTTHS Việt Nam
đã quy định những thủ tục tố tụng đặc biệt đối với NCTN, thể hiện một cách
tích cực nhất về chính sách nhân đạo, sự quan tâm đặc biệt của của Đảng và
Nhà nƣớc ta, để đảm bảo quyền và lợi ích cho NCTN khi tham gia tố tụng,
đồng thời góp phần giải quyết vụ án đƣợc khách quan và chính xác.
1.1.3. Khái quát lịch sử phát triển của thủ tục xét xử đối với bị cáo là
người chưa thành niên
Hơn sáu mƣơi năm qua, pháp luật Việt Nam đã tạo cở sở pháp lý cho
việc xây dựng, củng cố chính quyền nhà nƣớc, cho các cuộc kháng chiến cứu
nƣớc thắng lợi, đảm bảo và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, tổ
chức đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội theo hƣớng ngày càng tiến bộ.Trong
quá trình hình thành và phát triển đó, pháp luật Việt Nam nói chung và thủ tục