Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.97 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ THANH NGA

NGUYÊN TẮC CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI- 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
GIẢNG DẠY

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PGS. TS. NGUYỄN MINH HẰNG



PHẠM THỊ THANH NGA


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS
BLTTDS 2004
BLTTDS 2015
HĐXX
KSV
PLTTGQCVADS 1989

:
:
:
:
:

PLTTGQCVAKT 1994 :
PLTTGQCTCLĐ 1996 :
TANDCC
TANDTC
TTDS
TTHS
VADS
VVDS
VKS

:

:
:
:
:
:
:

Bộ luật Tố tụng dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Hội đồng xét xử
Kiểm sát viên
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
năm 1994
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động năm 1996
Tòa án nhân dân cấp cao
Tòa án nhân dân tối cao
Tố tụng dân sự
Tố tụng hình sự
Vụ án dân sự
Vụ việc dân sự
Viện kiểm sát


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
Phần mở đầu………………………………………………....................
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN
TẮC CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ……..
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc chứng minh trong
tố tụng dân sự………………………………………………..............
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc chứng minh và các nguyên tắc
khác trong tố tụng dân sự………………………………….………..
1.3. Cơ sở của việc pháp luật ghi nhận nguyên tắc chứng minh
trong tố tụng dân sự……………………………………….………..
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………….……..
Chương 2. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC CHỨNG MINH THEO
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH…………………………..……………..
2.1. Quy định chung về nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự
2.2. Quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc chứng minh trong
thủ tục giải quyết vụ án tại tòa áncấp sơ thẩm…………………………
2.3. Quy định cụ thể về việc thực hiện nguyên tắc chứng minh trong
thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm……………………
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………….….......
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ…..
3.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện nguyên tắc chứng minh
trong tố tụng dân sự. ……………………………………….……….
3.2. Những tồn tại, hạn chế khi thực hiện nguyên tắc chứng minh
trong tố tụng dân sự và kiến nghị………………………….………..
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3………………………….…………………...
KẾT LUẬN………………………….………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1
9
9
26
29
33

34
34
38
61
69
70
70
72
89
90


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng dân sự là một hoạt động bao gồm nhiều giai đoạn với những trình
tự, thủ tục để Tòa án giải quyết các VADS. Trong suốt quá trình tố tụng, ở mỗi
giai đoạn, pháp luật TTDS đều có những quy định riêng, cụ thể nhằm đảm bảo
tính khách quan, chính xác trong việc giải quyết từng vụ việc.
Chứng minh là hoạt động TTDS cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng, xuyên

suốt quá trình tố tụng. Theo đó, các chủ thể tố tụng (đương sự, Tòa án,
VKS…) bằng những biện pháp thu thập chứng cứ do luật định thực hiện nghĩa
vụ, trách nhiệm chứng minh nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của
VADS. Trong quá trình tố tụng này, nguyên tắc chứng minh là một trong
những nguyên tắc cơ bản, đặc trưng nhất của TTDS so với các loại hình tố
tụng khác.
Về phương diện pháp lý, nguyên tắc chứng minh được hoàn thiện dần
qua từng thời kỳ với lần lượt các văn bản: Từ PLTTGQCVADS 1989 tới
PLTTGQCVAKT 1994, PLTTGQTCLĐ 1996 và được hệ thống một cách
tổng quát hơn trong BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và BLTTDS
2015. Dù quy định dưới góc độ là nghĩa vụ, quyền hay là một nguyên tắc thì
trong các quy định liên quan đến quá trình tố tụng dân sự, nguyên tắc chứng
minh giữ vai trò quan trọng, chi phối việc giải quyết đúng đắn, chính xác các
vụ việc dân sự. Từ phương diện lý luận, các quy định về nguyên tắc chứng
minh vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung hoàn thiện hơn, đặc biệt trong bối cảnh BLTTDS 2015 được Quốc hội
Khóa 13 thông qua ngày 25/11/2015 theo Luật số 92/2015/QH13 có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/7/2016 với những sửa cơ bản liên quan đến chế định
chứng cứ và chứng minh cũng như nguyên tắc chứng minh trong TTDS. Thực
tiễn xét xử áp dụng nguyên tắc chứng minh trong TTDS ở Tòa án các cấp cũng
bộc lộ không ít bất cập, còn có trường hợp áp dụng chưa chính xác. Điều này
làm cho hoạt động chứng minh trong thực tiễn còn nhiều bất cập dẫn đến tình
trạng tỉ lệ án bị hủy, án bị sửa, án quá hạn, giải quyết nhiều lần còn cao.
Với những lý do đó, học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc


2

chứng minh trong Tố tụng dân sự” với mong muốn góp phần làm rõ hơn một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc chứng minh trong Tố tụng dân sự,

từ đó đề xuất những giải pháp để áp dụng pháp luật thống nhất trong thực tiễn
xét xử ở hệ thống Tòa án, hướng đến việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc chứng
minh trong tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc chứng minh là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong
TTDS nên việc nghiên cứu đề tài liên quan đến “Nguyên tắc chứng minh trong
TTDS” cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác của nhiều tác
giả và ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước
đây chủ yếu đề cập ở khía cạnh là một trong các giai đoạn của hoạt động
chứng minh, hoặc dưới góc độ là một quyền và nghĩa vụ của chủ thể là đương
sự. Các đề tài đó thuộc các tài liệu chuyên khảo, các tạp chí và luận văn, có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Luận văn “Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong TTDS Việt Nam”
của tác giả Vũ Trọng Hiếu (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại trường đại
học luật Hà Nội năm 1998). Luận văn giải quyết các vấn đề lý luận về chứng
cứ và chứng minh trong TTDS; phân tích một cách hệ thống các quy định
trong BLTTDS về hoạt động chứng minh của các chủ thể trong TTDS. Từ đó,
kiến nghị một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hoạt động
chứng minh.
- Luận văn Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
dân sự của tác giả Tăng Hoàng My (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại
trường đại học luật Hà Nội năm 2012). Luận văn giải quyết các vấn đề lý luận
về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS. Tiếp cận nghiên
cứu với hai chủ thể là đương sự và Tòa án, trong đó đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh, còn Tòa án hỗ trợ đương sự trong việc thực
hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh. Kết quả nghiên cứu luận văn
đã phần nào đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS, từ đó đưa ra những yêu cầu cơ bản để hoàn thiện và
thực hiện pháp luật về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh.



3

- Luận án “Chế định chứng minh trong TTDS Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Minh Hằng (Luận án tiến sỹ luật học, bảo vệ tại trường Đại học luật
Hà Nội năm 2007). Luận án đã luận giải sâu sắc những vấn đề lý luận cơ bản
về chế định chứng minh, cũng như tiếp cận vấn đề nghiên cứu sự hình thành,
phát triển của các quy định điều chỉnh về hoạt động chứng minh dưới góc nhìn
lịch sử hình thành và phát triển của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, từ đó
chỉ ra được sự kế thừa và phát triển trong các quy định điều chỉnh về hoạt động
chứng minh của Bộ luật tố tụng dân sự; Bên cạnh đó, luận án tìm ra được cơ sở
lý luận của việc hình thành chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt
Nam xuất phát từ lý luận triết học Mác – Lênin và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số vấn đề khác về lý luận chứng minh.
Qua đó, xây dựng một số khái niệm về các vấn đề liên quan đến chứng minh.
Nghiên cứu nội dung hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam cũng như đánh giá thực tiễn thực hiện chế định chứng minh, cách
thức áp dụng chế định chứng minh trong giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đề xuất nhiều giải pháp
nhằm hoàn thiện chế định chứng minh trong TTDS.
- Luận văn “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” của
tác giả Trịnh Văn Chung (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại Đại học quốc
gia Hà nội năm 2016)
- Sách chuyên khảo “Hoạt động chứng minh trong Pháp luật TTDS Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng – Nhà xuất bản chính trị - Hành chính,
năm 2009.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một nội
dung nào đó của chế định chứng cứ, chứng minh trong TTDS như: Bài viết
“Thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự” của tác giả Bùi Thị Huyền, tạp
chí luật học số 01/2002; Bài viết “Tập quán – Nguồn luật hay nguồn chứng

cứ” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/5-2004; Bài
viết “Một số ý kiến sung quanh vấn đề chứng cứ” của tác giả Nguyễn Văn
Khuê, tạp chí kiểm sát, số 10/2004; Bài viết “Một vài suy nghĩ về vấn đề
chứng cứ và chứng minh được quy định trong Bộ luật TTDS” của tác giả


4

Tưởng Duy Lượng, tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2004 và số 11/2004; Bài
viết “Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong BLTTDS” của tác giả Trần Văn
Trung, tạp chí kiểm sát số 12/2004; Bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong
TTDS” của tác giả Dương Trung Thành, tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2004;
Bài viết “Chứng cứ và chứng minh trong TTDS” của tác giả Hoàng Ngọc
Thỉnh, tạp chí luật học năm 2004 – Đặc san góp ý dự thảo BLTTDS; Bài viết
“Bàn về chế định chứng cứ và chứng minh trong TTDS” của tác giả Phạm
Thái Quý, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số 12/2008; Bài viết
“Một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTDS về giám định, chi phí giám đinh, định giá, án phí cùng một số kiến
nghị” của tác giả Phạm Minh Tuyên, tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2008; Bài
viết “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách nhiệm chứng
minh trong TTDS” của tác giả Nguyễn Minh Hằng, tạp chí kiểm sát, số
20/2012…
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy, các công
tình này mới dừng lại ở việc nghiên cứu một khía cạnh trong nguyên tắc chứng
minh trong TTDS, như: quyền, nghĩa vụ, hoạt động, thời hạn chứng minh...
Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu hệ thống, toàn diện về
nguyên tắc chứng minh trong TTDS. Những nội dung nghiên cứu trong Luận
văn này không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào đã
được công bố trước đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về chứng minh
và nguyên tắc chứng minh trong TTDS, thực tiễn thực hiện các quy định của
pháp luật Việt Nam về những quy định này. Liên quan đến đề tài, có nhiều nội
dung khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ tác giả không thể xem
xét giải quyết hết mọi vấn đề mà chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các nội
dung sau:


5

- Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở các quy định về chứng minh để hình
thành lên nguyên tắc chứng minh trong TTDS Việt Nam;
- Nội dung và một số quy định liên quan đến tranh tụng trong TTDS hiện
hành của Việt Nam, có đánh giá những tiến bộ trong tinh thần pháp luật so với
BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) và đối chiếu với các quy định về
nguyên tắc chứng minh trong BLTTDS của một số nước trên thế giới;
- Những thành tựu đạt được và hạn chế, nguyên nhân thực hiện nguyên
tắc chứng minh trong TTDS. Từ đó đưa ra một số kiến nghị về xây dựng pháp
luật và thi hành pháp luật để hoàn thiện và nâng cao vai trò của nguyên tắc
chứng minh trong TTDS.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu có phạm vi rất rộng, do đó tác giả giới hạn nội dung
nghiên cứu trong các quy định của BLTTDS 2015 về nguyên tắc chứng minh,
có đối chiếu so sánh với quy định của BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm
2011 đối với thủ tục án ở hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Luận văn
không nghiên cứu về việc thực hiện nguyên tắc chứng minh trong thủ tục rút
gọn, thủ tục việc và ở thủ tục xét xử đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm.

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc chứng minh trong
TTDS, trên cơ sở xây dựng, phân tích khái niệm, đặc điểm, cơ sở ý nghĩa của
nguyên tắc chứng minh, tìm ra mối quan hệ, sự chi phối của nguyên tắc chứng
minh tới các nguyên tắc khác trong TTDS, để từ đó làm sáng tỏ vai trò quan
trọng của nguyên tắc chứng minh trong suốt quá trình giải quyết các VADS.
Tiếp cận nghiên cứu bằng phương pháp hệ thống các quy định của pháp
luật TTDS về nguyên tắc chứng minh trong TTDS, phân tích nội dung các quy
định pháp luật về nguyên tắc chứng minh đến thực tiễn thực hiện quy định này
trong TTDS nhằm tìm ra những thành công, nguyên nhân của những thành
công và những điểm hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong các quy


6

định pháp luật về nguyên tắc chứng minh trong trong tố tụng dân sự. Kết quả
nghiên cứu nhằm đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc
chứng minh, cũng như việc áp dụng quy định pháp luật về nguyên tắc chứng
minh trong tố tụng dân sự trên thực tế đạt được hiệu quả hơn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc chứng minh trong
tố tụng dân sự.
- Nghiên cứu nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về nguyên tắc chứng minh.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của Pháp luật TTDS trong
BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) về nguyên tắc chứng minh. Từ đó,
phân tích nguyên nhân dẫn tới sự những thay đổi trong quy định về nguyên tắc
chứng minh trong BLTTDS 2015, đồng thời đánh giá khả năng hiện thực của các
quy định đó trong thực tế hoạt động tố tụng dân sự và đề xuất giải pháp nhằm

đảm bảo thực thi các quy định pháp luật về nguyên tắc chứng minh.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận văn phải trả lời được các câu hỏi
sau đây:
- Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, ý nghĩa của nguyên tắc chứng minh và mối
quan hệ của nguyên tắc chứng minh với các nguyên tắc khác trong TTDS là
gì?
- Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về nguyên tắc chứng minh ra
sao? Có những điểm tương thích và khác biệt với nguyên tắc chứng minh trong
quy định TTDS của một số quốc gia trên thế giới như thế nào?
- Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật TTDS về nguyên tắc chứng
minh trong năm 2015 ra sao? Có những ưu điểm, hạn chế vướng mắc gì?
Nguyên nhân của thực trang đó là gì?
- Khả năng thực hiện nguyên tắc chứng minh trong TTDS theo quy định
tại BLTTDS 2015 ra sao? Những vướng mắc trong các quy định về nguyên tắc
chứng minh tại BLTTDS 2015 là gì?
- Cần giải quyết nhứng tồn tại trên như thế nào?


7

6. Phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ
trương, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS, Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của BLTTDS.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích,
tổng hợp, lôgic, lịch sử, qui nạp, sử dụng kết quả thống kê; phương pháp so

sánh luật học được sử dụng để đối chiếu so sánh và tổng hợp các quy định của
pháp luật nước ngoài với pháp luật Việt Nam... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề
trong nội dung luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý toàn diện, có hệ
thống về cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc chứng minh trong Pháp luật
TTDS Việt Nam. Luận văn có các ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện khái niệm về nguyên tắc chứng minh trong
pháp luật TTDS Việt Nam, phân tích rõ bản chất, ý nghĩa và đặc điểm của nguyên
tắc chứng minh trong pháp luật TTDS Việt Nam.
Thứ hai, các quy định về nguyên tắc chứng minh theo quy định của pháp
luật TTDS Việt Nam hiện hành được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn
diện cả trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Thứ ba, Nghiên cứu thực trạng áp dụng nguyên tắc chứng minh trong
thực tiễn xét xử hiện nay, đánh giá khách quan khả năng hiện thực hóa của quy
định pháp luật về nguyên tắc chứng minh trong BLTTDS 2015. Phát hiện các
vấn đề và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện
pháp luật TTDS Việt Nam về nguyên tắc chứng minh.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy,
tham khảo ở bậc Đại học, các trường đào tạo nghề trong lĩnh vực tư pháp và là tư
liệu có giá trị để các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn tham khảo
trong nghiên cứu khoa học TTDS.


8

7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục;
Luận văn này gồm 3 chương như sau:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc chứng minh

trong TTDS.
- Chương 2. Nội dung nguyên tắc chứng minh theo quy định pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành.
- Chương 3. Thực trạng áp dụng nguyên tắc chứng minh trong hoạt động
TTDS hiện hành và kiến nghị.


9

CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của nguyên tắc chứng minh trong
tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong khoa học pháp lý, trình tự, thủ tục giải quyết VVDS được gọi là “tố
tụng dân sự” còn tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong tố tụng dân sự thành một ngành luật được gọi là luật tố tụng dân sự.
“Luật tố tụng dân sự Việt Nam là ngành luật trong hệ thống pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết VVDS nhằm bảo đảm
việc giải quyết VVDS nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước”1. TTDS là một quá trình
bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như khởi kiện, lập hồ sơ, hoà giải VVDS
đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm VVDS và xét lại bản án, quyết định của Toà án
đã có hiệu lực pháp luật. Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật tố
tụng dân sự được hình thành giữa một bên là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ,
quyền hạn giải quyết VVDS và bên kia là các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Xuất phát từ yêu cầu của giải quyết VVDS nên trong các quan hệ này không

có sự bình đẳng giữa các bên. Trong đó, Toà án, Viện kiểm sát là các chủ thể
có vai trò có tính quyết định đối với quá trình giải quyết VVDS. Quyết định
của các cơ quan này về giải quyết VVDS được bảo đảm thi hành bằng cưỡng
chế nhà nước, buộc các chủ thể khác phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Tố tụng dân sự được thực hiện tuân thủ theo hệ thống những nguyên tắc
cơ bản được pháp điển hóa. Theo từ điển Tiếng Việt, nguyên tắc được hiểu là
“điều cơ bản đã được định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc

Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.8.
1


10

làm”2. Như vậy, nhắc tới nguyên tắc là đề cập tới hai vấn đề: Một là, mức
chuẩn mực cơ bản do con người định ra, bao hàm cả tính khách quan và tính
chủ quan. Tính khách quan thể hiện là “điều cơ bản” – nói cách khác, xuất phát
từ bản chất của sự việc, còn tính chủ quan thể hiện trong việc ghi nhận nguyên
tắc được “định ra” bởi con người, ảnh hưởng bởi ý chí của con người, dù sự
việc có khách quan nhưng đứng ở góc độ mỗi người tại những hoàn cảnh khác
nhau, việc định ra nguyên tắc cũng có những điểm khác biệt. Hai là, tư tưởng
chỉ đạo, định hướng chung mà toàn bộ hoạt động trong một lĩnh vực phải tuân
theo – tính bắt buộc. Với cách hiểu này, nguyên tắc của ngành luật là tư tưởng
chính trị, pháp lý cơ bản được định ra để định hướng chung cho toàn bộ các
quy định cụ thể điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định.
“Nguyên tắc của luật TTDS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định
hướng cho việc xây dựng và thực hiện Pháp luật TTDS và được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật TTDS”.3 Các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS là
những quy tắc xử sự cơ bản có hiệu lực pháp luật bao trùm nhất, đối với việc

xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS, được thừa nhận rộng rãi, hay là những
quy phạm chung với mục đích chỉ đạo, mang tính chất cơ sở, nền tảng cho toàn
bộ quy trình TTDS. Vì vậy, các nguyên tắc này sẽ không ghi nhận những mệnh
lệnh cụ thể như: cho phép, bắt buộc, cấm đoán, … mà thể hiện một cách cô
đọng nhất bản chất, những đặc trưng cơ bản của TTDS. Nội dung của các
nguyên tắc cơ bản được triển khai, phát triển cụ thể trong toàn bộ các quy
phạm của pháp luật TTDS và vì vậy các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS
quyết định toàn bộ kết cấu của quy trình TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS 2015 được hoàn thiện trên cơ sở
kế thừa và phát triển các nguyên tắc cơ bản đã được thừa nhận trong BLTTDS
năm 2004, sửa đổi năm 2011 trong đó có nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS. Theo Từ điển Tiếng Việt, chứng minh là “làm cho
thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc lí lẽ”4. Với cách hiểu này, chứng

Từ điển Tiếng Việt (2003). Nxb. Đà Nẵng, tr. 694.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.29.
4 Từ điển Tiếng Việt (2003). Nxb. Đà Nẵng, tr. 192.
2
3


11

minh trong TTDS là làm rõ các tình tiết, vấn đề, sự kiện của VADS, là có thật
bằng các chứng cứ, lí lẽ và lập luận.
Theo Từ điển Luật học, chứng minh trong TTDS là:
Hoạt động tố tụng của chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật tố
tụng trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của VVDS.
Chứng minh trong TTDS bao gồm các hoạt động tố tụng như cung

cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, vv. Chứng minh được các
chủ thể tố tụng thực hiện trong suốt quá trình giải quyết VVDS. Các chủ
thể chứng minh trong TTDS bao gồm các đương sự, người đại diện,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của người khác. Trong đó, các đương
sự là chủ thể chứng minh chủ yếu. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp; đương sự phản đối yêu cầu của
người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và
phải đưa ra chứng cứ để chứng minh; đương sự có nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không
đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh
được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
Các tình tiết, sự kiện phải chứng minh trong VVDS bao gồm: tình
tiết, sự kiện mà quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự phụ thuộc vào
nó và các tình tiết, sự kiện khác có ý nghĩa cho việc giải quyết VVDS. Các
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh trong VVDS bao gồm: tình tiết,
sự kiện rõ rang mà mọi người đều biết; những tình tiết, sự kiện đã được
xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, những tình tiết,
sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp
pháp.5

5

Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa, Nxb. Tư pháp. Hà Nội, tr. 166.


12


Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả kết quả giải quyết VVDS. Quá
trình chứng minh kéo dài trong suốt quát trình giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt
động chứng minh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự bao gồm nhiều hoạt
động khác nhau của các chủ thể tố tụng, nhưng chủ yếu và mang tính quyết
định là các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Tính thiết yếu của các hoạt động này cũng được khẳng định trong nhiều công
trình nghiên cứu liên quan đến “chứng minh trong TTDS”. Theo đó, chứng
minh trong TTDS là “tổng thể các hoạt động của Tòa án và các chủ thể tham
gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ …
nhằm mục đích sử dụng chứng cứ để xác định sự thật khách quan của VVDS”6,
hay cụ thể hơn, “chứng minh trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể
tố tụng trong việc cung cấp, thu thập nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng
cứ để xác định sự thật khách quan của VVDS”7. Ở một số giáo trình, khái niệm
chứng minh được ghi nhận là“một quá trình bao gồm hoạt động của Tòa án và
những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án”8…
Có thể nói, tất cả các định nghĩa trên đều khẳng định chứng minh trong
TTDS là chuỗi tổng thể các hoạt động TTDS bao gồm: cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, nhằm mục đích làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ việc. Việc chứng minh thực chất là hoạt động của tư duy nhằm
tìm ra căn cứ. lý lẽ logíc cho tính chân thực của luận điểm nào đó cần được bảo
vệ trên cơ sở những vấn đề mà chứng cứ bộc lộ, mà việc tư duy còn mang theo
ý chí chủ quan của người chứng minh. Như vậy, tính khách quan của vụ việc
trong chứng minh chỉ mang tính tương đối.
Trong quá trình giải quyết các VADS, hoạt động giải quyết các VADS là
hoạt động phát sinh trên cơ sở có tranh chấp về quan hệ pháp luật dân sự (quan
hệ pháp luật nội dung) giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau. Khi tranh chấp
bị nâng lên tới ngưỡng mà các bên không thể tự giải quyết và cần một bên thứ
Nguyễn Minh Hằng (2007), Chế định chứng minh trong TTDS Việt Nam, Luận văn tiến sĩ, trường Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 9.
7 Vũ Văn Đồng (2006), Chứng minh và vấn đề chứng minh trong BLTTDS, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 15.
8 Kỹ năng giải quyết các VADS (2006), Nxb. Thống Kê, Hà Nội, tr. 81.
6


13

ba tham gia với vai trò phán xét tính đúng đắn trong tranh chấp hai bên thì Nhà
nước, mà đại diện là Tòa án sẽ tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó
với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng xét xử VADS đó. Nhưng, bản thân
Tòa án, cụ thể là Thẩm phán được phân công giải quyết VADS không thể biết
về các tình tiết, sự kiện trong vụ án đó rõ như chính các đương sự. Chính vì thế
để hoạt động TTDS có thể diễn ra, thì một trong những nguyên tắc quan trọng,
đặt nền tảng cho quá trình giải quyết các VADS đó chính là nguyên tắc chứng
minh trong TTDS của đương sự. Hoạt động chứng minh trong TTDS là hoạt
động cần thiết để giải quyết VADS. Tuy nhiên, chủ thể thực hiện và cách thức
thực hiện được pháp luật ghi nhận
trong các thời kỳ có sự khác biệt.
Có thể hiểu, nguyên tắc chứng minh trong TTDS là những tư tưởng chỉ
đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật để giải quyết VVDS,
chi phối mọi hành vi tố tụng dân sự của các chủ thể chứng minh thực hiện hoạt
động chứng minh trong tố tụng dân sự.
Theo đó, nguyên tắc chứng minh đề ra hai tư tưởng chỉ đạo, định hướng
cho việc xây dựng một loạt các quy định cụ thể về việc chứng minh để giải
quyết VVDS, cũng như chi phối mọi hành vi tố tụng của các chủ thể chứng
minh, bao gồm:
Thứ nhất, đương sự chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của mình.
Đây là định hướng đương nhiên của nguyên tắc chứng minh, xuất phát từ

chính nền tảng của quan hệ dân sự là quan hệ giữa các bên, việc đề xuất định
hướng này tạo cơ hội cho các bên đương sự tham gia giải quyết vụ việc của
mình một cách khuôn khổ, là nền tảng cho hoạt động chứng minh của chính
các đương sự trong toàn bộ quá trình TTDS. Đồng thời, chi phối giản tiếp hoạt
động của các chủ thể tố tụng dân sự khác liên quan tới hoạt động chứng minh
của đương sự. Hoạt động chứng minh không thể tách rời chủ thể chứng minh
là đương sự. Định hướng, đích cuối cùng của hoạt động chứng minh chính là
“yêu cầu” và “phản yêu cầu” của đương sự.
Thứ hai, Tòa án hỗ trợ đương sự chứng minh. Đây là tư tưởng chỉ đạo
hoàn toàn mới trong nguyên tắc chứng minh, Xét về mối quan hệ, thì đây là tư


14

tưởng chỉ đạo có tính chất bổ trợ cho tư tưởng chỉ đạo trên, đồng thời nó cũng
khẳng định tầm quan trọng, vai trò của Tòa án – một trong những chủ thể
chứng minh trong TTDS là “hỗ trợ” hoạt động chứng minh của đương sự. Với
việc khẳng định tư tưởng chỉ đạo này, các quy định pháp luật về hoạt động
chứng minh, về các hoạt động của Tòa án phải có mối liên kết nhất định, ràng
buộc lẫn nhau, để đảm bảo việc “hỗ trợ” chứng minh cho đương sự.
1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự
Một là, nguyên tắc chứng minh là một nguyên tắc đặc trưng của ngành
Luật tố tụng dân sự. Với tư cách là nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc chứng minh
mang đầy đủ tất cả các đặc trưng của một nguyên tắc cơ bản trong TTDS, bao
gồm: tính chủ quan, tính khách quan, tính giai cấp và tính ổn định.
- Tính khách quan: Nguyên tắc chứng minh trong TTDS được hình thành
trên cơ sở phản ánh những những quan hệ phát sinh trong hoạt động chứng
minh khi giải quyết các VADS. Cụ thể, đó là những quan hệ TTDS giữa người
tham gia tố tụng với cơ quan (người) tiến hành tố tụng, giữa những người tham
gia tố tụng với nhau, giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau khi thực hiện

hoạt động chứng minh. Bên cạnh đó, để hệ thống hóa hoạt động chứng minh
thành nguyên tắc cơ bản trong TTDS, cần sự nhìn nhận vấn đề một cách tổng
quát, khách quan từ các nhà làm luật. Vì thế những nguyên tắc cơ bản trong
TTDS được hình thành trên cơ sở các quan hệ TTDS cũng mang tính khách
quan.
- Tính chủ quan: Mặc dù được hình thành trên cơ sở quan hệ TTDS của
các chủ thể chứng minh trong TTDS, cũng như cách nhìn tổng quát của các
nhà làm luật. Song, do ảnh hưởng từ môi trường sống, môi trường giáo dục và
làm việc nên đối với mỗi sự vật, sự kiện thường được tiếp cận ở nhiều góc nhìn
khác nhau. Chính vì thế, việc xây dựng các nguyên tắc cơ bản trong TTDS này
luôn mang theo một phần tư tưởng chủ quan của nhà làm luật.
- Tính giai cấp: Việc hình thành các nguyên tắc cơ bản trong TTDS chịu
ảnh hưởng vào tư tưởng của các nhà làm luật. Yếu tố lớn nhất tác động đến tư
tưởng của các nhà làm luật chính là hệ tư tưởng, văn hóa, của mỗi quốc gia,
mỗi nhà nước, mỗi thời điểm lịch sử nhất định. Do đó, việc xây dựng nguyên


15

tắc chứng minh trong TTDS cũng chịu tác động từ tính giai cấp (trong nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa thì tính giai cấp khá mờ nhạt)..
- Tính ổn định: Nguyên tắc chứng minh trong TTDS có tính ổn định
tương đối trong từng thời kỳ. Sự ổn định tương đối được xuất phát từ hai khía
cạnh: (i) Nguồn gốc hình thành của các nguyên tắc này là từ các quan hệ của
các chủ thể chứng minh trong TTDS, sự biến động của nguyên tắc chứng minh
trong TTDS phụ thuộc vào biến động của các quan hệ đó. Các quan hệ được
điều chỉnh trong luật thường là các quan hệ chung có tính ổn định cao. (ii) Khi
tiến hành xây dựng các nguyên tắc cơ bản trong TTDS, các nhà làm luật phải
tiếp cận ở khả năng thực thi của quy định đó trong một giai đoạn, một thời kỳ
nhất định, đặc biệt quy định được xây dựng phải phụ thuộc vào các chính sách

của nhà nước, mà các chính sách này luôn có định hướng theo từng giai đoạn.
(iii) Tính ổn định của nguyên tắc chứng minh trong TTDS bị chi phối bởi giai
cấp thống trị, mà xét trong hoàn cảnh lịch sử, phát triển của đất nước ta, sự ổn
định về giai cấp thống trị cũng là một trong những yếu tố dẫn đến ổn định của
nguyên tắc chứng minh trong TTDS.
Hai là, Nguyên tắc chứng minh có những đặc thù riêng so với các nguyên
tắc khác, tính chất đặc thù được thể hiện ở các đặc trưng cơ bản sau:
- Nguyên tắc chứng minh gắn liền với và là bộ phận không tách rời của
nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6
BLTTDS 2015). Nguyên tắc này là một nguyên tắc đặc trưng áp dụng riêng biệt
trong tố tụng dân sự. Đây là một nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động TTDS,
có ảnh hưởng quyết định làm cơ sở để Tòa án xem xét bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong VVDS. “Việc thực hiện nguyên tắc này là biểu
hiện của việc thực hiện quyền quyết định và định đoạt của đương sự trong tố
tụng dân sự”.9
- Chủ thể thực hiện nguyên tắc chứng minh:
Chủ thể thực hiện nguyên tắc chứng minh bao gồm:
(i) Nhóm chủ thể thực hiện nguyên tắc chứng minh với tư cách là những
người tiến hành tố tụng – nhân danh quyền lực nhà nước, căn cứ vào vị trí,
Nguyễn Thị Hoài Phương (chủ biên), Bình luận những điểm mới trong BLTTDS 2015, Nxb Hồng Đức, Hội
luật gia Việt Nam, tr.41.
9


16

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn… họ thực hiện trách nhiệm chứng minh.
Trong đó, Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết VADS, VKS là chủ thể
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS. Để giải
quyết đúng VADS thì Tòa án vẫn phải xác định xem trong vụ, việc dân sự phải

chứng minh, làm rõ là những sự kiện, tình tiết nào? Việc chứng minh của các
chủ thể khác có đúng, có phù hợp, cần thiết cho việc giải quyết VADS hay
không? Việc phân định người tiến hành tố tụng là chủ thể có trách nhiệm
chứng minh, bởi: Tòa án và VKS không phải chủ thể hiểu rõ giao dịch dân sự,
cũng như tranh chấp dân sự như chính các đương sự; đồng thời, Tòa án là chủ
thể đứng giữa tranh chấp hai bên với vai trò trung gian xét xử, nên cần phải vô
tư, khách quan trong xét xử, việc đặt nặng vai trò chứng minh (quyền và nghĩa
vụ chứng minh) cho Tòa án hay VKS dễ dẫn đến tình trạng chủ quan duy ý chí
trong quá trình phán xét hoặc kiểm sát quá trình TTDS của họ. Chính vì thế,
Tòa án chỉ thực hiện nguyên tắc chứng minh trong phạm vi hoạt động xét xử,
giải quyết vụ án, một số trường hợp việc thực hiện nguyên tắc chứng minh của
Tòa án còn bị hạn chế bởi ý chí của đương sự, cònVKS thực hiện nguyên tắc
chứng minh qua chứng năng, nhiệm vụ quyền hạn kiểm sát của mình.
(ii) Đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan)… là chủ thể có quyền và nghĩa vụ chứng minh – chủ thể trung tâm của
nguyên tắc chứng minh, là người đủ điều kiện, khả năng nắm giữ những thông
tin chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của chính mình nhất. Đương sự
tham gia trực tiếp trong giao dịch dân sự, họ là những người nắm rõ nhất tình
tiết của vụ án, họ biết những chứng cứ nào là căn cứ chứng minh tốt nhất để
bảo vệ quyền lợi của mình, hiểu nhất nên thu thập chứng cứ như thế nào và đặc
biệt họ có thể chính là người nắm giữ những chứng cứ quan trọng nhất.
“Quyền chứng minh là khả năng của các chủ thể chứng minh, bằng hành
vi tố tụng của mình tham gia vào hoạt động chứng minh. Việc thực hiện quyền
chứng minh do các chủ thể chứng minh quyết định”10. Theo từ điển luật học,
“quyền” được giải thích là:
Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách nhiệm chứng minh
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát (số 20) tại địa chỉ: />ngày truy cập 05/8/2016.
10



17

Chủ thể có thể lựa chọn giữa việc xử sự theo cách thức mà nó được
phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy (hành động hoặc không hành
động)… Quyền chủ thể có 3 thuộc tính là: khả năng của chủ thể xử sự
theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép; khả năng yêu cầu các
chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở nó thực hiện quyền và
nghĩa vụ, hoặc yêu cầu chúng tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát sinh
từ quyền và nghĩa vụ; khả năng của chủ thể có thể yêu cầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền can thiệt để bảo vệ lợi ích của minh. Các thuộc
tính này là một thể thống nhất không thể tách rời trong cấu thành của
quyền chủ thể. 11
Theo đó, đương sự có quyền: chứng minh; yêu cầu các chủ thể khác chấm
dứt các hành động cản trở mình thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh; yêu
cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệt để bảo vệ lợi ích trong việc
thực hiện chứng minh của mình.
Đối lập với quyền chứng minh, “nghĩa vụ chứng minh bao gồm những
hành vi tố tụng nhất định trong hoạt động chứng minh mà các chủ thể chứng
minh bắt buộc phải tiến hành hoặc không được tiến hành theo quy định của
pháp luật”12. Khi đặt chủ thể chứng minh vào vị trí phải thực hiện nghĩa vụ
chứng minh thì việc chứng minh khi đó mang tính bắt buộc, mệnh lệnh của
pháp luật, không còn thuộc phạm vi lựa chọn của chủ thể chứng minh nữa.
Mặc dù, khi đề cập tới quyền và nghĩa vụ trong việc chứng minh có vẻ
khá rạch ròi. Nhưng, trên thực tế, ranh giới giữa quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự rất mong manh, bản thân ranh giới này cũng dễ thay đổi,
không thể bó hẹp trước trong một quy tắc hay một quy định chắc chắn13.
Thông thường, trong quan hệ dân sự, nghĩa vụ của bên này sẽ tương ứng với
quyền và lợi ích của bên kia, khi đó, quyền và nghĩa vụ rất rạch ròi và mang
tính mâu thuẫn tương đối. Song, đối với nguyên tắc chứng minh trong TTDS,
Từ điển luật học (1999), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 399.

Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách nhiệm chứng minh
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát (số 20) tại địa chỉ: />ngày truy cập 05/8/2016.
13 Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách nhiệm chứng minh
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát (số 20) tại địa chỉ: />ngày truy cập 05/8/2016.
11
12


18

quyền và nghĩa vụ chứng minh của chủ thể chứng minh đều ảnh hưởng trực
tiếp tới chính quyền và lợi ích của chính họ. Dù với cách gọi là “quyền” hay
“nghĩa vụ” trong việc chứng minh thì cách thức thực hiện và mục đích đều chỉ
là một. Do đó, “quyền chứng minh” và “nghĩa vụ chứng minh” mặc dù đối lập
nhau nhưng không hề mâu thuẫn nhau. Điều này cũng dẫn đến việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ chứng minh đều thuộc về chủ thể chứng minh là đương sự
và được quy định tại Điều 6 BLTTDS 2004 và Điều 6 BLTTDS 2015.
(iii) Những người tham gia tố tụng khác… vai trò chứng minh của nhóm
chủ thể này chỉ ở mức độ hỗ trợ, phụ thuộc, và hoàn toàn dựa trên cơ sở yêu
cầu của hai nhóm chủ thể trên. Mặc dù pháp luật TTDS quy định về vai trò
chứng minh của nhóm chủ thể này, song, họ chỉ thực sự tham gia chứng minh
khi nhận được yêu cầu từ đương sự, Tòa án. Nếu là yêu cầu từ đương sự, thì họ
có quyền lựa chọn hỗ trợ chứng minh hoặc không. Nhưng nếu người yêu cầu là
người tiến hành tố tụng thì họ phải hỗ trợ, vì khi đó, yêu cầu này có mang theo
tính mệnh lệnh, bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
- Đặc trưng về đối tượng nguyên tắc chứng minh trong TTDS hướng tới
là tất cả các tình tiết, sự kiện phải chứng minh để làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ việc dân sự, trừ các trường hợp không cần phải chứng minh:
Thứ nhất, các tình tiết, sự kiện phải chứng minh để làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ việc dân sự là các tình tiết có mối quan hệ trực tiếp tới

VVDS. Theo quy định tại Điều 91 BLTTDS 2015 (Điều 79 BLTTDS 2004) thì
đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải
đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự
phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra được các căn cứ để chứng minh. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Thứ hai, các trường hợp không cần phải chứng minh. Bao gồm:


19

(i) Các trường hợp chủ thể có quyền và nghĩa vụ chứng minh không cần
phải chứng minh theo quy định của BLTTDS 2015: Người tiêu dùng khởi
kiện… theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Đương sự là
người lao động trong vụ án lao động mà tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử
dụng lao động quản lý… Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp
không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của
pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao
động; …
(ii) Các trường hợp có tình tiết sự kiện không phải chứng minh:
* Nhóm các tình tiết, sự kiện đã rõ ràng, hoặc được ghi nhận trong một
văn bản pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: những tình tiết, sự
kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực
pháp luật; hoặc những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được

công chứng, chứng thực hợp pháp. Các tình tiết, sự kiện này được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 80 BLTTDS 2004 và kế thừa tại khoản 1 Điều 92 BLTTDS
2015. (Phụ lục 1)
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 80 BLTTDS 2004 việc
Tòa án coi các tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản đã được công
chứng, chứng thực hợp pháp là không cần phải chứng minh là việc suy đoán
pháp lý, không hề có sơ sở chắc chắn. Bởi không thể khẳng định rằng các văn
bản công chứng, chứng thực hợp pháp đã được thực hiện đúng pháp luật và
không có yếu tố sai phạm trong đó. Trên thực tế, do những nguyên nhân khách
quan và chủ quan, có thể dẫn tới việc Công chứng viên để xảy ra những sai sót
trong quá trình thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch. Ví dụ 1: Chủ thể
giao dịch; các giấy tờ, tài liệu trong giao dịch là giả mạo; Đối tượng của giao
dịch (quyền sử dụng đất, tài sản,…) không có thật hoặc không được phép tham
gia giao dịch,… Để khắc phục tồn tại này, khoản 1 Điều 92 BLTTDS 2015 đã


20

đưa ra cách giải quyết “Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức
công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc, bản chính”.
* Nhóm các tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan
chuyên môn do một bên đương sự đưa ra được bên đương sự còn lại thừa nhận
hoặc không phản đối. BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm một số đối tượng không
phải chứng minh: tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn như: biên
bản giám định, dịch thuật, vi bằng, định giá… Sự thừa nhận hoặc không phản
đối này phụ thuộc vào ý chí chủ quan của đương sự (hoặc người đại diện theo
ủy quyền của đương sự), chỉ các tình tiết, sự kiện, kết quả ghi nhận trong văn
bản, kết luận của cơ quan chuyên môn đó đúng sự thật quan trọng hơn cả là
phải trong phạm vi chấp nhận của đương sự mới không cần phải chứng minh
lại. Khi thực hiện chứng minh lại không thể do các đương sự tự do lựa chọn tổ

chức thực hiện, mà theo chỉ định của Tòa án.
- Đặc trưng về cách thức thực hiện nguyên tắc chứng minh:
Cách thức thực hiện nguyên tắc chứng minh bao gồm:
(i) Thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ:
Thu thập tài liệu, chứng cứ trong TTDS là hành vi tìm kiếm, lưu giữ tài
liệu, chứng cứ. Điều 93 BLTTDS 2015 quy định “Chứng cứ trong VVDS là
những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp,
xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn
cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu
hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. Cung cấp tài liệu,
chứng cứ trong TTDS là hành vi chuyển, giao nộp những tài liệu, chứng cứ của
người lưu giữ hoặc thu thập tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc những đương
sự khác. Những chứng cứ để chứng minh được cho sự thật khách quan của vụ
án phải hội tụ đủ ba thuộc tính: Tính khách quan: chứng cứ gắn liền với vụ
tranh chấp, tồn tại độc lập ngoài ý chí của đương sự; Tính liên quan: chứng cứ
đó phải liên quan tới nội dung vụ án có quan hệ với yêu cầu hay phản yêu cầu


21

của đương sự; Tính hợp pháp: các chứng cứ của vụ kiện phải được thu thập
theo trình tự và thủ tục, có hình thức, thẩm quyền người cấp đúng pháp luật.14
(ii) Tranh luận, tranh tụng:
Theo khoản 1 Điều 247 BLTTDS 2015 “Tranh tụng tại phiên tòa bao
gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, trả lời và phát biểu tranh luận về chứng cứ,
tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng
giải quyết các vấn đề đặt ra”. Tranh luận là một phần của tranh tụng. Từ tranh
luận, các đương sự làm rõ được các tình tiết, sự kiện trong vụ án, chỉ ra được
những vấn đề khúc mắc cần giải quyết trong vụ án nói chung hay chính trong

những chứng cứ đã được cung cấp hoặc ngay trong chính những luận điểm,
luận cứ, luận chứng được đưa ra trong quá trình tranh luận, chứng minh được
yêu cầu, hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của chính mình. Còn Tòa án mà cụ thể là Thẩm phán giải quyết vụ
án là người trọng tài “cầm cân công lí” để phân xử giữa hai bên tham gia tranh
luận, duy trì trật tự phiên tòa và quá trình tranh luận giữa hai bên, hướng quá
trình tranh luận vào việc giải quyết các yêu cầu của các đương sự, các căn cứ
thực tiễn và pháp lí của các yêu cầu đó cũng như các tình tiết khác nhau về
quan hệ pháp luật dân sự mà từ đó phát sinh tranh chấp giữa các đương sự 15.
Đây là quá trình mà các bên có lợi ích mâu thuẫn nhau, hoặc bảo vệ lợi ích
mâu thuẫn nhau đối trọng gay gắt nhất. Do đó, có thể khẳng định, tranh luận là
phương thức thực hiện nguyên tắc chứng minh một cách mạnh mẽ, quyết liệt
nhất.
(iii) Xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ:
Xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ là việc dựa trên những hiểu biết về
vụ án, về pháp luật, lẽ thường tình, cũng như toàn bộ quá trình tranh tụng tại
phiên tòa của các bên đương sự, VKS (nếu có) để đưa ra quan điểm, cách nhìn
nhận của theo ý chí chủ quan của mình (đối với đương sự), hoặc quan điểm,
cách nhìn nhận khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

Hoàng Ngọc Thỉnh (2004), “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, Đặc san góp
ý dự thảo BLTTDS, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, số 4/2004, tr. 66.
15 Nguyễn Thị Thu Hà (4/2004), “Một số vấn đề về phiên tòa sơ thẩm”, Đặc san góp ý dự thảo BLTTDS, Tạp
chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 33.
14


×