BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG MINH TUẤN
SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dương
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung trích
dẫn từ các tài liệu tham khảo được trích ghi nguồn đầy đủ và hoàn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công
trình nào khác./.
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Triều Dương
TÁC GIẢ CỦA LUẬN VĂN
Hoàng Minh Tuấn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
GĐT
: Giám đốc thẩm
TT
: Tái thẩm
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
01
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA
06
LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của sự tham gia của luật sư
06
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
06
1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
09
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
12
1.1.4. Cơ sở của việc tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
13
1.2. Các yếu tố bảo đảm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
15
1.2.1. Yếu tố con người
15
1.2.2. Yếu tố pháp luật
18
1.2.3. Yếu tố khác
19
1.3. Khái quát về sự hình thành và phát triển các quy định của pháp
20
luật tố tụng dân sự Việt Nam về sự tham gia của luật sư
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
20
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
21
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004
22
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015
23
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay
24
Kết luận Chương 1
25
Chương 2: SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG DÂN
26
SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự với các tư cách khác
26
nhau
2.1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự với tư cách là người
26
đại diện theo ủy quyền
2.1.2. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự với tư cách là người
29
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
2.2. Sự tham gia của luật sư trong từng giai đoạn tố tụng dân sự
33
2.2.1. Sự tham gia của luật sư trong giai đoạn khởi kiện, yêu cầu và thụ
33
lý vụ việc dân sự
2.2.2. Sự tham gia của luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
39
và tại phiên tòa sơ thẩm dân sự
2.2.3. Sự tham gia của luật sư trong giai đoạn phúc thẩm dân sự
64
2.2.4. Sự tham gia của luật sư trong thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự
67
2.2.5. Sự tham gia của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
68
theo thủ tục rút gọn
Kết luận Chương 2
71
Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ TRONG
72
TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT
3.1. Thực trạng sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
72
3.1.1. Những ưu điểm của sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
72
3.1.2. Những hạn chế của sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
74
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp để tăng cường
80
sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
Kết luận Chương 3
87
PHẦN KẾT LUẬN
88
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển nhanh, hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đời
sống xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những
định hướng cơ bản để cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 nêu rõ: “Cải cách
mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai,
minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi
đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; …”. Nghị quyết
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng
chỉ ra: “Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội”. Một trong những yêu cầu đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp này là
việc tăng cường sự tham gia của luật sư trong các giai đoạn tố tụng, trong quá trình
tranh tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Theo đó,
yêu cầu này cũng được đề cập trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Đào
tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có
trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên
toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều
kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành
viên của mình”. Vấn đề tăng cường sự tham gia của luật sư trong tố tụng cũng hoàn
toàn phù hợp với những nội dung mới về việc đảm bảo tranh tụng trong xét xử của
Hiến pháp năm 2013.
Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp này, Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được soạn
thảo và ban hành ngày 25/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2016 với nhiều sửa
đổi, bổ sung quan trọng. Trong những sửa đổi, bổ sung này có nhiều qui định mang
tính cải cách cao, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự, nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của luật sư. Do đó, việc tìm hiểu những
nội dung mới của pháp luật tố tụng dân sự không những cần thiết cho các luật sư
2
trong quá trình hành nghề mà còn có ý nghĩa nghiên cứu quan trọng khi đặt những
nội dung này trong tổng thể chiến lược cải cách pháp luật tố tụng dân sự của Việt
Nam.
Bên cạnh đó, từ thực tiễn giải quyết tranh chấp, các yêu cầu dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong thời gian qua cho thấy sự tham
gia của luật sư ngày càng gia tăng về cả số lượng và chất lượng, điều này đã đóng
góp tích cực cho quá trình giải quyết việc vụ việc dân sự một cách chính xác, đúng
đắn, nhanh chóng, kịp thời, hợp pháp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân. Tuy nhiên, những đóng góp này vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của xã hội, chưa tương xứng với vị trí, vai trò và tầm vóc của đội ngũ luật sư, lực
lượng duy trì và bảo vệ công lý theo định hướng của Đảng và Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.
Có thể thấy việc nghiên cứu sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Việc tìm
hiểu sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự giúp chúng ta có một cái nhìn tổng
quan về sự tham gia của luật sư và những đóng góp của luật sư đối với việc xác
định sự thật khách quan của vụ việc, hỗ trợ các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra các
phán quyết đúng đắn và khách quan, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho các đương sự trong các giai đoạn tố tụng. Sự tham gia của luật sư có ý nghĩa
ngày càng quan trọng trong hầu hết các giai đoạn tố tụng dân sự. Việc mở rộng
phạm vi và đảm bảo cho sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự là một vấn đề
cấp thiết đặt ra đối với các nhà làm luật hiện này. Với mục đích tìm hiểu và nghiên
cứu sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự, tôi quyết định chọn đề tài “Sự
tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi BLTTDS được thông qua 25/11/2015 cho đến nay, chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về sự tham gia của luật sư trong
tố tụng dân sự. Các công trình nghiên cứu trước đây một mặt chưa cập nhật các qui
định pháp luật mới có hiệu lực, một mặt chỉ đề cập đến các khía cạch khác nhau của
luật sư mà chưa có sự đầu tư nghiên cứu chuyên sâu đối với riêng vấn đề sự tham
gia của luật sư trong tố tụng dân sự. Một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
vấn đề này có thể kể đến sau đây: “Bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng dân
3
sự”, Luận văn Thạc sĩ, Hoàng Mậu Thành, Đại học Luật Hà Nội, năm 2013; “Vai
trò của luật sư trong tố tụng dân sự”, Luận văn Thạc sĩ, Phạm Thị Hường, Khoa
Luật Đại học Quốc gia, năm 2013; “Luật sư trong tố tụng dân sự”, Khoá luận tốt
nghiệp, Nguyễn Văn Minh; “Vị trí và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự”,
Khóa luận tốt nghiệp, Trần Hà Dương, Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Vị trí và
vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự”, Luận văn thạc sĩ, Trần Phương Thảo, Đại
học Luật Hà Nội, năm 2004; “Về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” của
tác giả Đinh Văn Thanh trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 04 (145) 2004. Ngoài
ra, cũng có một số công trình nghiên cứu một cách gián tiếp hoặc các khía cạnh
nhất định về luật sư trong tố tụng dân sự: “Xây dựng văn hóa nghề nghiệp của luật
sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” bài viết của tác giả Cao Thị Ngọc Hà trên Tạp
chí Nghề Luật Số 01/2016; “Luật sư với hoạt động thi hành bản án, quyết định dân
sự”, Nguyễn Hồng Bách, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 07/2015;
“Nhận định và phân loại luật sư tại Việt Nam”, Nguyễn An, Tạp chí Luật sư Việt
Nam, số 8/2015; “Pháp luật về luật sư và đạo đức nghề nghiệp luật sư”, Nguyễn
Văn Tuân, NXB Sự thật, năm 204; “Đạo đức & kỹ năng của luật sư trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, PGS.TS Lê Hồng Hạnh, NXB Đại học
sư phạm, năm 2002; “Chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001”, Bộ Tư pháp, Tạp
chí Dân chủ & pháp luật, tháng 12/2001; “Chuyên đề về luật sư”, Bộ Tư pháp, Tạp
chí Dân chủ & pháp luật, Hà nội năm 2006, tháng 12/2001; “Bút ký luật sư” tập 1,
TS.LS Phan Trung Hoài, NXB Tư pháp, Hà Nội 2005; “Mở rộng tranh tụng trong tố
tụng dân sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Minh Anh, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2010; “Mối quan hệ giữa luật sư với các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng”, Nguyễn Tiến Đạm, Tạp chí dân chủ & pháp luật, số 11
năm 2002. “Luật sư – một nghề khó khăn”, Phan Trung Hoài, Tạp chí dân chủ &
pháp luật, số 01 năm 1999; “Vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự”, Đinh Văn
Thanh; Báo cáo tham luận tại Hội thảo về tranh tụng trong tố tụng dân sự, Hà Nội,
ngày 13/03/2004.
Như đã nhận định ở trên, các công trình này mới chỉ đề cập đến khái niệm
luật sư, quá trình phát triển của nghề luật sư, cũng như vị trí, vai trò của nghề luật
sư trong tố tụng dân sự mà chưa tập trung vào nghiên cứu sự tham gia của luật sư
4
với các tư cách tố tụng khác nhau, trong các giai đoạn tố tụng dân sự một cách đầy
đủ, toàn diện và hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự, bao gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của
sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự, khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của các qui định pháp luật về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự, các
qui định của pháp luật tố tụng dân sự về sự tham gia của luật sư với tư cách là người
đại diện theo ủy quyền hoặc với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong từng giai đoạn tố tụng, thực tiễn thực hiện, phương hướng và
giải pháp hoàn thiện các qui định pháp luật về sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự.
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự là một đề tài khá rộng với nhiều
nội dung khác nhau. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn ở một
số nội dung sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự.
- Sự tham gia của luật sư trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự chủ yếu
với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định
của pháp luật, thực tiễn thực hiện các qui định này, qua đó xác định các hạn chế, bất
cập, tồn tại để thấy rõ cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề
này, mà không nghiên cứu về sự tham gia của luật sư trong quá trình thi hành án
dân sự.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự.
4. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Ngoài ra, quá trình nghiên cứu đề tài luận văn, các phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành khác nhau cũng được sử dụng như: phân tích, chứng minh,
5
tổng hợp, so sánh, thống kê, diễn giải, qui nạp,… Trong đó, phương pháp được sử
dụng chủ yếu là phương pháp phân tích, diễn giải, qui nạp, so sánh.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn với đề tài: “Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” được kết cấu bởi
ba chương ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
Chương 2: Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự theo qui định của pháp luật
hiện hành
Chương 3: Thực trạng sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự và một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở của sự tham gia của luật sư trong tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
Theo nhận xét của một số nhà nghiên cứu, thì quyền bào chữa xuất hiện sớm
nhất ở Châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án và người biện hộ (luật sư) xuất
hiện cùng thẩm phán1. Ban đầu (vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong Nhà nước
Hy Lạp cổ đại) luật sư là những người có tài hùng biện, thay mặt các đương sự trình
bày ý kiến, lý lẽ về vụ kiện trước Hội đồng xét xử (có tính chất như Tòa án ngày
nay). Trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật tố tụng trên thế giới, sự hiện
diện của luật sư tại các phiên xét xử của Tòa án và sự tham gia của luật sư trong các
giai đoạn tố tụng khác đều được pháp luật của các quốc gia ghi nhận và qui định
một cách cụ thể. Cho đến nay, luật sư (lawyer) được giải nghĩa là người được cấp
phép để hành nghề luật sư2 hoặc là chuyên viên về luật pháp được phép biện cãi tại
tòa3 (luật sư được phép cãi trước tòa – barrister) hoặc là người có giấy chứng nhận
hành nghề, có phạm vi hoạt động trong lĩnh vực pháp luật rộng lớn, chịu trách
nhiệm về việc tư vấn pháp lý và hướng dẫn các thủ tục tố tụng đúng luật4 (luật sư tư
vấn - solicitor).
Ở Việt Nam, lịch sử của nghề luật sư có lẽ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 khi Pháp
đô hộ Việt Nam5. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 46/SL
về tổ chức đoàn thể luật sư, sự kiện này là một dấu mốc quan trọng trong việc ghi
nhận vị trí, vai trò của luật sư. Sau đó, các văn bản pháp luật qui định về luật sư tiếp
tục được hoàn thiện và ban hành: Pháp lệnh tổ chức luật sư số 2A-LCT/HĐNN do
Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 18/12/1987; Pháp lệnh số 37/2001/PLUBTVQH10 về luật sư do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/07/2001;
Luật Luật sư số 65/2006/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 29/06/2006; Luật sửa
Nguyễn Văn Tuân (2014), Pháp luật về Luật sư và đạo đức nghề nghiệp Luật sư, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.7.
2 Bryan A. Garner (2009), Black’s Law Dictionary, 9th Edition, Thomson Reuters, USA, tr. 968.
3 Nguyễn Thành Minh (chủ biên, 1998), Từ điển pháp luật Anh – Việt, NXB Thế giới, Hà Nội, tr. 88.
4 Nguyễn Thành Minh (chủ biên, 1998), Từ điển pháp luật Anh – Việt, NXB Thế giới, Hà Nội, tr. 915.
5 Trương Nhật Quang (2013), Kỹ năng hành nghề Luật sư tư vấn, NXB Lao động, Hà Nội, tr. 12.
1
7
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư số 20/2012/QH13 do Quốc hội ban hành
ngày 20/11/2012.
Theo qui định hiện hành, luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề theo qui định của Luật luật sư, được phép thực hiện các dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo qui
định của Luật luật sư yêu cầu luật sư phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân
luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức
khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư, có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
Đoàn luật sư. Những dịch vụ pháp lý mà luật sư có thể cung cấp bao gồm việc tham
gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ
án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động,
hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động và các vụ, việc khác theo qui định của pháp luật; thực hiện tư vấn pháp
luật.
Mặt khác, từ góc độ học thuật, nghiên cứu, đã có nhiều công trình khoa học
đưa ra các khái niệm khác nhau về luật sư, có thể kể đến các quan điểm sau: luật sư
là chuyên gia pháp luật; là cố vấn pháp lý mà ở họ có kỹ năng nghề nghiệp thực
thụ6; luật sư là người có đủ các điều kiện về năng lực pháp luật, kiến thức pháp lý,
kỹ năng hành nghề được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận được hành
nghề luật sư thông qua việc cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, tiến hành các hoạt
động nghề nghiệp theo yêu cầu của khách hàng trên cơ sở tôn trọng pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp7; luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, theo đó những
người có đủ điều kiện hành nghề luật sư theo qui định của pháp luật Việt Nam được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền Việt Nam công nhận quyền tham gia tố tụng, tư
vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo về quyền lợi, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa.8 Có thể thấy,
những quan điểm về luật sư đều phần nào phản ánh những điểm đặc thù và nổi bật
Lê Hồng Hạnh (2002), Đạo đức & kỹ năng của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, Tr. 14
7 Nguyễn Văn Minh (2011), Luật sư trong tố tụng dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Tr. 08
8 Hoàng Mậu Thành (2013), Bảo đảm hoạt động của Luật sư trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Luật Hà Nội, Tr. 07.
6
8
của luật sư với tư cách là chủ thể tham gia tích cực trong các quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự.
Như vậy, cả luật thực định và các công trình học thuật đều thừa nhận ba đặc
điểm nổi bật sau đây của một luật sư: (1) được cấp phép hành nghề luật sư; (2) có
kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp; (3) thực hiện các
dịch vụ pháp lý, đại diện, nhân danh khách hàng tham gia các giai đoạn tố tụng theo
qui định của pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Đối với khái niệm “sự tham gia”, theo Đại từ điển Tiếng Việt của Trung tâm
ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam phát hành, thì sự tham gia được hiểu là dự vào (có
mặt trong hoạt động nào đó), góp phần vào9, theo từ điển tiếng việt của Viện ngôn
ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì tham gia được hiểu là góp phần hoạt động của
mình vào một hoạt động, một tổ chức chung nào đó10. Như vậy, có thể hiểu rằng, sự
tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự là sự có mặt, sự hiện diện của luật sư trong
các giai đoạn tố tụng dân sự nhằm mục đích góp phần hoạt động của mình vào một
hoạt động chung nhằm giải quyết vụ việc dân sự một cách khách quan, đúng đắn,
nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Về mặt hình thức, theo qui định của pháp luật hiện hành, luật sư có thể tham
gia các giai đoạn tố tụng với một trong hai tư cách sau: (1) người đại diện của
đương sự theo qui định tại Điều 85 BLTTDS 2015 và (2) người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự theo qui định tại Điều 75 BLTTDS 2015.
Về mặt nội dung, sự tham gia tố tụng dân sự của luật sư được hiểu là quá
trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng dân sự. Những quyền và
nghĩa vụ này được qui định cụ thể trong các văn bản pháp luật (Điều 76. Quyền và
nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và Điều 86.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện). Nói cách khác, nếu như quá trình tố tụng
dân sự là các trình tự, thủ tục mà các chủ thể tham gia phải tuân thủ một cách chặt
chẽ nhằm mục đích tối cao là giải quyết vụ việc một cách chính xác, đúng đắn,
nhanh chóng, hiệu quả, thì luật sư, với tư cách là một chủ thể đặc thù, tại từng giai
đoạn của qui trình đó, trong phạm vi mà pháp luật cho phép, sử dụng quyền và thực
hiện nghĩa vụ của mình một cách hiệu quả nhất để, cùng các chủ thể khác, đạt được
Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr. 1522.
10 Viện ngôn ngữ học, Hoàng Phê (chủ biên, 1994), Từ điển Tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr. 878
9
9
mục đích chung là xác định sự thật khách quan của vụ việc, qua đó, bảo vệ một
cách tốt nhất quyền và lợi ích của thân chủ.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa khái quát về sự tham gia
của luật sư trong tố tụng dân sự như sau: Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân
sự là sự góp mặt, hiện diện của luật sư trong các giai đoạn tố tụng dân sự, với tư
cách là người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, thông qua các hoạt động nghề nghiệp cụ thể của luật sư để góp phần làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự phải tuân theo trình
tự, thủ tục do luật định và theo Qui tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam.
Khi tham gia các hoạt động tố tụng dân sự, luật sư phải tuyệt đối tuân thủ
theo các qui định pháp luật về tố tụng dân sự. Nếu tham gia với tư cách là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư phải xuất trình thẻ luật sư và
giấy yêu cầu luật sư của khách hàng khi làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự tại Tòa án. Nếu tham gia với tư cách là người đại
diện theo ủy quyền, luật sư phải xuất trình văn bản ủy quyền của đương sự. Trong
từng giai đoạn tố tụng, luật sư chỉ được thực hiện những quyền mà pháp luật đã qui
định (ví dụ như: quyền thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; quyền
nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong
hồ sơ vụ án; quyền tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa, …) và buộc phải
thực hiện các nghĩa vụ đã được pháp luật tố tụng dân sự qui định (ví dụ như nghĩa
vụ tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội qui phiên tòa; nghiêm cấm việc
hủy hoại tài liệu, chứng cứ; …)
Bên cạnh đó, khi tham gia tố tụng dân sự, luật sư còn phải tuân thủ các qui
định của pháp luật chuyên ngành đối với các hoạt động mang tích chất nghề nghiệp
của luật sư. Trong quá trình tham gia tố tụng dân sự, luật sư không được cung cấp
dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án dân sự,
việc dân sự; không được tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết
được trong khi hành nghề; không được cố ý cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng
10
cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; không được móc nối, quan hệ với người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức khác để làm
trái qui định của pháp luật trong việc giải quyết vụ việc; không được có lời lẽ, hành
vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng; …
Ngoài ra, với tư cách là một nghề cao quý, được xã hội coi trọng, luật sư còn
phải tuân theo Qui tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (được ban
hành theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng
luật sư toàn quốc). Đây là bộ qui tắc ứng xử chuẩn mực của luật sư được xây dựng
và tuân thủ bởi các luật sư trên toàn quốc. Theo bộ qui tắc này, luật sư khi tham gia
các hoạt động tố tụng dân sự phải có những ứng xử chuẩn mực, ví dụ như: nghĩa vụ
giữ bí mật thông tin của đương sự khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết
thúc dịch vụ đó, không được chủ động xúi giục, kích động đương sự kiện tụng hoặc
thực hiện những hành vi khác trái pháp luật; không được nhận tiền hoặc bất kỳ lợi
ích vật chất nào khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện vụ việc gây
thiệt hại đến lợi ích của đương sự là khách hàng của mình; …
Thứ hai, luật sư tham gia các hoạt động tố tụng dân sự phụ thuộc vào yêu
cầu của đương sự
Dù tham gia tố tụng dân sự với tư cách là đại diện theo ủy quyền hay người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì sự tham gia của luật sư luôn phụ
thuộc vào yêu cầu của đương sự. Theo ý chí và mong muốn của mình, đương sự sẽ
quyết định nhờ luật sư tham gia tố tụng tại thời điểm nào (giai đoạn khởi kiện, sơ
thẩm hay phúc thẩm) với tư cách gì (người đại diện theo ủy quyền hay người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp), được trao những quyền gì (theo nội dung văn bản ủy
quyền đối với trường hợp luật sư tham gia với tư cách đại diện theo ủy quyền) và
chấm dứt khi nào (đương sự hủy bỏ việc ủy quyền hoặc thay đổi người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình). Xét từ góc độ lý luận thì sự tham gia của luật
sư cũng nhằm mục đích hỗ trợ giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật và kinh
nghiệm trong hoạt động tố tụng. Vì vậy, nếu bản thân đương sự nhận thấy không
cần sự giúp đỡ này hoặc muốn tìm kiếm một sự hỗ trợ khác thay thế thì luật sư cũng
không thể tiếp tục tham gia quá trình tố tụng dân sự. Cũng vì lẽ đó, pháp luật tố
tụng dân sự luôn qui định yêu cầu của đương sự là điều kiện bắt buộc để Tòa án
thực hiện thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
11
Thứ ba, luật sư tham gia các hoạt động tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của một bên đương sự
Bên cạnh mục đích chung (là giải quyết vụ việc một cách khách quan, đúng
đắn, chính xác, nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật), mỗi chủ thể, khi tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, đều có mục đích khác nhau. Các chủ thể như Tòa
án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự tham gia tố tụng dân sự với nhiệm vụ
và chức năng được Nhà nước qui định để thực thi pháp luật, tiến hành các hoạt động
giải quyết vụ việc, kiểm soát việc tuân theo pháp luật, tổ chức thi hành án dân sự…
Nguyên đơn dân sự tham gia tố dụng dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
mình, mong muốn Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của mình, còn bị đơn dân sự
tham gia tố tụng dân sự nhằm thuyết phục Tòa án bác yêu cầu của nguyên đơn. Đối
với luật sư, mục đích chủ yếu là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách
hàng của mình (là một bên đương sự).
Để đạt được mục đích nêu trên, luật sư có thể thay mặt cho đương sự để thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trước Tòa án (nếu tham gia
với tư cách đại diện theo ủy quyền) hoặc tham gia tố tụng dân sự với vị trí pháp lý
độc lập, tiến hành tranh luận độc lập tại phiên tòa (nếu tham gia với tư cách người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự). Quyền và lợi ích của đương sự có
thể bảo vệ một cách tốt nhất hay không phụ thuộc chủ yếu vào nền tảng kiến thức
pháp luật, kinh nghiệm, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của luật sư.
Thứ tư, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự mang tính chuyên môn
nghiệp vụ
Tính chuyên môn nghiệp vụ của luật sư khi tham gia các hoạt động tố tụng
dân sự được thể hiện qua kiến thức pháp lý, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề
nghiệp của luật sư. Trước tiên, một luật sư cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn luật
định, theo đó, luật sư phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được
đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo
đảm hành nghề luật sư. Sau đó, muốn được hành nghề luật sư thì phải có Chứng chỉ
hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Bên cạnh đó, luật sư còn không
ngừng phải cập nhật sự thay đổi của các qui định pháp luật trên rất nhiều lĩnh vực
khác nhau và thường xuyên trau dồi để nâng cao kỹ năng hành nghề. Tất cả những
12
yếu tố nêu trên phần nào phản ánh tính chất chuyên nghiệp của luật sư khi tham gia
các hoạt động tố tụng dân sự.
Với từng giai đoạn tố tụng, luật sư phải sử dụng những kỹ năng nghề nghiệp
khác nhau. Ví dụ: Trong giai đoạn khởi kiện, luật sư phải sử dụng kỹ năng trao đổi
với khách hành, kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện... Trong giai đoạn chuẩn bị cho
việc tham gia phiên tòa sơ thẩm, luật sư phải sử dụng kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, kỹ
năng xây dựng phương án hỏi, kỹ năng chuẩn bị bản luận cứ… Tại phiên tòa sơ
thẩm, luật sư phải sử dụng kỹ năng ghi chép diễn biến tại phiên tòa, kỹ năng trình
bày, kỹ năng hỏi, kỹ năng tranh luận, đối đáp tại phiên tòa, … Để sử dụng các kỹ
năng một cách hiệu quả nhất thì luật sư cần có một nền tảng kiến thức pháp lý vừa
toàn diện vừa chuyên sâu. Với những phân tích nêu trên, có thể nhận thấy sự tham
gia của luật sư trong các giai đoạn tố tụng dân sự mang tích chất chuyên môn
nghiệp vụ cao.
1.1.3. Ý nghĩa về sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
* Đối với đương sự
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự giúp đương sự nhận thức đúng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình để bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi
ích hợp pháp đó. Thực tế cho thấy, đương sự trong tố tụng dân sự (dù ở nông thôn
hay thành thị, dù là người nông dân, người lao động phổ thông hay các chủ doanh
nghiệp, nhà quản lý, nhà trí thức) đều chưa có kiến thức pháp lý đầy đủ và toàn diện
để đảm bảo cho việc bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do
đó, đương sự cần sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các luật sư (những người có đủ kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật) để nhận được những chỉ dẫn, ý kiến
tư vấn về phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hiệu
quả nhất.
Bên cạnh đó, với sự tham gia của luật sư, những vấn đề liên quan đến nội
dung của vụ việc sẽ được đưa ra để tranh luận, các chứng cứ, tài liệu sẽ được phản
biện, vụ việc sẽ được xem xét, đánh giá dưới nhiều góc độ khác nhau. Điều này góp
phần đảm bảo cho vụ việc dân sự được giải quyết một cách khách quan, toàn diện,
đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật, qua đó,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự được đảm bảo một cách tốt nhất.
* Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
13
Sự tham gia tố tụng dân sự của luật sư góp phần hạn chế tiêu cực, nâng cao
chất lượng xét xử, phát huy sự bình đẳng trong quá trình tố tụng. Luật sư có mặt và
tiến hành hoạt động tranh luận dân chủ tại phiên tòa cùng với những người tiến
hành tố tụng khác sẽ tạo ra không khí bình đẳng khi phát biểu ý kiến về những tình
tiết liên quan đến bản chất và nội dung của vụ án. Quá trình tranh tụng, tranh luận
công khai sẽ tránh tình trạng cố chấp những ý kiến, quan điểm bảo thủ, mang tính
chất qui chụp và suy diễn chủ quan.11 Bên cạnh đó, sự tham gia của những luật sư
có kiến thức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ khiến đội ngũ cán bộ làm
công tác xét xử gồm thẩm phán, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa, … phải tích cực
trau dồi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không ngừng học hỏi để bổ sung những tri
thức mới và những qui định mới của pháp luật. Như vậy, sự tham gia của luật sư
cũng là một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử của các Tòa án nhân
dân.
Mặt khác, luật sư bằng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của mình, thông
qua các hoạt động thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ, tranh luận công khai sẽ góp
phần giúp cho Tòa án có những nhận đính chính xác và đưa ra những phán quyết
khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
* Đối với luật sư
Việc pháp luật tố tụng dân sự cho phép và ngày càng mở rộng phạm vi tham
gia các giai đoạn tố tụng của luật sư là sự ghi nhận vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của đội ngũ luật sư trong việc tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Đối
với luật sư, sự tham gia trong tố tụng dân sự là cơ hội để luật sư tiếp tục thực hiện
sứ mệnh nghề nghiệp của mình (bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân) đồng thời, cũng là cơ hội để luật
sư trau dồi, rèn luyện kiến thức, kỹ năng và đem lại thu nhập chính đáng và hợp
pháp cho luật sư trong quá trình hành nghề của mình.
1.1.4. Cơ sở của việc tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
* Cơ sở lý luận
Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam (Hiến pháp năm 1946), “quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” đã được
ghi nhận. Các bản Hiến pháp sau này (Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992) đều tiếp
Đinh Văn Thanh (2004), Về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng dân sự, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số
4 (145), tr. 16
11
14
tục kế thừa qui định này. Cho đến bản Hiến pháp hiện nay (Hiến pháp năm 2013),
tại Điều 31 tiếp tục ghi nhận “quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa” của công dân. Như vậy, quyền nhờ luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp là một quyền hiến định và cần được cụ thể hóa và thống nhất qui định
trong các văn bản pháp luật.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “ Một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã định hướng: các cơ quan
tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; bảo
đảm tranh tụng dân chủ với luật sư; tăng cường, củng cố các tổ chức luật sư; phát
triển và kiện toàn đội ngũ luật sư. Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng nêu rõ: “Đào tạo, phát triển đội
ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên
môn. Hoàn thiện cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời
xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý
để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”.
Như vậy, có thể thấy, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự được qui
định dựa trên cơ sở là quyền nhờ luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và phù hợp với định hướng cải
cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng và Nhà nước.
* Cơ sở thực tiễn
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác tuyên truyền và phổ biến
pháp luật ngày càng được trú trọng, các văn bản pháp luật về phổ biến giáo dục
pháp luật đã được ban hành và triển khai thực hiện trong thực tiễn và bước đầu
mang lại những thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên, nhìn chung, sự hiểu biết của
người dân về pháp luật vẫn còn rất hạn chế. Đánh giá công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật giai đoạn 2011-2015 cho thấy tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm
còn diễn biến phức tạp, có biểu hiện gia tăng các vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn
xã hội, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, trong đó số vụ vi phạm hành chính
vẫn ở mức cao.12 Một trong những nguyên dẫn đến tình trạng nêu trên là công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật chưa phát huy được hiệu quả, mức độ hiểu biết pháp
Phan Hồng Nguyên (2016), “Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2011-2015 và định hướng
phát triển”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, tại địa chỉ: ngày truy cập 16/07/2016
12
15
luật của người dân còn thấp. Trước thực trạng này, sự tham gia của luật sư trong các
hoạt động tố tụng là rất cần thiết. Luật sư, với kiến thức và kỹ năng của mình, sẽ
giúp người dân có được nhận thức đúng đắn về quyền và nghĩa vụ của họ khi tham
gia các hoạt động tố tụng và có được phương thức tốt nhất để bảo vệ những quyền
và lợi ích này khi bị xâm phạm.
Ngoài ra, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự còn là yêu cầu cần
thiết đối với công cuộc cải cách tư pháp và xu hướng hội nhập quốc tế của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam. Trong các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư được
thông qua tại Hội nghị lần thứ tám về Phòng chống tội phạm và xử lý người phạm
tội của Liên Hợp Quốc, họp tại Havana, Cuba, từ ngày 27/8 đến 7/9/1990, các chính
phủ phải bảo đảm rằng luật sư có khả năng thực hiện tất cả các chức năng chuyên
môn mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rầy hoặc can thiệp trái phép (nguyên tắc 16);
khi an ninh của luật sư bị đe dọa do thực hiện các chức năng của họ, họ phải được
các cơ quan chức năng bảo vệ một cách đầy đủ (nguyên tắc 17); luật sư phải được
quyền miễn trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những phát ngôn thiện chí trong
lời bào chữa miệng hay bằng văn bản hay đối với sự xuất hiện nghề nghiệp của họ
trước tòa hay trước cơ quan pháp luật hay hành chính (nguyên tắc 20). Bên cạnh đó,
các quốc gia có hệ thống tư pháp phát triển trên thế giới đều có một đội ngũ luật sư
đông đảo, chất lượng và có địa vị cao trong xã hội. Có thể nhận thấy điều này qua
chỉ số về tỷ lệ luật sư trên số dân của Việt Nam khi so sánh với quốc gia phát triển:
ở Việt nam tỷ lệ luật sư trên số dân là 1 luật sư/14.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ
này ở Thái Lan là 1/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4546, Pháp là
1/1.000, Mỹ là 1/250.13
1.2. Các yếu tố bảo đảm sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
1.2.1. Yếu tố con người
* Số lượng và chất lượng của đội ngũ luật sư
Yếu tố đầu tiên và quyết định đến việc đảm bảo sự tham gia của luật sư trong
tố tụng dân sự chính là đội ngũ luật sư. Một đội ngũ luật sư với số lượng đông đảo
và chất lượng cao là nền tảng vững chắc cho sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự. Các tranh chấp dân sự phát sinh trong đời sống xã hội ngày càng gia tăng,
do đó nhu cầu nhờ luật sư tham gia tố tụng cũng tăng lên nhanh chóng. Số lượng
13
Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo Tổng kết 5 năm thi hành Luật luật sư, Tr. 15.
16
luật sư đông đảo và phân bố rộng khắp tại các địa phương trong cả nước là yếu tố
đảm bảo cho người dân dễ dàng tiếp cận luật sư và sử dụng các dịch vụ pháp lý. Khi
người dân hình thành thói quen tìm đến luật sư khi gặp các vấn đề pháp lý và nhờ
luật sư tham gia tố tụng khi muốn thực hiện quyền tố tụng của mình, sự tham gia
luật sư trong tố tụng dân sự sẽ ngày càng phổ biến. Ngược lại, nếu số lượng luật sư
quá ít hoặc phân bổ không đều tại các địa phương, người dân sẽ gặp nhiều khó khăn
khi nhờ luật sư tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi cho mình, đồng thời,
luật sư cũng không thể tham gia quá nhiều vụ việc cùng lúc. Như vậy, số lượng luật
sư tăng lên sẽ đảm bảo tốt hơn sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự.
Bên cạnh đó, chất lượng luật sư cũng quyết định đến việc đảm bảo sự tham
gia của luật sư trong tố tụng dân sự. Chất lượng luật sư được thể hiện dưới nhiều
khía cạnh khác nhau: Kiến thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề
nghiệp. Luật sư tham gia tố tụng dân sự để hỗ trợ, giúp đỡ đương sự về mặt kiến
thức pháp luật, giúp họ nhận thức được các vấn đề pháp lý, hiểu được quyền và
nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng. Để thực hiện tốt vai trò này, luật sư cần có
một nền tảng kiến thức pháp luật vững chắc, toàn diện và được cập nhật thường
xuyên. Do đó, nếu không đảm bảo được yếu tố này, luật sư không thể tham gia tố
tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Bên cạnh yếu tố về kiến thức chuyên
môn, yếu tố về kỹ năng hành nghề cũng đóng vai trò quan trọng tương tự. Một luật
sư có kiến thức pháp luật uyên thâm nhưng không thể vận dụng những kiến thức
này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng của mình thì luật sư đó sẽ hầu
như không có cơ hội được mời để tham gia các hoạt động tố tụng dân sự. Sau cùng,
chất lượng luật sư luôn phải xem xét đến yếu tố đạo đức nghề nghiệp. Dư luận xã
hội đã từng xuất hiện quan điểm cho rằng luật sư là “cánh tay nối dài” của thẩm
phán, một số luật sư có hành vi tiêu cực thể hiện đạo đức nghề nghiệp thấp kém.
Những hiện tượng này dễ dàng gây ra hiệu ứng tiêu cực trong xã hội, làm giảm uy
tín, hình ảnh của luật sư. Khi không tin tưởng vào đội ngũ luật sư, người dân sẽ
không thể nhờ luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ. Trái lại, nếu mỗi
luật sư luôn có ý thức trau dồi kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giữ gìn đạo đức nghề
nghiệp, thì xã hội sẽ ghi nhận hình ảnh một đội ngũ luật sư uy tín, đáng trọng, xứng
đáng để người dân tìm đến nhờ cậy khi gặp khó khăn về pháp luật. Có thể nói, chất
17
lượng của đội ngũ luật sư không chỉ đảm bảo cho sự tham gia của luật sư trong tố
tụng dân sự mà còn góp phần duy trì sự ổn định và văn minh của xã hội.
* Hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật của đương sự
Chủ thể quyết định đến sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự chính là
các đương sự trong các vụ việc dân sự. Họ là những người đang gặp khó khăn khi
tham gia các hoạt động tố tụng và cần đền sự trợ giúp từ các luật sư. Tuy là người
cần trợ giúp nhưng đương sự lại có quyền quyết định đến sự tham gia của luật sư.
Đương sự quyết định thời điểm tham gia tố tụng của luật sư, phạm vi tham gia tố
tụng của luật sư, thời điểm chấm dứt tham gia tố tụng của luật sư, quyền và nghĩa
vụ của luật sư khi tham gia tố tụng dân sự. Vì vậy, sự tham gia của luật sư trong tố
tụng dân sự sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu đương sự không hợp tác với luật sư, thiếu
những hiểu biết pháp luật cơ bản hay không có ý thức tuân thủ pháp luật. Thực tế có
nhiều trường hợp đương sự không hiểu hoặc cố tình không hiểu những tư vấn, giải
thích, hướng dẫn của luật sư, thậm chí đương sự có thể đưa ra những yêu cầu trái
với đạo đức nghề nghiệp, vi phạm qui tắc hành nghề hoặc không phù hợp với qui
định pháp luật. Trong những tình huống này, luật sư có thể chấp nhận chiều theo ý
của khách hàng hoặc từ chối hợp tác, tuy vậy, dù lựa chọn ứng xử ra sao thì sự tham
gia của luật sư trong tố tụng dân sự cũng chịu những ảnh hưởng tiêu cực. Ngược lại,
nếu thân chủ am hiểu về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và thiện chí hợp tác
với luật sư, thì sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự sẽ gặp rất nhiều thuận
lợi.
* Nhận thức và thiện chí hợp tác của những người tiến hành tố tụng
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự cũng phụ thuộc khá nhiều vào
sự nhận thức và thiện chí hợp tác của những người tiến hành tố tụng. Có thể nói, cả
luật sư và những người tiến hành tố tụng (gồm chánh án tòa án, thẩm phán, hội
thẩm nhân dân, thẩm tra viên, thư ký tòa án, viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát
viên, kiểm tra viên) đều tham gia các hoạt động tố tụng dân sự với mục đích là xác
định sự thật khách quan của vụ việc và giải quyết vụ việc một cách chính xác và
hợp pháp. Như vậy, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự chính là một sự hỗ
trợ cần thiết và đặc lực cho công việc của những người tiến hành tố tụng. Tuy
nhiên, nếu những người tiến hành tố tụng không có nhận thức đúng đắn về sự tham
gia của luật sư, coi sự tham gia của luật sư gây cản trở cho công việc của họ thì họ
18
thường thể hiện thái độ coi thường luật sư, không ghi nhận những ý kiến, quan điểm
của luật sư, thậm chí còn có thái độ bất hợp tác, gây khó khăn, cản trở cho sự tham
gia của luật sư trong tố tụng dân sự.
1.2.2. Yếu tố pháp luật
* Các qui định về bảo đảm thực hiện quyền của luật sư
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự dựa trên cơ sở pháp lý là các
văn bản pháp luật về tố tụng dân sự. Các văn bản pháp luật này ghi nhận địa vị pháp
lý của luật sư trong các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, xác định tư cách chủ thể,
quyền và nghĩa vụ của luật sư khi tham gia các hoạt động tố tụng dân sự. Trên cơ sở
các qui định này, luật sư thực hiện các quyền tố tụng của mình để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy vậy, các quyền tố tụng của luật sư có được thực
hiện trên thực tế hay không còn phụ thuộc vào mức độ cụ thể, chi tiết, rõ ràng của
các qui định pháp luật tố tụng dân sự và tính phù hợp với thực tiễn tố tụng hiện nay.
Nếu các qui định chỉ dừng lại ở mức độ liệt kê các quyền của luật sư nhưng lại thiếu
các qui định về cách thức, phương thức thực hiện quyền hay các qui định về đảm
bảo thực thi quyền trên thực tế thì luật sư cũng không thể thực hiện quyền tố tụng
của mình. Ví dụ như qui định về việc nộp đơn theo phương thức gửi trực tuyến
bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của tòa án chưa qui định rõ về
giá trị của đơn gửi bằng phương thức này, cách xác định tính chính xác, nhân thân,
tư cách của người gửi đơn, cách xử lý trong trường hợp lỗi kỹ thuật mà không gửi
được đơn, … Do đó, phương thức nộp đơn này rất khó để luật sư thực hiện cho đến
khi có những qui định hướng dẫn cụ thể. Có thể thấy, sự tham gia của luật sư trong
tố tụng dân sự sẽ được đảm bảo nếu các quyền tố tụng của luật sư được qui định
một cách cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và được bảo đảm thực hiện bằng các phương thức
thực tế.
* Các qui định về các thiết chế hỗ trợ hoạt động của luật sư
Trong hệ thống tư pháp của các quốc gia phát triển có rất nhiều các thiết chế
hỗ trợ sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự. Hiện nay, các thiết chế như thừa
phát lại, văn phòng công chức, thẩm định giá đã hỗ trợ khá hiệu quả cho các hoạt
động tố tụng của luật sư. Các văn bản đã được công chứng tại văn phòng công
chứng, các vi bằng do thừa phát lại lập, kết quả thẩm định giá đều được luật sư sử
dụng trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại tòa án. Luật
19
sư không đủ khả năng, trình độ chuyên môn, kỹ năng chuyên sâu và không được
phép trực tiếp thực hiện các công việc của công chứng viên, thừa phát lại, thẩm định
viên, giám định viên. Với sự hỗ trợ của những thiết chế này, sự tham gia của luật sư
trong tố tụng dân sự sẽ thuận lợi và chuyên nghiệp hơn. Do đó, hệ thống các qui
định pháp luật về các thiết chế hỗ trợ các hoạt động tố tụng của luật sư cũng là một
yếu tố quan trọng để đảm bảo sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự.
* Các qui định về phí luật sư
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự cũng là một loại hình dịch vụ
pháp lý. Theo đó, đương sự có trách nhiệm phải thanh toán chi phí cho luật sư khi
luật sư tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Luật sư cần phải được thanh toán chi phí đủ để duy trì hoạt động nghề
nghiệp của mình. Trong quá trình tham gia tố tụng có rất nhiều loại chi phí phát
sinh mà luật sư phải chi trả như chi phí đi lại, lưu trú, liên hệ công tác, chi phí hoạt
động văn phòng, … Bên cạnh đó, luật sư phải sử dụng thời gian, trí tuệ, kiến thức
của mình để giải quyết các vấn đề pháp lý cho đương sự, đại diện đương sự tham
gia các hoạt động tố tụng. Vì vậy, nếu không được trả công xứng đáng với công
sức, trí tuệ, thời gian mà luật sư đã tiêu tốn để tham gia các hoạt động tố tụng thì
luật sư không đủ các điều kiện cần thiết để tiếp tục hành nghề. Do đó, các qui định
pháp luật về chi phí luật sư theo hướng đảm bảo mức tối thiểu mà luật sư có thể
được nhận từ khách hàng là một yếu tố quan trọng đối với việc đảm bảo sự tham gia
của luật sư trong tố tụng dân sự.
1.2.3. Yếu tố khác
* Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư
Luật sư là một nghề có nhiều rủi ro và sự tham gia của luật sư trong tố tụng
dân sự cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghề nghiệp. Do đó, bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của luật sư là một phương thức bảo đảm đối với hoạt động của luật sư tương
đối phổ biển tại các quốc gia phát triển. Những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
luật sư tham gia các hoạt động tố tụng dân sự sẽ được phần nào hạn chế thông qua
việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này. Sau khi mua bảo hiểm, luật sư sẽ
được thanh toán số tiền mà luật sư có trách nhiệm phải thanh toán phát sinh từ các
khiếu nại chống lại luật sư trong thời hạn bảo hiểm, do hậu quá trực tiếp của hành
động bất cẩn, sai sót mắc phải trong khi thực hiện các công việc chuyên môn của
20
luật sư và các chi phí, phí tổn phát sinh nhằm giải quyết các khiếu nại. Với bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư, sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
sẽ được bảo đảm một cách chuyên nghiệp và thực tế.
1.3. Khái quát về sự hình thành và phát triển các qui định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam về sự tham gia của luật sư
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, pháp luật chủ yếu tập trung vào hình
luật, các qui định về dân luật rất ít ỏi và được qui định rải rác trong hình luật. Theo
các tài liệu lịch sử còn lại, có thể nhận thấy không có sự tham gia của thầy kiện,
thầy cãi trong các vụ tranh chấp. Thực trạng này xuất phát từ đặc điểm của xã hội
phóng kiến và chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, theo đó, nhà vua
là thiên tử (“con trời”) và các phán quyết do nhà vua đưa ra là thiên ý (“ý trời”) thể
thiện cho công lý, công bằng. Tuy nhiên, trên thực tế trong xã hội Việt Nam khi xưa,
ở đâu đó người ta vẫn thấp thoáng thấy sự hiện diện của những “thầy kiện”. Đó có
thể là những người thân quen có sự hiểu biết nhất định hay người “văn hay chữ
tốt” trong làng ngoài xã được nhờ để “tư vấn”, soạn thảo đơn từ. Sau này, do nhu
cầu của xã hội đã dần hình thành những người làm công việc này một cách thường
xuyên hơn, thậm chí làm “chui”14. Mặc dù vậy, cần khẳng định rằng không có sự
tham gia của luật sư trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự tại giai đoạn
này.
Cho đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong quá trình kiện toàn bộ
máy cai trị tại Việt Nam, toàn quyền Pháp ban hành các văn bản liên quan đến
quyền bảo chữa và luật sư: Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người
Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp ký ngày 26/11/1876 và Sắc lệnh thành
lập luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội vào năm 1884, Sắc lệnh ký ngày 30/1/1911
cho phép người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư, Sắc lệnh về tổ
chức luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng ký ngày 25/5/1930. Với các văn
bản nêu trên, luật sư, với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người dân tại các Tòa án, mới được người dân biết đến. Từ năm 1930 trở đi, các
luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà án Việt Nam; không chỉ
Chí Trung - Nguyên Hùng (2015), “Nghề luật sư ở Việt Nam đã ra đời và hoạt động như thế nào?” Trang
thông tin điện tử Luật sư Việt Nam online, ngày truy cập 17/06/2016
14