Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.8 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ THU HUYỀN

NGUYÊN TẮC QUYỀN YÊU CẦU TÒA ÁN BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Thỉnh

HÀ NỘI- 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số
nhận xét, đánh giá của các tác giả khác, đều có trích dẫn và chú thích nguồn
gốc.


XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

Tác giả luận văn

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh

Bùi Thị Thu Huyền


LỜI CẢM ƠN
Luận văn cao học được hoàn thành tại Đại học Luật Hà Nội. Có được
công trình này này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến trường Đại
học Luật Hà Nội, các thầy, cô giáo khoa Đào tạo sau đại học, đặc biệt là các
thầy, cô, các khoa Pháp luật Dân sự và Tố tụng dân sự đã tận tình truyền đạt
những kiến thức lý luận, thực tiễn về tố tụng dân sự cho học viên.
Học viên xin gửi lời tri ân sâu sắc tới Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thỉnh đã
trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý
giá trong suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội, Tòa án
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân một số quận thuộc thành phố Hà Nội,
TAND một số huyện thuộc tỉnh Phú Thọ vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp tác giả thu thập số liệu cũng như nghiên cứu cần thiết liên quan tới đề tài
tốt nghiệp.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cục Pháp chế và cải cách hành chính
tư pháp, Bộ Công an (nơi học viên công tác) suốt thời gian qua đã động viên
và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành công trình nghiên cứu này nói riêng.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu đậm đến gia đình, đến những
người thân yêu đã luôn quan tâm, động viên, khuyến khích để tác giả hoàn
thành khóa học nói chung và công trình nghiên cứu này nói riêng.

Một lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn! Tác giả rất mong nhận được
sự đóng góp, phê bình của quý thầy cô, các nhà khoa học và các độc giả!
Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BPKCTT

Biện pháp khẩn cấp tạm thời

PLTTDS

Pháp luật tố tụng dân sự

QHPLDS

Quan hệ pháp luật dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TTDS

Tố tụng dân sự

VADS

Vụ án dân sự

VDS

Việc dân sự

VVDS

Vụ việc dân sự


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN
YÊU CẦU TÒA ÁN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..................................................6
1.1. Khái niệm nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong tố tụng dân sự .................................................................6
1.2. Cơ sở của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự .................................................................................................10
1.2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................10
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................11
1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ...................13

1.3.1. Hệ thống pháp luật chặt chẽ ...........................................................13
1.3.2. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án............................14
1.3.3. Nhận thức pháp luật của đương sự và hoạt động hỗ trợ pháp lý của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ..........................................................15
1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền yều cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS ............................................................................16
1.5. Mối quan hệ giữa nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự với các nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng dân sự .18
1.5.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.............................................................................18
1.5.2. Mối quan hệ với một số nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng dân
sự...............................................................................................................18
Kết luận chương 1 .........................................................................................20
Chương 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN YÊU CẦU TÒA ÁN
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.......................22
2.1. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ..22
2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự.......22


2.1.2. Quyền phản đối yêu cầu của bị đơn; quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi,
bổ sung yêu cầu của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.......28
2.1.3. Các quyền tố tụng khác của đương sự thể hiện nội dung nguyên tắc
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ..29
2.2. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự .............................................39
2.2.1. Tòa án không được từ chối thụ lý vụ án vì lý do chưa có điều luật để áp
dụng ...........................................................................................................39
2.2.2. Trách nhiệm của Tòa án trong việc nhận và xử lý đơn khởi kiện.......41
2.2.3. Trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện các yêu cầu của

đương sự trong quá trình tham gia tố tụng...............................................42
Kết luận chương 2 .........................................................................................47
Chương 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN, BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC QUYỀN YÊU CẦU TÒA ÁN BẢO
VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .................................................................48
3.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp trong tố tụng dân sự ...............................................................................48
3.1.1. Những kết quả đạt được trong áp dụng nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ............48
3.1.2. Những bất cập, vướng mắc nảy sinh trong quá trình việc áp dụng
nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam ..................................................50
3.2. Những nguyên nhân hạn chế việc thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ...........65
3.2.1. Một số hạn chế trong hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng có
liên quan....................................................................................................65
3.2.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án....................................70
3.2.3. Chế độ bổ nhiệm thẩm phán và chế độ lương đối với cán bộ Tòa án
chưa phù hợp.............................................................................................72
3.2.4. Nhận thức pháp luật của đương sự và hoạt động hỗ trợ của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức..............................................................................73
3.3. Kiến nghị .........................................................................................................75


3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng về nguyên
tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng dân sự ..................................................................................75
3.3.2. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức hệ thống và tổ chức cán bộ Tòa án...77
3.3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.....79

Kết luận chương 3 .........................................................................................80
KẾT LUẬN ....................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
ngày càng được quan tâm. Trong tố tụng dân sự, đây cũng là vấn đề các nhà
lập pháp chú trọng. Ngày 15/6/2004, BLTTDS năm 2004 được Quốc hội khóa
XI bấm nút thông qua, Bộ luật chính thức có hiệu lực từ 01/01/2005. Đây
được coi là bước phát triển rõ rệt của pháp luật tố tụng dân sự nước ta. Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển của
ba pháp lệnh trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và
Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996 đồng thời tiếp thu
những thành tựu lập pháp của một số nước trên thế giới. Có thể nói, Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 là văn bản pháp lý cao nhất quy định trình tự, thủ tục
giải quyết VVDS tại Tòa án đồng thời cũng là văn bản luật đầu tiên ghi nhận
nguyên tắc “quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã góp phần giải quyết nhanh
chóng, kịp thời các vụ việc dân sự, bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự. Tuy nhiên, sau nhiều năm thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 và Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011 đã bộc lộ nhiều điểm
bất cập, không phù hợp với thực tiễn. Do đó, việc ban hành Bộ luật mới điều
chỉnh vấn đề này là cần thiết. Ngày 24/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã chính
thức thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bộ luật tố tụng dân sự mới
đã khắc phục nhiều điểm bất cập của Bộ luật tố tụng dân sự trước đó và có

nhiều điểm mới trong việc đảm bảo thi hành nguyên tắc “quyền yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”.
Những năm gần đây, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đang được
đẩy mạnh. Việc nghiên cứu, làm rõ những vấn đề liên quan đến bảo đảm thực
hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nói


2

chung, việc thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự nói riêng là cần thiết, nhất là trong bối cảnh Bộ luật
tố tụng dân sự mới vừa có hiệu lực. Xuất phát từ những lý do đó, học viên đã
chọn đề tài “Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng dân sự” để làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi BLTTDS 2004 được ban hành và có hiệu lực pháp luật, đã có
một số công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến nguyên tắc quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng
dân sự.
Về luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp có: Luận án Tiến sĩ Luật học
của TS. Nguyễn Công Bình năm 2006 đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”; Luận án Tiến sĩ Luật học của TS.
Nguyễn Triều Dương năm 2010 đề tài “Đương sự trong tố tụng dân sự – một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn Thạc sĩ Luật học của Thạc sĩ Đỗ
Thị Hà năm 2013 đề tài “Quyền tố tụng của đương sự và thực tiễn thực
hiện”; Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Hà năm 2011 đề tài “Bảo đảm
quyền tự bảo vệ của đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp
của Nguyễn Nữ Giang Anh năm 2010 đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự trong TTDS Việt Nam”…
Ngoài ra còn có các bài đăng trên các tạp chí như “Những nguyên tắc

cơ bản của BLTTDS” của TS Đinh Trung Tụng đăng trên Tạp chí Tòa án
nhân dân số đặc san về BLTTDS năm 2004; “Việc thay đổi, bổ sung và rút
yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm” của Tiến sĩ Bùi Thị Huyền đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2007; “Sự thỏa thuận của các đương
sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự” của Tiến sĩ Bùi Thị Huyền đăng trên Tạp chí
Luật học số 8/2007…
Tuy vậy, theo tìm hiểu của tác giả, cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào chuyên nghiên cứu về nguyên tắc


3

quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc
biệt là việc thực hiện các quy định của BLTTDS về vấn đề này tại các Tòa án
Việt Nam trong những năm gần đây.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn và đối tượng nghiên cứu
PLTTDS Việt Nam có những quy định đảm bảo quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều chủ thể trong đó có một nhóm chủ
thể được coi là đương sự trong TTDS. Trong phạm vi luận văn, tác giải chỉ
nghiên cứu những quy định của PLTTDS nhằm đảm bảo quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS và thực tiễn áp
dụng các quy định này mà không nghiên cứu các quy định nhằm đảm bảo
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể khác không phải là
đương sự trong TTDS.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến
nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong TTDS như: cơ sở của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, ý nghĩa của nguyên
tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nội
dung của nguyên tắc… Đặc biệt, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định

của PLTTDS hiện hành nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và việc áp dụng các quy định này
tại các Tòa án Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận liên
quan đến nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong TTDS và thực tiễn áp dụng nguyên tắc đó tại các Tòa án
Việt Nam. Từ đó tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục đích nêu trên, người viết đặt ra các câu hỏi cụ
thể khi nghiên cứu: việc BLTTDS quy định nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có cần thiết không; theo quy


4

định của LTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015, nguyên tắc này có những
nội dung cụ thể như thế nào; thực tiễn áp dụng các quy định này ra sao; những
biện pháp nào góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác
thi hành pháp luật về vấn đề này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến
hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề
thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như phương pháp thống kê, tổng
hợp, phân tích…
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa khoa học: Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một
cách có hệ thống về nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự. Về mặt khoa học, luận văn đóng
góp một số điểm mới sau:
Thứ nhất, luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách
có hệ thống các vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS.
Thứ hai, trong bối cảnh BLTTDS năm 2015 mới được ban hành và có
hiệu lực, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên phân tích các
quy định của BLTTDS mới hướng đến bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, trên cơ sở tổng hợp kết quả thi hành BLTTDS năm 2011 về
việc thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, luận văn đã đánh giá tính hợp lý của các quy định và
những khó khăn trong công tác thi hành pháp luật.
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các vấn đề lý luận về
nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của


5

đương sự, các quy định của pháp luật về nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng
các quy định, luận văn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hướng đến hoàn
thiện hơn nữa quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong TTDS. Luận văn là tài liệu tham khảo trong lĩnh vực luật học
về vấn đề nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
trong TTDS.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự trong pháp luật hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng dân sự.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN YÊU CẦU
TÒA ÁN BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự
- Khái niệm “nguyên tắc”
Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về “nguyên tắc”. Theo
“Từ điển Tiếng Việt”, “nguyên tắc” được hiểu là “điều cơ bản đã định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”. Nhìn nhận dưới một khía
cạnh khác, nguyên tắc là kết quả của quá trình nhận thức, nghiên cứu thực
tiễn khách quan, là sự phản ánh của các quy luật, bản chất của thực tiễn khách
quan do đó nguyên tắc trở thành những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo một lĩnh
vực hoạt động nhất định của con người. Nói cách khác, “nguyên tắc” là
những tư tưởng mang tính xuất phát điểm, thể hiện bản chất của một lĩnh vực
hoạt động nhất định và chỉ đạo toàn bộ các hoạt động thuộc lĩnh vực đó.
Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng pháp
lý mang tính chất chỉ đạo 1. Xuất phát từ khái niệm này, Giáo trình Luật Tố
tụng dân sự của Đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về các nguyên tắc cơ

bản của tố tụng dân sự như sau: “Các nguyên tắc của Luật TTDS Việt Nam là
những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hệ
thống các chế định tố tụng và biểu thị những nội dung đặc trưng nhất của
ngành luật này”.
- Khái niệm “quyền yêu cầu”
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “quyền là điều mà Nhà nước và pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Trong

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
1


7

khoa học pháp lý, quyền là những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm
thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng,
được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản hoặc hạn chế. “Yêu cầu”
có nghĩa là “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người đó làm, vì đó là
việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”.
Từ đó, có thể định nghĩa, quyền yêu cầu là thuật ngữ chỉ khả năng mà Nhà
nước, pháp luật hoặc xã hội công nhận để chủ thể nào đó nêu ra điều gì với
một chủ thể khác, tỏ ý muốn chủ thể đó làm, vì đó là việc thuộc nhiệm vụ,
trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của chủ thể ấy.
- Khái niệm “quyền và lợi ích hợp pháp”
Như trên đã nêu, “quyền” là “điều mà Nhà nước và pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”, “lợi ích” là điều có
ích, có lợi cho một tập thể người nhất định hay cho một cá nhân nào đó trong
mối quan hệ với tập thể ấy.
Quyền và lợi ích là một phạm trù mang tính xã hội và cũng mang tính

pháp lý. Nó có thể là những quyền, lợi ích về vật chất hoặc tinh thần, quyền,
lợi ích về kinh tế hoặc về chính trị… Trong nhiều trường hợp, quyền và lợi
ích quyết định hành vi của các chủ thể . Do đó, ở những mức độ khác nhau,
dù muốn hay không tất cả các Nhà nước đều phải thừa nhận và bảo hộ các
quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bằng sự ghi nhận trong hệ thống
pháp luật. Các quyền và lợi ích chính đáng được ghi nhận trong pháp luật thì
được coi là “quyền và lợi ích hợp pháp”.
- “Đương sự trong tố tụng dân sự”
Theo “Đại từ điển Tiếng Việt”, “đương sự” được hiểu là “đối tượng
trực tiếp của một việc đang được giải quyết”. Dưới góc nhìn pháp lý, đến
nay, có nhiều quan niệm khác nhau về “đương sự”. Trong cuốn “Black’s law
Dictionary”, “đương sự” được định nghĩa là “người đưa ra hoặc chống lại
người đưa ra việc kiện”2 hay trong cuốn “Từ điển Luật học” thì “đương sự là
2

Nguyễn Triều Dương, “Đương sự trong tố tụng dân sự. Quy định và thực tiễn”, Luận án
Tiến sĩ, Hà Nội, 2011, tr 9.


8

người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một khiếu nại hoặc một vụ
án”3. Cũng với cách tiếp cận này, Tiến sĩ Nguyễn Triều Dương – Đại học
Luật Hà Nội có cái nhìn cụ thể hơn, như sau: “theo nghĩa rộng thì đương sự
trong một vụ việc là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc vì có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết
vụ việc”4. Theo quan điểm này, những người tham gia quá trình giải quyết vụ
việc nhưng không có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ việc thì
không phải là đương sự.
Từ các khái niệm trên đây, có thể thấy các nhà Luật học đều có một

quan niệm chung, đương sự là những người tham gia vào quá trình giải quyết
VADS vì có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong VADS. Tuy nhiên, các
nhà luật học chưa đưa ra một khái niệm toàn diện về đương sự trong TTDS.
Để xác định được khái niệm “đương sự trong TTDS”, trước hết phải
làm rõ TTDS là gì? Thông thường, tố tụng được hiểu là “việc kiện cáo trước
Tòa án”5. Do đó, TTDS được hiểu là việc kiện cáo trước Tòa án về các
QHPLDS.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta vẫn tồn tại hai quan điểm khác nhau về
tố tụng dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng, TTDS là trình tự, thủ tục giải
quyết một QHPLDS gồm khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm,
xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có) mà không bao
gồm hoạt động thi hành án. Những người đồng tình với quan điểm này xuất
phát từ lập luận công tác thi hành án dân sự mang tính mệnh lệnh, bắt buộc là
đặc trưng của hoạt động tố tụng hành chính chứ không mang đặc trưng của
QHPLDS là tính bình đẳng. Quan điểm thứ hai cho rằng, TTDS không chỉ là
quá trình giải quyết VVDS mà bao gồm cả hoạt động giải quyết VVDS và thi
hành án dân sự. Người viết đồng tình với quan điểm thứ hai. Vì mục đích của
3

Nguyễn Hữu Đắc (Trưởng ban biên soạn) , “Từ điển Luật học”, NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội, 1999, tr 165.
4 Nguyễn Triều Dương – tlđd chú thích 2, tr.8.
5 Nguyễn Lân – “Từ điển từ và ngữ Hán - Việt”, NXB Văn Học, Hà Nội, 2002, tr 687.


9

nguyên đơn khi tham gia tố tụng dân sự là để được bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Nếu như quá trình tố tụng chỉ dừng lại ở việc Tòa án
ra quyết định, bản án giải quyết VVDS và bản án quyết định đó có hiệu lực

pháp luật thì các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn chưa được đảm
bảo. Chỉ khi nào án đã tuyên được thi hành trong thực tế thì mục đích tham
gia tố tụng của họ mới đạt được.
Từ đó, có thể hiểu, đương sự trong TTDS là người tham gia quá trình
giải quyết VVDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác
hoặc bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.
BLTTDS năm 2015 mặc dù không đưa ra định nghĩa về đương sự trong
TTDS nhưng đã đưa ra định nghĩa về đương sự trong VVDS trong đó có
đương sự trong VADS và đương sự trong VDS. Theo đó, đương sự trong
VADS là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Cụ thể như sau: Nguyên đơn là người khởi
kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VADS khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định
khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn. Bị đơn là người bị
nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này
quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VADS khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng
việc giải quyết VADS có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ
được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp
nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Đương sự trong VDS là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người
yêu cầu giải quyết VDS và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.


10

Từ những nội dung trên đây, có thể đưa ra cách định nghĩa khái quát

như sau, “nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo nhằm đảm bảo các chủ thể khi thấy quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng hoặc lợi ích của
Nhà nước bị xâm phạm thì có quyền đưa ra đề nghị đối với Tòa án để Tòa án
bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp đã được công nhận trước đó”.
Trên cơ sở định nghĩa nêu trên, để phù hợp với phạm vi, tác giả cũng
mạnh dạn đưa ra định nghĩa: “nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS là những tư tưởng pháp lý chỉ
đạo nhằm đảm bảo các chủ thể khi thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
của Nhà nước hoặc lợi ích công cộng bị xâm phạm thì có quyền đưa ra đề
nghị đối với Tòa án để Tòa án căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình bảo
vệ những quyền, lợi ích mà được Nhà nước, pháp luật hoặc cộng đồng, tập
thể đã công nhận trước đó”.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự
Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho đương sự là một đảm bảo cho đương sự khi tham gia vào quá trình tố
tụng. Qua nghiên cứu, người viết nhận thấy PLTTDS quy định nguyên tắc
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự dựa
trên các cơ sở sau:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Xét về mặt lý luận thì quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS được pháp luật quy định trước hết xuất phát từ
mối quan hệ giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, từ mối quan hệ giữa công
nhận và bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích của các chủ thể trong xã hội.
Có thể nói, quyền và lợi ích vừa là động lực để các chủ thể tham gia
các quan hệ xã hội nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến các xung
đột, mâu thuẫn trong xã hội. Xã hội được coi là sản phẩm của mối quan hệ



11

giữa người với người, giữa các cá nhân với nhau. Mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội là mối quan hệ biện chứng mà nền tảng là quan hệ lợi ích. Lợi ích là
yếu tố móc nối, liên kết hoặc ngược lại là chia rẽ các thành viên trong xã hội.
Xã hội có bao nhiêu thành viên thì có bấy nhiêu lợi ích cá nhân.
Việc Nhà nước thừa nhận các quyền, lợi ích của các chủ thể là rất cần
thiết, đảm bảo cho các chủ thể yên tâm sản xuất, góp phần ổn định các quan
hệ xã hội, tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Về nguyên tắc, mọi người phải
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật,
không được xâm phạm đến lợi ích chung của Nhà nước, lợi ích chung của xã
hội, quyền và lợi ích của người khác. Tuy vậy, trên thực tế, không phải ai
cũng có được những nhận thức đúng đắn về việc chấp hành các quy định của
pháp luật, từ đó dẫn đến việc chủ thể này xâm phạm đến quyền và lợi ích của
chủ thể khác hoặc tranh chấp với chủ thể khác. Do đó, nếu Nhà nước chỉ công
nhận các quyền và lợi ích cho các chủ thể cũng chưa đủ, cần phải có cơ chế
pháp lý đảm bảo cho quyền đó được thực hiện trong thực tế. Một trong những
cơ chế pháp lý đó là trao cho người có quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc
người nhận thấy thực trạng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác đang bị
xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình hoặc
của người khác. Nói như TS Trần Anh Tuấn thì “quyền dân sự của chủ thể sẽ
trở nên vô nghĩa nếu như không đi kèm với tố quyền, tức là quyền yêu cầu
Tòa án – thiết chế nhân danh nhà nước và công lý - can thiệp khi quyền dân
sự đó bị can thiệp”6.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong khoa học pháp lý, quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể
khác. Nếu các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thực hiện đúng,
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình thì sẽ đảm bảo cho quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Tuy nhiên, do nhận thức và ý thức
Bùi Thị Thanh Hằng (Chủ biên, 2014), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, tr.229.
6


12

pháp luật của các chủ thể khác nhau nên trong thực tiễn vẫn tồn tại thậm chí
ngày càng nhiều tình trạng chủ thể này xâm phạm đến quyền và lợi ích của
chủ thể khác hoặc tranh chấp với chủ thể khác. Trong lĩnh vực dân sự, cùng
với sự phát triển của kinh tế-xã hội, các vụ việc liên quan đến quyền và lợi ích
diễn ra ngày càng phổ biến và phức tạp. QHPLDS bản chất là việc của các
bên, do đó, việc giải quyết hoàn toàn xuất phát và dựa trên ý chí tự nguyện
của các chủ thể.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi các bên trong QHPLDS tự giải quyết
các xung đột thì nhiều trường hợp các mâu thuẫn, tranh chấp không thể được
giải quyết. Do đó, một yêu cầu đặt ra là Nhà nước phải trao cho các chủ thể
những phương tiện pháp lý cần thiết để chủ thể có quyền có thể tự bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời thiết lập cơ chế giải quyết yêu
cầu bảo vệ quyền và lợi ích cho người có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Một
trong những phương tiện pháp lý đó là trao cho người có quyền và lợi ích bị
xâm phạm có quyền yêu cầu Nhà nước thông qua một cơ quan chuyên môn
bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo quy định
của pháp luật, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do đó, Tòa án có quyền lực
để buộc người vi phạm chấm dứt các hành vi trái pháp luật và khắc phục hậu
quả của nó do đó kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Như vậy, thực tiễn ý thức pháp luật của các chủ thể và khả năng tự giải
quyết các tranh chấp dân sự trong xã hội Việt Nam cho thấy việc pháp luật

quy định quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong tố tụng dân sự là rất cần thiết. Bên cạnh đó, việc quy định
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS cũng đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa, ghi nhận và bảo đảm quyền con
người trong TTDS trên cơ sở giải quyết hài hòa giữa việc ghi nhận quyền và
nghĩa vụ của đương sự với việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của Tòa án.


13

1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTDS là
một nguyên tắc cơ bản của PLTTDS. Việc thực hiện nguyên tắc này phụ
thuộc vào những yếu tố nhất định. Trong đó, các quy định của pháp luật có
liên quan, hoạt động giải quyết VVDS của Tòa án, hiểu biết pháp luật của
người dân và hoạt động hỗ trợ của cá nhân, cơ quan, tổ chức là những yếu tố
có tính chất quyết định đến việc thực hiện nguyên tắc này.
1.3.1. Hệ thống pháp luật chặt chẽ
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Pháp
luật không chỉ là công cụ quản lý nhà nước mà còn là công cụ điều tiết các
quan hệ xã hội. Đối với việc thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự, pháp luật
đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Trước hết, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, hệ thống quy phạm
pháp luật nội dung phải tương đối đầy đủ, chặt chẽ. Pháp luật nội dung được
coi là nền tảng cơ sở của hệ thống pháp luật bởi nó xác định quy chế pháp lý,
quyền, nghĩa vụ chủ thể, các tiền đề vật chất cũng như điều kiện cần thiết để
thực hiện được mục đích của pháp luật trong các trường hợp cụ thể của thực
tiễn cuộc sống. Trong quan hệ dân sự, pháp luật nội dung là hệ thống các văn

bản pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong các lĩnh vực:
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động… Vì xác định
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nên trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS,
pháp luật nội dung đầy đủ, chặt chẽ là một trong những yếu tố nền tảng, là cơ
sở cho việc thực hiện nguyên tắc. Chỉ khi hệ thống các quy phạm pháp luật quy
định về quyền và nghĩa vụ dân sự tương đối chặt chẽ thì mới xác định được khi
nào quyền và lợi ích hợp pháp đó đang bị xâm phạm, cần được bảo vệ.
Bên cạnh hệ thống quy phạm pháp luật nội dung thì pháp luật hình thức
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc quyền yêu cầu


14

Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS. Nếu như
pháp luật nội dung quy định các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của chủ thể thì
pháp luật hình thức được hiểu là các quy phạm pháp luật xác định cơ chế, quy
trình, thủ tục pháp lý nhằm đưa các quy định trong các quy phạm pháp luật
nội dung vào cuộc sống.
Để thực hiện được nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS thì PLTTDS ngoài việc phải quy
định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, người
tiến hành tố tụng dân sự và người tham gia tố tụng dân sự thì còn phải quy
định cụ thể trình tự, thủ tục tố tụng dân sự từ việc khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ việc đến việc thụ lý, lập hồ sơ, hòa giải và xét xử giải quyết
VVDS. Các nội dung này cần phải được pháp luật tố tụng dân sự quy định
đầy đủ, cụ thể và khoa học để tạo thuận lợi khi thực hiện.
1.3.2. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án
Trong đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, nếu chỉ pháp luật đầy

đủ, chặt chẽ thôi vẫn chưa đủ. “Pháp luật tố tụng dân sự và hoạt động tố tụng
dân sự của Tòa án nhân dân là hai mặt không thể tách rời của một hệ thống
thống nhất đó là quy trình tố tụng dân sự”7. Thật vậy, các quy định của pháp
luật dù có đầy đủ, rõ ràng đến mấy nhưng nếu nó không được các cơ quan
tiến hành tố tụng,người tiến hành tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh thì cũng sẽ
trở nên vô nghĩa.
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, yêu cầu những người tiến
hành tố tụng dân sự gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án phải
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về trách nhiệm, quyền
hạn, nghĩa vụ tố tụng của mình. Hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
7

TANDTC (1996), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật
Tố tụng dân sự”, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội, tr.78.


15

dân, thư ký Tòa án không chỉ phụ thuộc vào trình độ chuyên môn pháp lý của
các cá nhân này mà còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm, đạo đức
nghề nghiệp của họ khi tham gia giải quyết các VVDS. Thực tế đã chứng
minh, ở nơi nào, vào giai đoạn nào, nếu vị thế, vai trò của Tòa án được nhìn
nhận, đánh giá và sử dụng đúng thì ở nơi đó, vào giai đoạn đó, kỷ cương,
phép nước được củng cố và giữ vững, bảo đảm được trật tự xã hội, tạo điều
kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng và phát triển quốc gia về mọi mặt chính
trị, kinh tế - xã hội và quan trọng nhất là bảo đảm lợi ích về mọi mặt cho mỗi
người dân8.
1.3.3. Nhận thức pháp luật của đương sự và hoạt động hỗ trợ pháp lý
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

Pháp luật có đầy đủ các quy định xác định quyền và nghĩa vụ dân sự
của các chủ thể đồng thời cũng quy định trình tự, thủ tục và các điều kiện
pháp lý cần thiết để đảm bảo các quyền và nghĩa vụ đó được thực hiện trong
thực tiễn. PLTTDS cũng quy định nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp trong TTDS. Theo quy định, đây là trách nhiệm
của đương sự đồng thời cũng là quyền của các đương sự. Do đó, bên cạnh
hoạt động của Tòa án thì nhận thức pháp luật của đương sự về quyền của
mình cũng là một trong những yếu tố góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên
tắc này của PLTTDS.
Trong nhiều trường hợp, vì nhận thức pháp luật của đương sự chưa cao
hoặc vì các lý do khác nên để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình
khi tham gia tố tụng tại Tòa án, đương sự rất cần sự giúp đỡ, hõ trợ về mặt
pháp lý của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.
Sự giúp đỡ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác như luật sư, nhân
viên của các Trung tâm hỗ trợ pháp lý hoặc tổ chức xã hội trong quá trình
đương sự tham gia tố tụng sẽ giúp khắc phục được tình trạng đương sự nhận
8

TANDTC (1996), “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật
Tố tụng dân sự”, đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội, tr.9.


16

thức chưa đúng, chưa đủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia tố tụng. Đồng thời, sự giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức này
cũng tạo ra sự cân bằng trong việc tham gia tố tụng giữa các bên đương sự
nhất là trong các VADS mà điều kiện tham gia tố tụng của các đương sự rất
khác nhau: một bên là cá nhân, bên còn lại là tổ chức chính trị-xã hội.
Ngoài ra, một số tổ chức khác như Hội Liên hiệp phụ nữ, Công đoàn,

Cơ quan dân số, gia đình và trẻ em là những tổ chức mà khi tham gia vào
TTDS sẽ giúp đỡ một cách có hiệu quả các đương sự là Hội viên, người lao
động hoặc cá nhân thuộc tổ chức mình. Vì vậy, nếu các tổ chức này tích cực
tham gia tố tụng dân sự thì sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thực hiện nguyên
tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngược lại, nếu các tổ chức này không tham gia hoặc tham gia một cách hình
thức thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nguyên tắc này.
Bên cạnh đó, khi tham gia tố tụng, để Tòa án có đủ căn cứ, cơ sở để
giải quyết đúng đắn VVDS thì đương sự phải cung cấp đầy đủ cho Tòa án các
tài liệu, chứng cứ cần thiết. Trong nhiều trường hợp, khi các tài liệu chứng cứ
này đang do cá nhân, tổ chức khác lưu giữ, quản lý thì đê được Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, đương sự phải cần đến sự giúp đỡ của các cá nhân,
tổ chức này. Theo quy định của PLTTDS, cung cấp tài liệu chứng cứ là nghĩa
vụ của người quản lý, lưu giữ tài liệu chứng cứ. Tuy nhiên, nếu cá nhân, tổ
chức lưu giữ chứng cứ không thực hiện nghĩa vụ này thì quyền và lợi ích của
đương sự khó có thể được Tòa án bảo vệ một cách đúng đắn, triệt để.
1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc quyền yều cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS
Bảo đảm quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự là một trong những vấn đề cơ bản của TTDS. Thực hiện được
nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn không những với đương sự, với Tòa án mà
còn với Nhà nước.


17

Với đương sự, nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp được bảo đảm là cơ sở để đương sự thực hiện các quyền tố tụng
khác của mình. Cụ thể, khi nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp được đảm bảo đồng nghĩa với việc quyền khởi kiện, thay đổi,

phản đối yêu cầu; quyền bình đẳng trong cung cấp chứng cứ và được biết
chứng cứ bên kia cung cấp; quyền yêu cầu Tòa án tiến hành những biện pháp
thu thập chứng cứ; quyền yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT; quyền tham gia
hòa giải; quyền tham gia phiên tòa; quyền kháng cáo bản án, quyết định;
quyền đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm… cũng được
thực hiện. Từ đó, những tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự
được xem xét, những quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.
Với Tòa án, để nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự được bảo đảm trong thực tiễn thì bản thân các Tòa
án phải đảm bảo thực hiện tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong đó, không chỉ thẩm phán, thư kí Tòa án mà các cán bộ khác của Tòa án
cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ, vai trò của mình. Chẳng hạn, cán bộ thụ lý
hồ sơ phải thực hiện tốt công việc thì quyền khởi kiện của đương sự mới được
bảo đảm; quyền sao chụp chứng cứ do đương sự bên kia cung cấp chỉ được
đảm bảo khi cán bộ phụ trách công tác này thực hiện đúng quy định của pháp
luật; cán bộ tống đạt văn bản giấy tờ làm tốt nhiệm vụ là điều kiện để quyền
được thông tin của đương sự được bảo đảm… Do đó, có thể nói các quy định
của pháp luật về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong TTDS là yếu tố góp phần, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh
thần làm việc của mỗi cán bộ Tòa án từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của
Tòa án, củng cố uy tín của cơ quan xét xử, nâng cao lòng tin của nhân dân
vào công lý.
Với Nhà nước, khi nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm góp phần thực hiện thắng lợi
chủ trương của Đảng và Nhà nước về chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của


18

nhân dân. Vì vậy, ngoài ý nghĩa thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự , đảm

bảo quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn
có ý nghĩa ổn định trật tự xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội, góp
phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
1.5. Mối quan hệ giữa nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với các nguyên tắc khác của
pháp luật tố tụng dân sự
1.5.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự
Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự (Điều 4 BLTTDS năm 2015) và nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 9 BLTTDS năm 2015) có mối
liên hệ mật thiết và bổ sung cho nhau. Nếu như nguyên tắc quy định tại Điều 4
là cơ sở để người có quyền lợi ích xâm phạm được tiếp cận công lý, được yêu
cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì nguyên tắc quy
định tại Điều 9 đảm bảo quyền bảo vệ của đương sự trong suốt quá trình tố
tụng. Nếu như nguyên tắc quy định tại Điều 4 đề cao trách nhiệm của Tòa án
trong đảm bảo quyền tiếp cận công lý của đương sự thì nguyên tắc quy định tại
Điều 9 đảm bảo cho việc thực thi công lý khi quy định sự có mặt của luật sư,
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình tố
tụng. Có thể nói, hai nguyên tắc này là sự bổ sung cần thiết cho nhau để thực
hiện mục tiêu bảo vệ thành công các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.5.2. Mối quan hệ với một số nguyên tắc khác của pháp luật tố tụng
dân sự
Không chỉ có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn là cơ sở cho việc quy
định nhiều nguyên tắc khác trong pháp luật tố tụng dân sự như: nguyên tắc



×