Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.66 KB, 27 trang )

MỤC LỤC
1.NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ...................................................................................................................................2
1.1.Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự...................................................2
1.2.Đặc điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự....................................................4
1.3.Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự............................................................................................................................................................7
2.NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
HIỆN HÀNH.............................................................................................................................................8
2.1.Điều kiện tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự ...............................................8
2.2.Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự...............................9
2.2.1.Quyền tố tụng của người bảo vệ quyền lợi của đương sự.............................................................9
2.2.1.1.Quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án...................................10
2.2.1.2.Quyền tham gia hoà giải...........................................................................................................12
2.2.1.3.Quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
khác......................................................................................................................................................12
2.2.1.4.Quyền tham gia phiên tòa.........................................................................................................12
2.2.1.5. Quyền sau khi kết thúc phiên tòa.............................................................................................14
2.2.2. Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự .......................................14
2.2.2.1.Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự........................................................14
2.2.2.2. Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa............................................................15
3.THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ..........................................................16
3.1.Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự...............................................................................................................................16
3.2.Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự........................................................................20
3.3.Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự............22
KẾT LUẬN..............................................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................................26


Đối với luật tố tụng dân sự Việt Nam, kể từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự năm 1989 đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung
năm 2011 đã có những quy định về sự tham gia người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ án dân sự. Điểm căn bản đầu tiên làm xuất hiện sự
1


tham gia người bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự trong vụ án xuất phát từ
quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình của đương sự Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “đương sự có quyền
tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ
luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án có trách nhiệm bảo
đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ”
Và thực sự, lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh vai trò của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các giai đoạn của tố tụng dân
sự là hết sức quan trọng.
1. NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Trong tố tụng dân sự, ngoài người đại diện của đương sự còn có người khác
được đương sự nhờ /yêu cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Người này có thể là luật sư, người khác là công dân Việt Nam.
Tuy vậy, Tòa án chỉ chấp nhận người được nhở bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp nếu họ có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Người tham gia tố tụng
này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố
tụng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia

tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 63 của Bộ luật TTDS 2004 đã quy định cụ thể về người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự.

2


“ 1. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự của đương sự là
người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
2. Những người sau đây được Toà án chấp nhận làm người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự:
a) Luật sư tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật về luật sư;
b) Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định
của pháp luật về trợ giúp pháp lý;
c) Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa bị kết án hoặc
bị kết án nhưng đã được xoá án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục và quản
chế hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm
sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an.”
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bao gồm các luật gia,
người trợ giúp pháp lý, những người am hiểu về pháp luật và họ phải là công
dân Việt Nam. Một điều cần chú ý hiện nay, với luật sư nước ngoài không được
tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trước cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam. Họ chỉ
được tư vấn pháp lý và các dịch vụ pháp lí khác theo quy định của pháp luật luật
sư (Điều 79 Luật luật sư 2006).
Luật sư không phải là người duy nhất được quyền thực hiện việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự tại Toà án. Pháp luật Việt Nam quy

định rất “thoáng” về vấn đề này. Theo điểm c khoản 2 điều 63 Bộ luật tố tụng
dân sự thì bất kỳ người nào có đủ năng lực hành vi dân sự, miễn là không phải
cán bộ, công chức ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an; không thuộc các trường
hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở
giáo dục và quản chế hành chính, chưa bị kết án hoặc đã được xoá án tích, thì
3


đều được Toà án chấp nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Quy định này xuất phát từ thực tế , thời gian khoảng mười năm về
trước, người dân thường nhờ các luật gia hoặc những người có hiểu biết pháp
luật, những người công tác trong lĩnh vực liên quan đến pháp luật bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ, chứ không nhất thiết phải là luật sư. Lý do đầu tiên
khiến đương sự nhờ những người này bảo vệ quyền lợi cho họ là xuất phát từ sự
quen biết, từ sự giới thiệu qua bạn bè, người thân... Thời gian này các đương sự
chưa nhận thức được tính chuyên nghiệp của luật sư quan trọng như thế nào, mặt
khác số lượng luật sư thời gian này vẫn còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu
người dân. Vì vậy, trong xã hội đã xuất hiện một nhóm người chuyên giúp các
đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Toà, trong những người này,
có người chưa hề qua một lớp đào tạo nào về luật mà họ hoạt động nhờ kinh
nghiệm và sự học hỏi thực tế. Ngày nay, khi luật sư trở thành lực lượng chính
trong lĩnh vực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, khi mà các
đương sự cũng đã nhận thức tốt hơn về vai trò và sự cần thiết có luật sư trợ giúp
pháp lý cho họ, nhóm người này vẫn nhận được lời đề nghị giúp đỡ từ một số
đương sự. Giờ đây, lý do các đương sự tìm đến sự giúp đỡ của họ có phần khác
hơn: không phải trước hết vì chuyên môn nghiệp vụ về mặt pháp luật của họ, mà
vì các đương sự tin rằng những người này hoạt động đã lâu, do vậy họ sẽ có kinh
nghiệm và quan trọng hơn, họ có “quan hệ” tốt với Toà án, một trong những
điều kiện thuận lợi cho đương sự trước Toà1.


1.2.

Đặc điểm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự không những có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ

1

Hoàng Thu Yến, “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 5/2006

4


quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà còn có ý nghĩa cả đối với việc giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy
định cụ thể việc tham gia tố tụng của họ. Từ định nghĩa, có thể rút ra đặc trưng
sau về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng từ

khi đương sự nhờ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của họ và được
Tòa án chấp nhận. Tuy cùng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự nhưng việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự khác với người đại diện của đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng
song song cùng với đương sự. Khi tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, không bị ràng
buộc bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự như người
đại diện. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chủ yếu bằng việc hỗ trợ, giúp đỡ
đương sự về mặt nhận thức pháp luật và bằng việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ tố tụng của mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
không bị lệ thuộc hẳn vào đương sự như người đại diện của đương sự, họ có
nhiều quyền hạn hơn trong tố tụng như quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, quyền xác
minh các tình tiết của vụ án ... và họ lại là người có kinh nghiệm tham gia tố
tụng nên trong phiên toà, khi tranh luận, họ thường là chủ thể chính của việc
tranh luận


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy định rất

rộng, không quy định cụ thể từng nhóm người nào chỉ trừ một số trường hợp
như bị mất năng lực hành vi dân sự, bị kết án…nhưng những người được nhờ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường là người am hiểu pháp
luật. Đây là một đặc trưng hết sức quan trọng không chỉ là một tiêu chí bắt buộc
của một luật sư mà còn đối với cả những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
5


pháp của đương sự khác. Bởi lẽ chỉ khi có sự am hiểu về pháp luật thì họ mới có
thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình một cách tốt và
thành công nhất.
Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 quy định rõ tiêu chuẩn luật sư là: “công
dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư

thì có thể trở thành luật sư”.
Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 cũng quy định “Điều 21. Trợ giúp viên
pháp lý
1. Trợ giúp viên pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ
tiêu chuẩn sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt;
b) Có bằng cử nhân luật;
c) Có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý;
d) Có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên;
đ) Có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải có đủ điều kiện tham gia

TTDS theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này được quy định tại Luật
luật sư 2006 và tại tiểu mục 3.1 Mục III Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày
31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của
BLTTDS năm 2004 và phải được sự cho phép của Tòa án.


Sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phụ

thuộc vào đương sự. Điều này thể hiện ở việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự xuất hiện từ khi đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhân.
6


Tuy nhiên, đặc trưng này cũng bị hạn chế trong một số trương hợp như: khi
nhiều đương sự trong cùng một vụ việc có quyền lợi đối lập nhau cùng yêu cầu

một người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; Tòa án không cho phép, v.v…


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng

theo yêu cầu của đương sự nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự của họ do hai bên quyết định, Ngoài ra, trong trường
hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chết, mất năng lực
hành vi dân sự hoặc trong trường hợp đương sự là cá nhân chết, đương sự là tổ
chức chấm dứt hoạt động thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương
sự cũng đương nhiên chấm dứt.


Một người có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhiều đương sự

trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đó không
đối lập nhau. Nhiều người có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho một
đương sự trong vụ án dân sư.


Mục đích tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự.
1.3.

Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự

 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp đương sự nhận thức
đúng quyền, nghĩa vụ của mình và bảo vệ các quyền và lợi ích đó trước Tòa án
khi có sự vi phạm. Đó là nhờ các quyền được pháp luật tố tụng quy định cho

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: quyền xác minh, thu thập chứng cứ và
cung cấp cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; giúp đương sự trình bày về yêu
cầu của họ và cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó tại
phiên tòa; tham gia hỏi tại phiên tòa; v.v..
 Đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án:
7


Một lợi thế của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là sự am
hiểu pháp luật của họ, vì vậy, những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp
nhận, giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi
ích của đương sự. Không những thế, với sự tham gia của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, quá trình xét xử vụ án của Tòa án được công
minh hơn, làm cho người tiến hành tố tụng phải khách quan, tôn trọng pháp luật
hơn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
2. NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG
SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH
2.1.

Điều kiện tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự

Khoản 1 Điều 63 BLTTDS 2005 quy định những người có thể tham gia tố tụng
với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gồm: luật sư,
trợ giúp viên pháp lý và người khác được Toà án chấp nhận. Để được công nhận
là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì phải xuất trình các
giấy tờ theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1mục 3 Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP.
-

Đối với Luật sư thì phải xuất trình cho Toà án giấy giới thiệu của văn


phòng Luật sư nơi họ là thành viên hoặc có hợp đồng làm việc và thẻ Luật sư.
-

Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích khác thì phải xuất trình cho Toà án

văn bản có nội dung thể hiện ý chí của đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, có văn bản của uỷ ban nhân dân xã phường nơi họ cư trú hoặc cơ
quan tổ chức nơi họ làm việc xác nhận không có tiền án, không đang bị khởi tố
về hình sự, không đang bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính, không phải là cán
bộ, công chức trong ngành toà án, Kiểm sát, Công an... và xuất trình các giấy tờ
tuỳ thân khác: chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu...

8


Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ giấy tờ, tài
liệu, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét giải quyết. Nếu
họ có đầy đủ các điều kiện thì cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự để họ tham gia tố tụng. Nếu họ không có đầy đủ các
điều kiện thì không chấp nhận và thông báo bằng văn bản cho đương sự và
người bị từ chối biết trong đó cần nói rõ lý do của việc không chấp nhận.
Tại phiên toà đương sự mới nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, thì Hội đồng xét xử chấp nhận khi người được đương sự nhờ đáp
ứng điều kiện nêu trên và việc chấp nhận đó không gây cản trở cho Hội đồng xét
xử tiếp tục xét xử vụ án. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị
của đương sự hoãn phiên toà để đương sự nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
2.2.

Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự

2.2.1. Quyền tố tụng của người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể tham gia tố
tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào hoặc tham gia tất cả các giai
đoạn trong quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được tham gia phiên tòa Giám đốc thẩm, Tái thẩm nếu Tòa án xét thấy
cần thiết2. Vai trò và hoạt động của người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự được quy định tại Điều 64 và được bổ sung, làm rõ trong điều 58,
203, 221, 232… Bộ luật tố tụng dân sự
Điều 64. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự

2

Khoản 1 Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự số 24/2004/QH11, ngày 15 tháng 6 năm 2004

9


“ 1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình
tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được
tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu
hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ
vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3. Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các điểm m, q và r khoản 2 Điều 58 của Bộ
luật này.”
2.2.1.1. Quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho
Tòa án
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 BLTTDS 2005 thì: Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền được xác minh thu thập chứng cứ và
cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép sao
chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án. Để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, cũng như góp phần làm sáng tỏ nội dung sự thật vụ án
thì công việc xác minh thu thập chứng cứ là tiền đề quan trọng và cần thiết, cho
nên luật cho phép họ có quyền xác minh thu thập chứng cứ là phù hợp tính chất
công việc, tuy nhiên việc xác minh thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp phải đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật, chứng cứ thu thập phải

10


đảm bảo tính khách quan và liên quan với nhau, phải lựa chọn thời điểm thích
hợp để cung cấp cho Toà án, có thể trước khi xét xử hoặc trong quá trình xét xử.
Cũng giống như đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự chỉ được yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án trước khi Toà án mở phiên toà xét xử vụ án. Khi có yêu cầu ghi chép, sao
chụp tài liệu, chứng cứ, thì họ phải làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền. Nếu họ
trực tiếp đến Toà án trình bày yêu cầu được ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ,
thì họ cũng phải thể hiện bằng văn bản nộp cho Toà án. Đơn hoặc văn bản yêu
cầu phải ghi cụ thể các tên tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp.
Trên cơ sở đơn đề nghị, Toà án tạo điều kiện cho họ được ghi chép, sao
chụp tài liệu, chứng cứ mà họ có yêu cầu. Tuy nhiên, theo quy định về chế độ

bảo quản hồ sơ vụ án, về trách nhiệm của cán bộ, công chức của các cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc bảo quản hồ sơ vụ án, thì Toà án yêu cầu thực hiện
quyền ghi chép, sao chụp các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như sau:
a. Toà án cung cấp cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
những tài liệu, chứng cứ cần ghi chép, sao chụp theo yêu cầu của họ, để họ thực
hiện việc ghi chép, sao chụp bằng máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác của
họ. Các tài liệu chứng cứ đó phải liên quan đến vụ án, không liên quan đến bí
mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư. Nếu không
cung cấp tài liệu nào theo đề nghị thì cần nêu rõ lý do.
b. Trong trường hợp không có máy ảnh hoặc phương tiện kỹ thuật khác để tự
mình thực hiện việc sao chụp và nhờ Toà án sao chụp giúp, thì tuỳ theo các điều
kiện cụ thể, lực lượng cán bộ của Toà án mà có thể sao chụp giúp được thì phải
trả chi phí sao chụp theo quy định chung.
Việc sao chụp có thể được thực hiện ngay hoặc có thể trong một thời hạn hợp lý
do Toà án ấn định.

11


c. Việc ghi chép, sao chụp phải được thực hiện tại trụ sở của Toà án dưới sự
giám sát của cán bộ Toà án và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo
vệ bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư.
2.2.1.2. Quyền tham gia hoà giải
Theo quy định của BLTTDS có những vụ việc bắt buộc phải tiến hành
hoà giải và bắt buộc hoà giải tại toà án cấp sơ thẩm mà không bắt buộc ở cấp
phúc thẩm. Luật tố tụng dân sự quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự được tham gia phiên hoà giải cùng đương sự, nếu không
tham gia được thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể
gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tới phiên hoà giải.
Trước khi tham gia hoà giải người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự tư vấn cho đương sự dựa trên cơ sở pháp luật về nội dung chuẩn bị hoà
giải, dự liệu cho đương sự những thuận lợi và khó khăn trong vụ việc cần giải
quyết. Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cần phải
chuẩn bị các tình huống dự phòng khác nhau cho phiên hoà giải. Trong trường
hợp hoà giải không thành, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải tiếp tục
củng cố chứng cứ và lập luận để chuẩn bị cho phiên xét xử. Cũng thông qua
phiên hoà giải không thành, các thông tin mà Toà án có được qua quá trình hoà
giải sẽ giúp Toà án áp dụng luật giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng.
2.2.1.3. Quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng khác
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có quyền thay mặt đương sự yêu
cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác. Đây là một
quyền phái sinh từ quyền của đương sự, mục đích là bảo vệ quyền lợi của đương
sự một cách chính đáng nhất
2.2.1.4. Quyền tham gia phiên tòa
12


Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện ở thủ
tục bắt đầu phiên toà, thủ tục hỏi, và thủ tục tranh luận tại phiên toà.
a, Thủ tục bắt đầu phiên toà: Theo quy định của BLTTDS, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền và nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu
tập của Toà án.
b, Thủ tục hỏi: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình
bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có
căn cứ và hợp pháp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình
bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố, đề nghị
của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu,

đề nghị của nguyên đơn, bị đơn, yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và
hợp pháp.
c, Thủ tục tranh luận: Theo Điều 232 BLTTDS, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan phát
biểu ý kiến, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan có quyền
bổ sung ý kiên. Khi tranh luận trình bày quan điểm của mình, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự cần nhận định các tình tiết quan trọng
của vụ việc, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ, khẳng định lại giá trị chứng
minh của chứng cứ kết hợp với căn cứ của pháp luật để làm căn cứ pháp lí,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tôn trọng sự điều
khiển của chủ toạ phiên toà và phải tập trung làm sáng tỏ các tình tiết cần chứng
minh trên cơ sở đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một
cách tốt nhất. Nếu thấy đã tranh luận về các vấn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa
khẳng định được những tình tiết của vụ việc thì người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự có thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại thủ tục hỏi.
13


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường là người có
kinh nghiệm tham gia tố tụng nên trong phiên toà, khi tranh luận, họ thường là
chủ thể chính của việc tranh luận. Thực tế hầu hết các phiên toà đã chứng minh,
trong các vụ án có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, thì họ là người trình bày chính và là người bao quát hầu hết nội dung
mà đương sự muốn trình bày. Hiện nay, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
mới thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, là người trình bày
trước, nghĩa là so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thì hiện nay
người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự gần như là người “nói hết những gì
cần nói”, đương sự chỉ có việc bổ sung nếu cần thiết mà thôi
2.2.1.5.


Quyền sau khi kết thúc phiên tòa

Nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bảo vệ cho
đương sự từ cấp sơ thẩm thì tùy thuộc vào diễn biến của phiên tòa mà người bảo
vệ quyền lợi của đương sự có thể giúp đương sự kháng cáo ngay khi Tòa sơ
thẩm tuyên án. Nếu sau phiên tòa sơ thẩm, đương sự mới nhờ người bảo vệ, để
người bảo vệ cần nghiên cứu lại hồ sơ vụ việc thì tùy thuộc vào yêu cầu của
đương sự và thực tiễn bản án so với các tình tiết khách quan của vụ án mà người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể giúp đương sự chuẩn bị
tài liệu, chứng cứ mới để kháng cáo một phần hay toàn bộ bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm.
2.2.2. Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
2.2.2.1. Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Đương sự uỷ quyền cho người bảo vệ quyền lợi của đương sự bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ. Cùng với những quyền được quy định tại Điều 64
BLTTDS 2005 và các văn bản pháp luật khác thì người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự cũng phải có những nghĩa vụ quy định tại các điểm q và
14


r khoản 2 Điều 58. Theo đó, họ cần phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và
chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án cũng như
tôn trọng và chấm hành nghiêm chỉnh nội quy tại phiên tòa
Theo quy định của BLTTDS mà cụ thể là Điều 203 ấn định: người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu
tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất mà có lí do chính đáng thì Hội đồng
xét xử cho hoãn phiên toà, nếu được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt thì Toà án sẽ xét xử bình thường và đương sự phải tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, tham gia phiên toà theo giấy triệu

tập của đương sự vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp.
Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa
vụ giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý - xuất phát từ đặc điểm của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường là người có kiến thức pháp luật,
trình độ hiểu biết và kinh nghiệm tham gia tố tụng cao. Bên cạnh đó, các đương
sự trong vụ án không phải đương sự nào cũng có thể hiểu hết các quy định của
pháp luật, đặc biệt là những quy định về trình tự, thủ tục tiến hành việc giải
quyết một vụ án dân sự tại toà. Bởi vậy, giúp đương sự về mặt pháp lý xác định
là một nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một
quy định cần thiết, phù hợp với mục đích tham gia tố tụng của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi nhận nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi
cho đương sự, luật sư, bào chữa viên nhân dân hay người khác được Toà án chấp
nhận cần phải gánh lấy trách nhiệm là người cố vấn pháp lý cho đương sự trong
suốt quá trình tố tụng, hướng dẫn họ các bước thực hiện, giải thích những điều
họ chưa hiểu... nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
2.2.2.2. Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa

15


Ngoài nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Đây chính là hai mặt không tách rời trong hoạt động của
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi vì, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự sử dụng pháp luật là công cụ chủ yếu để bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng và muốn cho lợi ích của khách hàng được đảm bảo
thì họ phải bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Chính vì thế, khi tham gia tố
tụng, ngoài nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của đương sự phải có trách nhiệm trong việc giúp cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, làm rõ sự thật khách quan của
vụ án, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
bảo vệ sự nghiêm minh của hoạt động tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự không được chỉ quan tâm tới lợi ích của khách hàng mà
bất chấp sự thật, bất chấp pháp luật; thiếu sự cộng tác, tư vấn gây khó khăn cho
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo các vấn đề khác nhau của
xã hội phát triển theo đặc biệt là trong nhận thức của con người. Do vậy, một số
lượng lớn người dân khi tham gia tố tụng đã nhờ người khác bảo vệ quyền lợi
của mình trong những năm qua, đặc biệt là kể từ khi BLTTDS có hiệu lực.
Số lượng vụ việc có sự tham gia của luật sư và đương sự được tư vấn về
mặt pháp lý tăng lên đáng kể. Với sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thì quyền lợi của đương sự được đảm bảo chắc chắn
16


hơn, đặc biệt là đã thể hiện được vai trò quan trọng của luật sư trong việc tham
gia tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nhiều năm
trước đây, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (ngoại trừ luật
sư) thường là những người thậm chí chưa hề qua một lớp đào tạo nào về luật mà
họ hoạt động nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi thực tế vì vậy mà chưa đáp ứng
được nhu cầu của người dân và sự tin tưởng của Tòa án. Nhưng với năng lực

hiện nay của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, vấn đề đó đã
được khắc phục. Đương sự dần tìm đến các luật sư bởi sự vững vàng về chuyên
môn nghiệp vụ và mối quan hệ tốt với tòa án của họ.
Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm trên thì việc thực hiện các quy định của
BLTTDS có liên quan đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể:
- Việc gây khó khăn cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
không chỉ ở thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa mà còn ở nhiều vấn đề khác
nhau như thu thập tài liệu, chứng cứ. Nhiều trường hợp người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự bị tòa án gây khó khăn với nhiều lý do cho việc
tiếp cận hồ sơ để nghiên cứu.
- Tại các phiên tòa, chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo an toàn cho người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ như vụ bị đơn Nguyễn Bích
Thủy cầm guốc xông vào đánh luật sư Trần Đình Triển ngay trước mặt chủ tọa,
thẩm phán, đại diện viện kiểm sát và những người tham dự phiên tòa trong
phòng xử án TAND thành phố Hà Nội ngày 1/4/2008.3
- Vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với việc giải
quyết tranh chấp thông qua tranh tụng tại Tòa án và Trọng tài đã được Nhà nước
thừa nhận và đã được khẳng định qua thực tế hoạt động. Nhưng vai trò của họ
đối với việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải, nhất là trong quá

3

/>
17


trình Tòa án giải quyết vụ án đến nay vẫn hoàn toàn mới mẻ, hầu như chưa có
"sân chơi" cho lĩnh vực này. Việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự giúp các bên tìm ra một giải pháp tích cực và ôn hòa trong việc giải

quyết tranh chấp là điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên nhìn lại các quy định về
hòa giải ở cả Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 và Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi năm 2011 mặc dù có đề cập đến việc luật sư
tham gia hòa giải, nhưng rất chung chung, không cụ thể.
Bộ luật tố tụng dân sự quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền "tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự" ( Điều 64 BLTTDS). Nhưng
quy định về thành phần những người tham gia hòa giải quy định tại điều 184 chỉ
bao gồm:
“ Điều 184. Thành phần phiên hòa giải
1. Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.
2. Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự
4. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan tham gia phiên hòa giải.
5. Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.”
Điều này dẫn đến việc nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia vụ án với vai trò là người đại diện của đương sự thì được
tham gia hòa giải, nhưng trong trường hợp luật sư tham gia với vai trò người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì sự tham gia trong quá trình hòa
giải không được quy định cụ thể. Cụ thể, Bộ luật tố tụng dân sự quy định về việc
Toà án thông báo về phiên hoà giải và về thành phần phiên hoà giải, về phía
đương sự chỉ có đương sự và người đại diện hợp pháp của đương sự, không hề
18


đề cập đến sự tham gia của luật sư (Điều 183, 184). Điều này dễ dẫn tới việc nếu
Thẩm phán thích thì chấp nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia hòa giải, nếu không thích thì có thể từ chối với lý do "luật
không quy định

Với quy định như vậy thì việc hoà giải do Thẩm phán trực tiếp tiến hành thực
chất chỉ mang tính hình thức, mà hầu như không có hiệu quả trên thực tế.
- Những quy định tiến bộ của BLTTDS về tranh luận tại một số phiên tòa nhiều
khi chỉ mang tính hình thức. Một số thẩm phán quá coi nhẹ sự có mặt của người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhiều bản án không hề ghi nhận
quá trình tranh luận tại phiên tòa và trong nhiều trường hợp yêu cầu của họ cũng
không được chấp nhận do tòa cho rằng không có căn cứ và cũng không có giải
thích gì thêm.
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 chỉ mới đề cập
đến người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự
còn đối với giải quyết việc dân sự, vấn đề này vẫn còn bị bỏ ngỏ. Theo quy định
tại Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự thì người tham gia phiên họp dân sự bao
gồm đại diện Viện kiểm sát nhân dân, người yêu cầu hoặc người đại diện hợp
pháp của họ, người có liên quan. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết Tòa án có
thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch tham gia
phiên họp. Như vậy, theo quy định này, phiên họp giải quyết việc dân sự không
có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu
hay người có liên quan. Trong khi đó, đối với việc giải quyết vụ án dân sự, theo
quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng dân sự có sự tham gia của người bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự.
- Số lượng luật sư trung bình trên số dân còn quá thấp. hiện nước ta mới có
khoảng 4.000 luật sư hành nghề, trung bình 20.000 người dân mới có một luật sư
và khoảng 80% vụ án chưa có luật sư tham gia tố tụng. Số lượng luật sư phân bổ
19


không đều trên cả nước, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã tập trung
khoảng 2.000 luật sư. Trong số những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn có một, phần trong số đó khả năng bảo vệ
đương sự còn yếu thậm chí nhiều khi còn gây bất lợi cho chính bản thân do cách

bảo vệ vi phạm pháp luật.4
3.2.

Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng các

quy định của pháp luật TTDS về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự
 Thứ nhất, từ nhân sự và hệ thống tổ chức tòa án
Trọng tâm của những hạn chế bất cập trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng
thường xuất phát từ phía tòa án là chính. Cụ thể là còn một số cán bộ, thẩm phán
thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất, ý thức rèn luyện, không hoàn thành
nhiệm vụ thậm chí vi phạm pháp luật.
Đội ngũ thẩm phán hiện nay vừa yếu, vừa thiếu. Trong hơn 4.000 thẩm phán các
cấp, có khoảng 10% yếu kém về trình độ, năng lực, từng bị hủy hoặc sửa án.
Trung bình mỗi thẩm phán một năm phải xét xử khoảng 60 vụ án thì ngành lại
thiếu khoảng 2300 người. Nhân lực thiếu nhưng để tuyển và giữ người thì ngành
tòa án đang bế tắc bởi hiện tượng chảy máu chất xám. Hệ thống tòa án được tổ
chức theo đơn vị hành chính từ trung ương tới địa phương, nhân sự của tòa án
chủ yếu là đảng viên, vì vậy sẽ không đảm bảo được sự độc lập của toà án trong
quá trình xét xử bởi các thẩm phán không những bị phụ thuộc vào sự lãnh đạo
của đảng mà còn bị chính quyền địa phương chi phối.
 Thứ hai, những quy định của pháp luật về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự

4

/>
20



+ Một số tòa căn cứ vào điều 63 BLTTDS đã gây cản trở cho người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng. Nhiều trường hợp khi
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã xuất trình đầy đủ các
giấy tờ, tài liệu theo luật định nhưng tòa án vẫn từ chối hoặc kéo dài thời gian
cấp giấy chứng nhận bảo vệ. Quy định tại điều 63 dường như đã cho tòa án
quyền quyết định có cho người bảo vệ đương sự tham gia tố tụng hay không. Do
nhận thức của một số tòa án chưa được đầy đủ về ý nghĩa vai trò của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên đã gây khó khăn cản trở cho
người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự trong thực tiễn.
+ Điều 90 BLTTDS chỉ quy định cho thẩm phán có quyền trưng cầu giám định,
tuy nhiên các thẩm phán thường không chủ động mà chờ khi có đơn yêu cầu của
đương sự. Trong khi đó luật lại không quy định cho đương sự và người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của đương sự được trưng cầu giám định mà phải làm đơn tới
thẩm phán thụ lý vụ việc. Điều này gây cản trở tới việc xác minh, thu thập chứng
cứ của đương sự và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, đặc biệt là
trong những vụ việc mà kết luận giám định là chứng cứ quan trọng nếu thiếu sẽ
không giải quyết được vụ việc.
+ Điều 64 BLTTDS quy định “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu tòa án xét thấy
cần thiết”. Như vậy chỉ khi nào tòa án xét thấy cần thiết thì mới cho người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Tuy nhiên trên thực tế rất khó có khả năng này bởi đây là một thủ tục đặc
biệt, nhiều khi không cần thiết thì tòa án không triệu tập đương sự đến. Vì vậy
quy định này tạo cho tòa án quyền hạn rất lớn trong việc xác định thế nào là cần
thiết và là nguyên nhân hạn chế hầu hết sự tham gia giai đoạn giám đốc thẩm, tái
thẩm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.


Thứ ba, xuất phát từ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự

21


Tuy rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vai trò rất
lớn trong vụ việc dân sự, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng vẫn còn tồn tại rất
nhiều hạn chế đối với bộ phận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Một trong những hạn chế lớn nhất là trình độ của luật sư,
còn thiếu cả số lượng và chất lượng. Trong 4.000 luật sư thì chỉ có rất ít người
đủ tiêu chuẩn tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế nhưng số lượng luật sư
ít ỏi này cũng chưa tham gia giải quyết một vụ tranh chấp quốc tế nào. Mặc dù
nước ta có cơ sở đào tạo Luật sư nhưng chất lượng đào tạo không thể đảm bảo
để người học có thể hành nghề được sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, một số luật
sư khi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không những
không làm tròn nghĩa vụ mà còn vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề
nghiệp như sử dụng những biện pháp bất hợp pháp để bảo vệ khách hàng hoặc
giao kết hợp đồng với khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Chính điều này đã gây
bất lợi cho đương sự được bảo vệ và nhiều khi chính luật sư cũng bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
3.3.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của người bảo vệ quyền
và lợi ích của đương sự



Tiếp tục nâng cao chất lượng của thẩm phán và định hướng xây dựng hệ

thống tòa án nhân dân theo chiến lược cải cách tư pháp. Theo đó đội ngũ cán bộ
tòa án, đặc biệt là thẩm phán phải là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật,
có kinh nghiệm trong ngành, cần có chế độ ưu đãi thích hợp với thẩm phán thì

sự tận tâm sẽ được nâng lên. Đồng thời cần xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực
như nhận tiền hối lộ, chạy án. Ngoài ra cần làm tốt việc nâng cao tranh tụng tại
tòa, tăng cường hòa giải trong việc giải quyết việc dân sự, thường xuyên kiểm
tra công tác xét xử…
Về hệ thống tố chức tòa án phải thực hiện theo tinh thần của nghị quyết
49/2005/NQ – TW là xây dựng đề án thành lập tòa án theo thẩm quyền mà
22


không tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính như hiện nay để tránh được sức ép
từ chính quyền địa phương và giảm áp lực cho TAND.


Tăng cường sự giám sát các hoạt động tư pháp của viện kiểm sát trong tất

cả các vụ việc dân sự. Với những khiếm khuyết của tòa án về nhân sự và tổ chức
như trên đã phân tích là một trong những nguyên nhân dẫn đến những sai phạm
trong hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Do vậy, cần phải quy
định cho viện kiểm sát được tham gia tất cả các vụ việc dân sự để cơ quan này
thực hiện chức năng giám sát các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, đặc biệt là tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.


Cần sửa đổi một số quy định của pháp luật TTDS liên quan đến người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
+ Quy định tại điều 63 BLTTDS cần được sửa đổi, bỏ cụm từ “được tòa án chấp
nhận” để tránh tâm lý cầu cạnh nơi cửa tòa. Quy định phải được tòa án chấp
nhận thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới được tham
gia là không hợp lý bởi dân sự là một ngành luật tư, các quan hệ phát sinh, thay

đổi chấm dứt đều do ý chí của các chủ thể.
Cũng theo quy định tại điều này thì những người là cán bộ, công chức
trong ngành tòa án, viện kiểm sát, công an không được làm người bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho đương sự để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết
vụ án. Tuy nhiên quy định này còn bỏ ngỏ bởi sau khi họ không còn là cán bộ
công chức trong các ngành đó thì họ có quyền trở thành người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đương sự. Để tránh tiêu cực cần quy định một khoảng thời
gian hợp lý là 3 tới 5 năm sau khi không làm việc trong các ngành đó thì họ
được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
+ Điều 64 BLTTDS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền xác minh thu thập chứng cứ nhưng lại không có quy định rõ
ràng cụ thể dẫn tới sự lúng túng trong việc xác minh thu thập chứng cứ (đặc biệt
23


là với những người ít kinh nghiệm trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự). Do vậy, cần phải bổ sung thêm biện pháp xác minh, thu thập chứng
cứ vào khoản 2, điều 64 BLTTDS hoặc ban hành một văn bản dưới luật để
hướng dẫn chi tiết về vấn đề này.
Thêm vào đó để tạo sự thuận lợi chủ động trong quá trình xác minh thu
thập chứng cứ cần quy định cho đương sự và người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền trưng cầu giám định mà không cần đợi thẩm phán
ra quyết định trưng cầu giám định.
+ Quy định cụ thể người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
thành phần tham gia hòa giải, quyền và nghĩa vụ của họ trong giai đoạn này,
tránh tình trạng tiến hành hòa giải chỉ mang tính hình thức với nội dung hoà giải
được quy định chỉ đơn giản theo kiểu:
“ Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên
quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình,
phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận

với nhau về việc giải quyết vụ án” ( Điều 185 BLTTDS).
+ Bổ sung thêm người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong giải quyết
việc dân sự cũng như quyền và nghĩa vụ của họ. Điều 313 Bộ luật dân sự không
quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự trong việc dân sự , tuy nhiên, theo nguyên tắc “Tòa án áp dụng những quy
định của Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác của Bộ luật này
không trái với những quy định của Chương này để giải quyết những việc dân
sự” quy định tại Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự và Luật luật sư thì sự có mặt
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình giải
quyết việc dân sự nói chung và tại phiên họp giải quyết việc dân sự nói riêng là
hợp lí. Mặt khác, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường
là người am hiểu pháp luật, do đó sự có mặt của họ tại phiên họp giải quyết việc
24


dân sự sẽ góp phần giúp đương sự bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Ngoài ra, việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong vụ việc dân sự còn là quyền được bảo đảm quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi họ không có khả năng tự bảo vệ
quy định tại Điều 9 Bộ luật tố tụng dân sự: “Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc
nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của bộ luật này bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Bên cạnh đó, Điều 22 Luật luật sư năm 2006 về phạm vi hành nghề của
Luật sư quy định, luật sự “tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong các…việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động, và các vụ, việc khác theo quy định của pháp
luật”. Đối với việc giải quyết các việc liên quan đến hoạt động của trọng tài
thương mại Việt Nam, Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 đến Luật Trọng
tài thương mại năm 2010 đều quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự trong những trường hợp này. Như vậy, sẽ là
hợp lý và khoa học nếu bổ sung thêm vào khoản 5 Điều 313 Bộ luật tố tụng dân
sự theo hướng sau:
“Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia
phiên họp theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng thì phải hoãn phiên họp. Nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất mà Tòa án có căn cứ xác định được
việc vắng mặt là không có lý do chính đáng hoặc người này đã được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tiến hành giải quyết việc dân
sự vắng mặt họ; trong trường hợp này, đương sự tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”.
KẾT LUẬN
25


×