Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Chức năng của tòa án trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Chức năng của
Tòa án trong tố tụng hình sự” là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
thực hiện trên cơ sở các kiến thức lý luận, thực tiễn và tham khảo các tài
liệu liên quan. Các số liệu có nguồn trích dẫn đảm bảo tính trung thực,
chính xác; luận văn chưa từng được công bố trong công trình nghiên cứu
nào khác.
Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2016

Người viết luận văn

Nguyễn Thị Thu Trang



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV:

Điều tra viên

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên


TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TGTT:

Tham gia tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

TW:

Trung ương

VKS:

Viện kiểm sát

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG

1
9

CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm chức năng của Tòa án trong tố tụng

9

hình sự
1.2. Phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự

15

1.3. Các nguyên tắc bảo đảm thực hiện chức năng của Tòa án trong

18

tố tụng hình sự
Kết luận chương 1

33

Chương 2: THỰC TRẠNG CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN

34


TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Thực trạng pháp luật về chức năng của Tòa án trong tố tụng

34

hình sự Việt Nam
2.2. Thực trạng thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự

55

Kết luận chương 2

66

Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VIỆC THỰC HIỆN

68

CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. Tiếp tục hoàn thiện chức năng của Tòa án và tăng cường

68

hướng dẫn, triển khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
3.2. Các giải pháp khác

77

Kết luận chương 3


82

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 6 đã thông qua Hiến pháp mới, có thể nói đây là một sự kiện chính trị - pháp lý
đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta.
Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa những thành tựu lập hiến của các bản Hiến pháp
năm 1946, 1959, 1980, 1992, đồng thời tiếp thu những tư tưởng mới về Nhà nước
pháp quyền cũng như thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định quan trọng cho công
cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta nói chung, tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân trong tiến trình Cải cách tư pháp nói riêng trong thời gian tới.
Với nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước với đủ ba yếu tố phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp thì
Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946 đã xác định một
cách rõ ràng: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp" (Điều 2 Hiến pháp 2013), theo đó, Quốc hội là cơ quan thực
hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân
dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định "Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư

pháp". Như vậy, chức năng của Tòa án là chức năng xét xử - một chức năng đã
được thể hiện xuyên suốt trong các bản Hiến pháp trước đây. Tuy nhiên đây là lần
đầu tiên Tòa án được trao một sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án đó là "thực
hiện quyền tư pháp". Đây là quy định rất mới của Hiến pháp năm 2013 và bằng việc
quy định đó Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa
án nhân dân trong bộ máy cơ quan nhà nước, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất
thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; Tòa án nhân dân là cơ quan
duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy


2

định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài Nhà nước, giải quyết
các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì vậy,
quy định của Hiến pháp năm 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền
của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của Nhà nước pháp
quyền. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ
thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều
chủ trương cải cách tư pháp và nhấn mạnh: "Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư
pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận
tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo
đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa
làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao
chất lượng hoạt động tư pháp"1; đồng thời yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể
khác của tố tụng hình sự. Đây là những định hướng quan trọng, chỉ đạo việc nghiên
cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư

pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của Tòa án khi thực hiện
chức năng Hiến định này. Và để Tòa án thực hiện được chức năng xét xử đó thì Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung những quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án. Những sửa đổi, bổ sung này giúp góp phần bảo đảm cho Tòa án
thực hiện tốt hơn quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời
cũng bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự” là một
yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay.
1

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014
của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nghiên cứu liên quan đến chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
đã được nhiều tác giả trình bày trong các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác
nhau như:
- Luận án tiến sĩ luật học:
+ Lê Tiến Châu (2008), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam,
Viện Nhà nước và pháp luật, Viện khoa học xã hội Việt Nam. Trong luận án, tác giả
đã khẳng định xét xử là chức năng cơ bản, chức năng trung tâm có vai trò quyết
định trong TTHS, là chức năng độc lập có khả năng kiểm soát việc thực hiện các
chức năng tố tụng khác. Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về chức năng tố
tụng hình sự như khái niệm, các loại chức năng tố tụng; vị trí, vai trò của chức năng
xét xử trong các mô hình, hình thức tố tụng hình sự; nêu nội dung và phạm vi chức
năng xét xử trong các quy định pháp luật tố tụng hình sự; về nguyên tắc, cơ chế
giám sát việc thực hiện chức năng xét xử cũng như vai trò của chủ thể thực hiện

chức năng xét xử. Tác giả đã phân tích và chỉ ra những thành công cũng như bất cập
trong quy định pháp luật về chức năng xét xử từ góc độ pháp luật thực định cũng
như từ hoạt động thực tiễn, là những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế hiệu quả của
việc thực hiện chức năng xét xử nói riêng và chức năng tố tụng nói chung. Trên cơ
sở đó tác giả luận án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng
xét xử trong TTHS trong quá trình cải cách tư pháp và hoạn thiện các thủ tục tố
tụng hình sự Việt Nam.
+ Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt
Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện khoa học xã hội, Viện khoa học
xã hội Việt Nam. Trong luận án, tác giả nghiên cứu ba chức năng cơ bản trong Tố
tụng hình sự Việt Nam đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng
xét xử. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận của việc xác định chức năng tố tụng, ý nghĩa,
nội hàm, phạm vi và giới hạn của từng chức năng trong tố tụng hình sự; xác định rõ
mối liên hệ giữa chức năng của tố tụng với mô hình tố tụng hình sự, các nguyên tắc
của tố tụng hình sự, đặc điểm của quá trình chứng minh trong vụ án hình sự; xác


4

định chủ thể thực hiện các chức năng tương ứng trong tố tụng hình sự. Đồng thời
tác giả đã đưa ra những quan điểm và các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp
luật về chức năng tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Luận án là công trình đầu tiên xây dựng
quan điểm lý luận tổng thể về chức năng tố tụng hình sự; làm rõ vai trò của việc
phân định các chức năng tố tụng đối với việc thực hiện mục đích đổi mới tố tụng
hình sự nước ta theo hướng tiếp thu các yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng.
- Luận văn thạc sĩ luật học: Trần Hoàng Giang (2012), Chức năng của Tòa
án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Đại học Luật Hà Nội. Trong luận
văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự - giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự. Tác giả đã chỉ ra

tính chất của xét xử sơ thẩm quy định sự khác biệt giữa chức năng của Tòa án trong
giai đoạn này với chức năng của các cơ quan tư pháp khác như VKS, CQĐT và với
chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tác giả đã phân tích có hệ thống, đầy đủ chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ cơ sở khoa học đến các quy định hiện hành và thực tiễn
áp dụng; đã chỉ ra những quy định chưa thực sự hợp lý như về nghiên cứu hồ sơ và
triệu tập người tham gia tố tụng, về trả hồ sơ điều tra bổ sung, về xét xử tại phiên
tòa; và từ việc phân tích thực trạng, tác giả đã nêu rõ những nguyên nhân và xét
trong yêu cầu cải cách tư pháp đã đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Các bài viết:
+ Trần Văn Độ (2010), "Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa
án trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát
(20). Trong bài viết, tác giả dựa trên cơ sở lý luận quan trọng nhất để nghiên cứu
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án là việc khẳng định về mặt lý luận
chức năng duy nhất của Tòa án là xét xử. Ngoài xét xử, Tòa án không có chức năng
nào khác. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án được xác định trong phạm vi chức
năng xét xử đó. Trước yêu cầu cải cách tư pháp, tác giả đưa ra kiến nghị về việc


5

hoàn thiện các quy định của BLTTHS về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa
án cần được hoàn thiện theo hướng thể hiện chức năng duy nhất của Tòa án là xét
xử, không giao cho Tòa án các thẩm quyền không liên quan đến chức năng xét xử
hoặc trái với chức năng xét xử.
+ Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy Phượng (2011), "Tòa án là trung tâm, xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp", Tạp chí Tòa án
nhân dân (9). Trong bài viết, các tác giả đưa ra kiến nghị nhằm triển khai các giải
pháp đồng bộ, chủ yếu - quan trọng hơn cả để nâng cao vai trò của quyền tư pháp

trong quá trình tổ chức bộ máy quyền lực nói chung nhằm bảo đảm cho Tòa án là
trung tâm, xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp,
đó là: sửa đổi, bổ sung các quy phạm hiến định về tổ chức bộ máy quyền lực Nhà
nước phù hợp với các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền; xây dựng cơ chế bảo
vệ Hiến pháp bằng nhánh quyền tư pháp (Tòa án) phù hợp với các nguyên tắc của
Nhà nước pháp quyền và pháp điển hóa lần thứ ba luật Tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành.
+ Nguyễn Hoài Nam (2010), "Thực trạng và hướng hoàn thiện chức năng
xét xử của Tòa án trong BLTTHS 2003", Tạp chí Tòa án nhân dân (16). Trong bài
viết, tác giả đã phân tích những bất cập từ một số quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án, không làm rõ các
chức năng buộc tội, gỡ tội và xét xử, cũng như không phân định cụ thể về tổ chức,
nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất kiến nghị
sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự 2003 như tăng cường yếu tố tranh tụng; sửa
đổi Điều 10 BLTTHS theo hướng khẳng định Tòa án là cơ quan thực hiện chức
năng xét xử và không có trách nhiệm chứng minh tội phạm; sửa đổi Điều 196 về
giới hạn của việc xét xử theo hướng để Tòa án xét xử những bị cáo và những hành
vi mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử và bỏ quy định việc Tòa
án vẫn xét xử khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố.


6

+ Nguyễn Ngọc Chí (2009), "Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trong bài viết này, với chức năng xét xử, Tòa án là đại diện cho quyền lực tư pháp,
trên cơ sở những luận giải khoa học, tác giả đã đưa ra kiến nghị thay đổi cách thức
tổ chức tòa án theo địa giới hành chính sang tiêu chí chức năng, thẩm quyền xét xử;
hoàn thiện BLTTHS năm 2003 theo hướng loại bỏ những quy định không thuộc

chức năng xét xử của Tòa án;
+ Hoàng Thị Minh Sơn (1998), "Các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử
trong tố tụng hình sự", Tạp chí Luật học (2). Trong bài viết này, tác giả chủ yếu chỉ
tập trung làm rõ khái niệm chức năng buộc tội, chữa năng bào chữa, chức năng xét
xử cũng như mối quan hệ giữa ba chức năng này với nhau. Bài viết không đề cập
đến quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như thực trạng thực hiện những
quy định này trong tố tụng hình sự. Mặt khác bài viết được công bố trước khi
BLTTHS năm 2003 được ban hành nên chưa gắn với Cải cách tư pháp ở nước ta.
Hầu hết các công trình khoa học, các bài viết nghiên cứu trên đã tập trung
nghiên cứu về các chức năng trong tố tụng hình sự nói chung và chức năng xét xử
của Tòa án nói riêng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về chức năng của
Tòa án trong tố tụng hình sự Việt Nam theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, cần thiết phải có sự nghiên cứu cụ thể và
toàn diện hơn về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự,
phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự và một số nguyên tắc
liên quan đến việc thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của các quy định về chức năng của Tòa án
trong tố tụng hình sự, đánh giá kết quả đạt được cũng như hạn chế vướng mắc từ đó
tìm ra được những nguyên nhân từ thực trạng thực hiện chức năng của Tòa án trong
tố tụng hình sự.


7

- Định hướng việc tiếp tục hoàn thiện chức năng của Tòa án, đồng thời tăng
cường hướng dẫn, triển khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và đề xuất
các giải pháp nhằm thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự.

4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, luận văn phải trả lời được các câu hỏi sau đây:
- Khái niệm, đặc điểm chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự là gì?
- Phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự được xác
định như thế nào? Cơ sở xác định nội dung chức năng của Tòa án trong tố tụng hình
sự? Nội dung chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự được thể hiện ra sao?
- Những nguyên tắc nào liên quan đến việc thực hiện chức năng của Tòa án
trong tố tụng hình sự? Nội dung của các nguyên tắc đó được thể hiện như thế nào?
- Pháp luật về chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự được quy định như
thế nào? So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
đã có những sửa đổi, bổ sung gì để bảo đảm việc thực hiện chức năng của Tòa án
trong tố tụng hình sự?
- Thực trạng pháp luật về chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự có
những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào? Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
đó là gì?
- Những vấn đề cần kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện chức năng của Tòa
án trong tố tụng hình sự và giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện chức năng của
Tòa án trong tố tụng hình sự?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận; quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và thực trạng thực hiện quy định về chức năng xét xử của
Tòa án nhân dân trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật tố tụng hình sự năm 2003 về chức
năng của Tòa án trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định pháp luật tố tụng


8
hình sự năm 2003 của Tòa án nhân dân về chức năng của Tòa án trong tố tụng hình

sự Việt Nam trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. Luận văn không nghiên
cứu thực tiễn thực hiện quy định này của Tòa án quân sự.
Do BLTTHS năm 2015 đã được ban hành và theo Nghị quyết số
144/2015/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13 từ
ngày 01 tháng 7 năm 2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành, nên ngoài việc phân tích quy định
chức năng của Tòa án trong BLTTHS năm 2003, luận văn cũng nghiên cứu một số
nội dung liên quan trong BLTTHS năm 2015.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, về pháp luật và đấu tranh
phòng chống tội phạm và chính sách hình sự của Nhà nước ta.
- Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng hệ thống phương pháp phổ biến
hiện nay trong nghiên cứu khoa học như: phân tích, so sánh, tổng hợp...
7. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn phân tích có hệ thống, đầy đủ chức năng của Tòa án trong tố tụng
hình sự từ cơ sở khoa học đến các quy định pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 và
thực tiễn áp dụng
- Luận văn đưa ra những quy định chưa thực sự phù hợp, từ đó đóng góp ý
kiến hoàn thiện pháp luật thực định về chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
- Luận văn phân tích những hạn chế trong thực hiện chức năng của Tòa án
trong tố tụng hình sự, đưa ra đề xuất kiến nghị khắc phục.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
- Chương 1: Lý luận về chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
- Chương 2: Thực trạng chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
- Chương 3: Giải pháp bảo đảm việc thực hiện chức năng của Tòa án trong tố
tụng hình sự.



9

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
Dưới góc độ ngôn ngữ, theo từ điển tiếng Việt, chức năng được hiểu là
"nhiệm vụ, tác dụng nói chung"2. Do đó, theo nghĩa chung nhất thì chức năng của
Tòa án là nhiệm vụ, tác dụng của cơ quan Tòa án. Như vậy có thể hiểu Tòa án sinh
ra là để giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội
mà Nhà nước là đại diện.
Dưới góc độ tổ chức quyền lực Nhà nước, theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013:
"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp". Theo đó, ở nước ta Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính
phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử một trong
những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án
nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước,
hay có thể nói Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Điều này được
thể hiện rõ nét qua Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các
chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện,
phương tiện làm việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm". Vị trí trung tâm của Tòa án được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền đưa ra các quyết định giải
quyết vụ án. Sự tham gia của các chủ thể ở các giai đoạn như điều tra, truy tố, thu
thập chứng cứ hay tại giai đoạn xét xử như buộc tội, bào chữa tại phiên tòa, tranh
2


Viện ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, NXB Hồng Đức, Hà Nội;


10

luận tại phiên tòa đều nhằm phục vụ cho việc đánh giá và đưa ra các quyết định của
Tòa án. Kết quả của quá trình tố tụng là việc Tòa án xác định được bản chất của vụ
án và từ đó đưa ra quyết định mang tính quyền lực Nhà nước thể hiện sự đánh giá
pháp lý về vụ án và xác định trách nhiệm của chủ thể liên quan.
Thứ hai, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án; sau khi xem xét đầy đủ, khách quan, toàn
diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án ra một phán quyết về một hành vi nào đó theo
quy định của pháp luật là có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt gì cho tội
phạm đó. Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành.
Dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Tòa án là cơ quan Nhà
nước, mà “chức năng của Nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của Nhà
nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng Nhà nước lại là sự biểu
hiện cụ thể của bản chất và vai trò của Nhà nước"3. Do vậy chức năng của Tòa án
được quy định bởi bản chất, vai trò của chính cơ quan này. Có thể thấy Tòa án vốn
được hình thành và tồn tại nhằm giải quyết các tranh chấp trong xã hội, phương
diện hoạt động cơ bản và quan trọng nhất của nó là xét xử. Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam và Luật tổ chức Tòa án nhân dân qua từng thời kì đã khẳng
định điều đó. Chính vì vậy, chức năng của Tòa án là chức năng xét xử. Sau khi thụ
lý hồ sơ vụ án hình sự, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ
sơ, trong thời hạn luật định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đưa ra các quyết định xử
lý hoặc mở phiên tòa xem xét một cách công khai, đầy đủ, toàn diện, khách quan

chứng cứ do các bên cung cấp, điều khiển tranh luận tại phiên tòa để xác định sự
thật khách quan của vụ án và đưa ra phán quyết được thể hiện bằng bản án hoặc các
quyết định tố tụng khác.
3

Đại học Luật Hà Nội (2008), “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân


11

Ngoài ra, hiện nay còn có một số quan điểm khác nhau về chức năng của Tòa
án, đó là:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: "Chức năng xét xử là hoạt động đặc trưng, là
nhiệm vụ của Tòa án; các Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm
nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên đều phải qua xét xử, không
một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải
được công bố bằng bản án"4. Quan điểm này đã đề cập đến một loại chức năng đặc
trưng trong TTHS đó là chức năng xét xử. Chức năng xét xử là hoạt động, là nhiệm
vụ của Tòa án và là hoạt động đặc trưng riêng của Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng: "Chức năng xét xử là chức năng giải quyết vụ
án, xem xét và xử các vụ án"5. Hay "Chức năng xét xử là hoạt động của Tòa án
nhằm giải quyết vụ án"6. Pháp luật thực định cũng như hoạt động thực tiễn đã khẳng
định việc giải quyết vụ án không chỉ là nhiệm vụ riêng của Tòa án, lại càng không
chỉ do Tòa án thực hiện, mà thông qua hoạt động của mình các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát cũng tiến hành các hoạt động đặc trưng của mình để giải quyết vụ án,
không có sự tham gia giải quyết vụ án của các cơ quan này chắc chắn TTHS không
thể vận hành, vụ án sẽ không thể được giải quyết. Quan điểm trên đây đã khẳng
định chức năng xét xử là hoạt động của Tòa án, chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử
và giải quyết vụ án. Tuy nhiên, chức năng xét xử không phải chỉ là giải quyết vụ án
mà trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, Tòa án phải xem xét đến vấn đề

quan trọng khác như: lỗi của bị cáo, hành vi khách quan, chủ thể, vấn đề trách
nhiệm hình sự cũng như chính sách hình sự được áp dụng đối với bị cáo.
Quan điểm thứ ba cho rằng: "Chức năng xét xử là chức năng của Tòa án"7.
Quan điểm này cho rằng xét xử là chức năng riêng của Tòa án mà không có bất cứ
4

Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, Hà Nội.

5

Từ điển Tiếng Việt (1996), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

6

Hoàng Thị Sơn (1998), “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong TTHS”, Tạp chí Luật học (2)

7

Phan Trung Hoài (1998), “Bàn về mối quan hệ giữa chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong xét xử hình
sự”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nâng cao chất lượng hiệu quả CTKS hình sự trong giai đoạn
GĐT”, TANDTC, Hà Nội.


12

cơ quan hay tổ chức nào có chức năng xét xử, có thể thấy quan điểm như vậy là hợp
lý. Sự khẳng định này xuất phát từ Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 10 BLTTHS
năm 2003. Theo đó, "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương,
các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của
nước CHXHCN Việt Nam...". Điều 10 BLTTHS năm 2003 quy định "Không ai bị

coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật" 8. Chức năng xét xử được thực hiện theo trình tự tố tụng do luật điều
chỉnh nhằm xem xét, làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án để đánh giá hành vi
phạm tội và ra bản án, quyết định đối với người có hành vi phạm tội đó.
Chức năng xét xử có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, Tòa án thực hiện chức năng xét xử tức là giải quyết các vấn đề cụ
thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội. Do vậy cách thức tổ
chức và hoạt động khác hoàn toàn với chức năng lập pháp và hành pháp.
- Chủ thể thực hiện chức năng xét xử phải có trình độ chuyên môn, pháp lý
cao để có thể ra phán quyết về các vấn đề phức tạp liên quan đến tội phạm, quyền
và lợi ích của công dân, tổ chức.
- Tòa án khi thực hiện chức năng xét xử luôn bị giới hạn bởi những quy định
của pháp luật tố tụng về chứng cứ, về thời hạn, về độ chính xác của bản án, quyết
định. Việc xét xử phải tuân theo những nguyên tắc Hiến định cũng như nguyên tắc
tố tụng. Các Tòa án không tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất mà tổ chức
thành từng cấp xét xử độc lập nhau.
- Tòa án thực hiện việc xét xử theo nguyên tắc hai cấp xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, nguyên tắc tranh tụng, đảm
bảo cho mọi công dân, tổ chức bình đẳng trước pháp luật.

8

Lê Tiến Châu (2008), Chức năng xét xử trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.


13

Như vậy, Tòa án là chủ thể thực hiện chức năng xét xử, do đó có thể nói
rằng: "xét xử là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân

danh Nhà nước thực hiện theo trình tự tố tụng do luật điều chỉnh".9
Thứ hai, chức năng xét xử của Tòa án trong TTHS được thực hiện dựa trên
cơ sở phát động quyền buộc tội nhân danh Nhà nước. Thông qua việc xem xét sự
kiện do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra; xem xét, đánh giá pháp lý về sự kiện
đó để ra phán quyết nhân danh quyền lực Nhà nước đối với hành vi phạm tội và
người thực hiện hành vi đó nhằm bảo vệ pháp chế, bảo vệ lợi ích chung của xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Chức năng xét xử của Tòa án trong TTHS
chỉ được thực hiện khi có sự hiện diện của chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa, nếu thiếu sự buộc tội và bào chữa sẽ không xuất hiện chức năng xét xử.
Thứ ba, khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án giải quyết vụ án theo thẩm
quyền để xem xét bị cáo có lỗi hay không có lỗi, xác định bị cáo có phạm tội hay
không để quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Tòa án khi thực hiện
chức năng xét xử có trách nhiệm xem xét toàn diện, đầy đủ các tình tiết của vụ án
do bên buộc tội và bào chữa đưa ra. Trong phạm vi quy định pháp luật, Tòa án làm
rõ sự thật khách quan của vụ án. Tòa án phải đánh giá về mặt pháp lý của hành vi
phạm tội, đánh giá nhân thân người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết của
vụ án. Tòa án khi xét xử phải đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc trình
bày, xem xét đánh giá vụ án cụ thể, hành vi phạm tội và nhân thân của người thực
hiện hành vi phạm tội cụ thể, đảm bảo có sự tham gia bình đẳng của các bên buộc
tội và bên bị buộc tội. Tòa án xác định hình phạt và các hình thức trách nhiệm hình
sự khác phù hợp với chính sách hình sự đối với người bị buộc tội. Như vậy, khi Tòa
án thực hiện chức năng xét xử thì việc người bị buộc tội có tội hay không sẽ được
xem xét, quyết định.10

9

Phạm Hồng Hải (2001), “Vai trò của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp”, Tạp chí Tòa án (1).

10


Lê Tiến Châu, tlđd, tr. 26- 28.


14

Thứ tư, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là tư tưởng xuyên suốt được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng ta nhiều năm
nay. Tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phải nhằm mục đích bảo vệ công lý,
bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật. Hoạt động tư pháp là hoạt
động giải quyết các tranh chấp trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật. Hoạt động
đó liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người, của công dân. Vì vậy,
trong hoạt động Tư pháp, vi phạm quyền con người, quyền công dân và lợi ích
chính đáng có nguy cơ xảy ra rất cao. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp, nhất là
của Tòa án một mặt phải hiệu quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; nhưng trước hết, Tòa án phải là biểu
tượng của Công lý, là nơi công dân gửi gắm niềm tin rằng bất kỳ vi phạm pháp luật
nào cũng bị xử lý nghiêm minh; bất kỳ quyền hoặc lợi ích hợp pháp nào của con
người, của công dân bị xâm phạm đều được bảo vệ theo đúng pháp luật. Mặt khác,
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặt khác,
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nhằm mục đích xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Làm rõ quyền tư pháp và từ đó xác định cơ quan có chức năng
thực hiện quyền tư pháp là rất quan trọng. Quyền tư pháp là quyền xét xử, tức
quyền áp dụng pháp luật để ra phán quyết về các vi phạm pháp luật và các tranh
chấp xảy ra trong xã hội. Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ
quan xét xử duy nhất của Nhà nước. Điều này thể hiện vị trí trung tâm của Tòa án
trong hệ thống tư pháp, khẳng định vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các
hoạt động tư pháp.11
Từ các phân tích trên, theo tác giả: Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình

sự là xét xử (áp dụng pháp luật) để phán quyết vụ án trên cơ sở xem xét đầy đủ,

11

Trần Văn Độ, />ngày truy cập ngày 15/7/2016.


15

khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố
tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có
tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp cũng như các quyết
định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
Việc xác định phạm vi thực hiện chức năng xét xử của Tòa án trong tố tụng
hình sự là xác định thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc chức năng xét xử. Xác
định chính xác phạm vi thực hiện chức năng xét xử là cơ sở để xác định đầy đủ, cụ
thể nội dung của chức năng xét xử, xây dựng các quy định pháp luật về chức năng
xét xử phù hợp12.
Mặc dù BLTTHS Việt Nam chưa có điều luật nào quy định về phạm vi chức
năng xét xử của Tòa án trong tố tụng hình sự, nhưng căn cứ vào quy định của pháp
luật có thể hiểu, nhà làm luật đã xác định quá trình tố tụng hình sự ở nước ta bao
gồm các giai đoạn: tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự. Vì vậy có thể thấy rằng chức
năng xét xử của Tòa án trong tố tụng hình sự sẽ bắt đầu từ khi Tòa án có thẩm
quyền nhận hồ sơ và bản cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang và vào sổ thụ lý
vụ án của Tòa án, không phải bắt đầu từ khi Tòa án mở phiên tòa xét xử.
Về thời điểm kết thúc chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự thì tồn tại
những quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự

kết thúc khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực. Theo quy định của pháp
luật TTHS thì khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì các chủ
thể có liên quan phải chấp hành theo bản án, quyết định đó. Do vậy, khi bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì chức năng xét xử của Tòa án
chấm dứt hoặc chuyển sang giai đoạn thi hành án.

12

Lê Tiến Châu, tlđd, tr. 51.


16

Quan điểm thứ hai cho rằng: Nếu chức năng của Tòa án kết thúc khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì trong trường hợp bản án, quyết định
đó bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì ở giai đoạn giám đốc
thẩm, tái thẩm Tòa án giữ vai trò gì? Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa
án vẫn thực hiện chức năng xét xử. Mặc dù ở giai đoạn này Tòa án không xét xử lại
vụ án nhưng Tòa án vẫn phải xem xét, kiểm tra lại nội dung vụ án, xác định sự thật
của vụ án, xem xét việc đánh giá pháp lý, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với hành
vi phạm tội của bị cáo để ra quyết định về vụ án như: bác kháng nghị, hủy bản án
hoặc quyết định để điều tra, xét xử lại…
Cũng có ý kiến cho rằng, chức năng xét xử bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ
vụ án do VKS chuyển sang và vào sổ thụ lý và chức năng xét xử của Tòa án kết
thúc khi bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành13.
Theo tác giả, chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự chưa thể kết thúc
khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà chức năng Tòa án vẫn
tiếp tục tồn tại ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm...và cần phân biệt chức năng xét
xử với chức năng của tòa án trong tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự, ngoài việc
thực hiện chức năng xét xử, Tòa án còn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác

nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
Về hình thức: phạm vi thực hiện chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự
bắt đầu từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến và vào sổ thụ
lý, kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án đã được thi hành.
Với việc quy định "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp"14, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ ràng, cụ
thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong bộ máy cơ quan nhà nước, Tòa án nhân
13

Lê Tiến Châu, tlđd, tr. 53.

14

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013


17

dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử.
Trong đó nội dung của chức năng xét xử là xem xét, đánh giá tính chính xác đối với
sự kiện phạm tội đã xảy ra, và người bị buộc tội đã thực hiện hành vi phạm tội đó
trên cơ sở đánh giá pháp lý về sự kiện do các bên buộc tội và bào chữa đưa ra và
đưa ra các phán quyết cuối cùng về vụ án được đưa ra xét xử.
Trên cơ sở quy định pháp luật, bên buộc tội phải tiến hành thu thập chứng
cứ, thông tin, tài liệu để khẳng định có hành vi phạm tội xảy ra, thời gian, địa điểm
xảy ra hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội; lỗi của người đó khi
thực hiện hành vi phạm tội; năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện tội phạm,
động cơ, mục đích phạm tội; những chứng cứ chứng minh tính chất, mức độ thiệt

hại do tội phạm gây ra; tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với
người bị nghi là có hành vi phạm tội… Từ những chứng cứ thu thập được, bên buộc
tội sẽ đánh giá pháp lý việc người thực hiện tội phạm đã phạm tội nào của BLHS và
áp dụng pháp luật hình sự về đường lối xử lý đối với người có hành vi phạm tội.
Bên bào chữa trong phạm vi pháp luật quy định sẽ tiến hành thu thập chứng
cứ để bác bỏ những lập luận do bên buộc tội đưa ra về tất cả những vấn đề có liên
quan đến sự việc phạm tội cũng như đánh giá pháp lý của bên buộc tội về sự việc
phạm tội đó. Lập luận của bên bào chữa đưa ra có thể bác bỏ hoàn toàn hoặc bác bỏ
một phần những lập luận của bên buộc tội.
Về nội dung, khi thực hiện chức năng xét xử, hoạt động của Tòa án thể hiện
chủ yếu ở việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét
xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm theo quy định của pháp luật. Đó là:
Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; Xem
xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác cung cấp; Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện
kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc


18

Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự; Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày
về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát
hiện có việc bỏ lọt tội phạm; Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
1.3. Các nguyên tắc bảo đảm thực hiện chức năng của Tòa án trong tố
tụng hình sự

1.3.1. Suy đoán vô tội
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản, được ứng dụng rộng
rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được
nhiều Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ
đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Ở Việt Nam, trong
quá trình cải cách tư pháp, việc ghi nhận và áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ
tạo ra nhiều lợi thế cho một quy trình tố tụng tiến bộ, phù hợp với cải cách tư pháp.
Bởi lẽ nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo và nguyên tắc tranh tụng.
Có thể hiểu nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội là một người sẽ không
bị coi là có tội nếu không bị kết án bởi một Tòa án hợp pháp. Điều 11 Tuyên ngôn
nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều 14 Công ước quốc tế về quyền
dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966 đều có quy định: "Bất kỳ người bị
buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó
được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công
khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó".
Hiến pháp năm 2013 đã công nhận quyền con người là một quyền độc lập
tách khỏi quyền công dân. Những quy định của Chương V Hiến pháp năm 2001 đã
được sửa đổi bổ sung cho phù hợp và được quy định tại Chương II Hiến pháp sửa
đổi bổ sung năm 2013 với tên gọi của chương là: Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội


19

cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật”.
Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, sửa đổi bổ sung BLTTHS năm

2003 là việc làm cần thiết. Việc bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội trong BLTTHS
nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án một cách
khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt động tố tụng hình sự.
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định rõ trong BLTTHS năm 2015 như
sau: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội"15.
Thực chất đây không phải là một nguyên tắc mới của Luật tố tụng hình sự vì
nó đã được thể hiện tại Điều 9 BLTTHS năm 2003 "Không ai bị coi là có tội khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Như vậy, trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. Điều đó quy định các trách nhiệm cho cơ
quan tố tụng:
Cơ quan công tố khi đưa ra lời cáo buộc phải có trách nhiệm chứng minh cho
sự cáo buộc đó. Họ đóng vai trò tích cực trong việc làm rõ các chứng cứ, đáp lại
luận điểm bào chữa của bị cáo, người bào chữa mà không được giữ im lặng. Tòa án
không có quyền chứng minh tội phạm mà phải xem xét công tâm các chứng cứ,
luận điểm bên buộc tội và gỡ tội được đưa ra để phán quyết. Việc chứng minh tội
phạm không đơn thuần là sự lấn sân sang cơ quan công tố mà còn thể hiện sự vi
phạm nguyên tắc suy đoán vô tội của Tòa án.

15

Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015


20


Do được suy đoán vô tội nên các cơ quan tố tụng phải đảm bảo đúng các thời
hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo. Họ có quyền không bị chậm trễ
đưa ra xét xử để có thể nhanh chóng được đưa ra khỏi vòng quay tố tụng, chấm dứt
các biện pháp ngăn chặn, khôi phục các quyền cơ bản của công dân khi được tuyên
vô tội. HĐXX là chủ thể đưa ra phán quyết về việc bị cáo có hay không có tội, xác
định TNHS và quyết định hình phạt. Vì vậy, bị cáo có quyền được sớm nhất chứng
minh sự vô tội hoặc chứng minh tính nguy hiểm giảm nhẹ của hành vi đã thực hiện
tại phiên tòa. Các biện pháp ngăn chặn về bản chất là sự hạn chế các điều kiện của
người bị tình nghi nhằm ngăn ngừa tội phạm, là sự đảm bảo cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử trong các trường hợp cần thiết. Vì vậy việc nhanh chóng được đưa ra
xét xử cũng là quyền của bị can, bị cáo để họ có thể sớm gỡ bỏ các hạn chế quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.16
Mặt khác, nguyên tắc suy đoán vô tội có mối liên quan với nguyên tắc tranh
tụng và đặc biệt là với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội.
BLTTHS quy định nguyên tắc này nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử được
khách quan, thận trọng, tránh trừng trị về hình sự đối với người dân vô tội và như
vậy cũng có nghĩa là nhằm bảo vệ các quyền tự do cơ bản cũng như phẩm giá của
con người, phù hợp với một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
“Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ phải được HĐXX giải thích theo
hướng có lợi cho bị cáo. Và vì vậy bản án hình sự có hai loại: tuyên vô tội hoặc có
tội. Đồng thời nguyên tắc này cũng xác định: bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh
và hoàn toàn có quyền giữ im lặng. Hành vi khai gian dối của bị cáo nhằm chối tội
chỉ có thể là cơ sở để không áp dụng tình tiết giảm nhẹ "thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải" mà không thể là một căn cứ xem xét tăng nặng TNHS”17.

16

Trần Hoàng Giang (2012), Chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 17- 18.
17


Trần Hoàng Giang (2012), Chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 18.


21

Trong hoạt động thực tiễn, nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn, bởi khi các tình
tiết, sự kiện liên quan đến lỗi của bị cáo còn chưa được chứng minh rõ ràng, còn có
mâu thuẫn sẽ không được Tòa án chấp nhận. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền
trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của mình phải cố gắng tận dụng những khả
năng do luật quy định để làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án18. Đây là nội dung quan
trọng và là trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất nhân đạo,
dân chủ, pháp quyền của tố tụng hình sự Việt Nam19. Và như vậy nguyên tắc suy
đoán vô tội chính là định hướng quan trọng nhất để Tòa án thực hiện chức năng xét
xử.
1.3.2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi thực
hiện chức năng xét xử là nguyên tắc Hiến định, từ Hiến pháp năm 1946, các Luật tổ
chức TAND 1960 đến nay. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi thực hiện chức
năng xét xử là một trong những nguyên tắc quan trọng và là nền tảng chi phối toàn
bộ hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên sự độc lập ở đây phải được hiểu đó là sự độc
lập của cá nhân các Thẩm phán và Hội thẩm, các Thẩm phán và Hội thẩm phải độc
lập với nhau và độc lập với yếu tố tác động bên ngoài. Chỉ khi các chủ thể này thực
hiện chức năng xét xử độc lập, không bị phụ thuộc và bị tác động thì họ mới có điều
kiện để tuân theo pháp luật và ngược lại, chỉ khi các chủ thể này tuân theo pháp
luật, lấy pháp luật làm căn cứ duy nhất để xét xử thì họ mới được độc lập, không
phụ thuộc vào cá nhân hay tổ chức nào.
Tòa án là chủ thể thực hiện chức năng xét xử, có quyền nhân danh công lý và
sự công bằng nên phải xét xử độc lập. Do đó, trong những phán quyết cụ thể thì

Thẩm phán, Hội thẩm không phải chịu sự can thiệp trực tiếp từ hệ thống Tòa án.
Quan hệ giữa các cấp Tòa án không phải là quan hệ hành chính nên Tòa án cấp trên
không thể ra lệnh cho Tòa án cấp dưới xét xử theo ý của mình. Sự tổng kết kinh
18

19

Lê Tiến Châu, tlđd, tr.78.

Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội - 2016.


×