BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THU HUYỀN
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Cao Thị Oanh
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các trích dẫn và số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự
tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan nhất.
Xác nhận của GV hướng dẫn
Tác giả luận văn
PGS. TS Cao Thị Oanh
Nguyễn Thu Huyền
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Bảng phân tích các loại hình phạt áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội các năm từ năm 2011 đến năm 2015............................................. 58
Biểu đồ 3.1: Số bị cáo chưa thành niên bị xử phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ qua từng năm ............................................................................. 59
Biểu đồ 3.2: Số bị cáo chưa thành niên bị xử phạt tù có thời hạn qua từng năm 60
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ...................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề chung về người chưa thành niên phạm tội .......................... 7
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội ......................................... 7
1.1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên phạm tội.............. 10
1.2. Khái niệm và mục đích của hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội ...................................................................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 12
1.2.2. Mục đích............................................................................................. 15
1.3. Pháp luật hình sự một số nước về hình phạt áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội .......................................................................................... 18
CHƯƠNG 2: HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................ 23
2.1. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự
năm 1985 .......................................................................................................... 23
2.2. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Bộ
luật Hình sự năm 1985 ..................................................................................... 28
2.3. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Bộ
luật Hình sự năm 1999 ..................................................................................... 38
2.4. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 ..................................................................................... 51
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ................................................................................. 57
3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội ........... 57
3.1.1. Thực tiễn xét xử và áp dụng hình phạt của Tòa án đối với người chưa
thành niên phạm tội ...................................................................................... 57
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ....................................................................... 62
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội ....................................................................... 73
3.2.1.
Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam ...................... 73
3.2.2.
Một số kiến nghị đối với hoạt động của các cơ quan pháp luật..... 76
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 82
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, lời dạy
của Bác Hồ về giáo dục thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước đến
nay vẫn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Thấm nhuần lời dạy của Bác, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi việc giáo dục thế hệ trẻ nói chung, giáo dục thanh thiếu niên nói
riêng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được trong việc giáo dục, phát triển thế hệ trẻ, những năm gần đây tình hình
thanh thiếu niên suy đồi về đạo đức lối sống, bị cám dỗ, sa đà vào các tệ nạn xã
hội hoặc thực hiện những hành vi phạm tội gây mất trật tự, an toàn công cộng,
ảnh hưởng xấu đến cộng đồng ngày một gia tăng.
Đứng trước thực trạng đó, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật, xây dựng hệ thống các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm
tội. Một trong những công cụ quan trọng và hữu hiệu trong việc phòng ngừa và
chống tội phạm cũng như giáo dục, cải tạo người chưa thành niên phạm tội chính
là những quy định của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào đặc điểm của người chưa
thành niên, yêu cầu của việc phòng chống tội phạm và xuất phát từ nguyên tắc
nhân đạo xã hội chủ nghĩa, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ nét nguyên
tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là nhằm giáo dục, cải tạo họ trở
thành công dân có ích cho xã hội đồng thời xây dựng một hệ thống chế tài hình
sự thể hiện tính công bằng, nghiêm minh, đạt hiệu quả. Tuy nhiên, xét trên góc
độ xây dựng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, các hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự hiện nay vẫn còn một số hạn chế,
chưa thật sự phù hợp với yêu cầu của xu thế hội nhập cũng như yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm chưa thành niên.
2
Nghiên cứu một cách có hệ thống các hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ là vấn đề
có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc nhằm từng bước hoàn
thiện các quy định về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội,
góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa họ phạm tội
mới đồng thời đảm bảo hiệu quả của việc phòng ngừa chung đối với cộng đồng.
Với nhận thức trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là một vấn đề phức tạp.
Trong khoa học pháp lý hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu về hình phạt
nói chung và hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng như: 1)
Nguyễn Ngọc Hòa (2001), Trách nhiệm hình sự và Hình phạt, NXB Công an
Nhân dân; 2) Nguyễn Thị Tiệp (2010), Hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự Việt
Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội; 3) Đỗ Ngọc Thùy (2011), Hình phạt tù đối với người chưa thành
niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa
luật Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) Nguyễn Thị Thu Huyền (2012), Hình phạt tù
có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội;… và
một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí khoa học pháp lý về lĩnh vực này có
thể kể đến: 1) Nguyễn Ngọc Hòa (1999), “Mục đích của hình phạt”, Luật học
(1); 2) Hoàng Quảng Lực (2000), “Về hình phạt cải tạo không giam giữ qua một
vụ án”, Nhà nước và Pháp luật, (6); 3) Nguyễn Văn Trượng (2009), “Một số vấn
đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ”, Toà án nhân
3
dân, (4); 4) Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự
về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án
nhân dân (19).
Các công trình khoa học nêu trên hầu hết nghiên cứu về hệ thống hình
phạt nói chung và các hình phạt cụ thể nói riêng. Một số công trình nghiên cứu
về các hình phạt riêng lẻ đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên,
mặc dù diễn ra ở nhiều cấp độ và phương diện khác nhau nhưng đến nay chưa có
công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, đặc biệt là ở cấp độ một luận văn thạc sĩ. Do vậy, trong
phạm vi luận văn này, tác giả nghiên cứu về hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam để góp phần làm sáng tỏ những
quy định của luật hình sự Việt Nam, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, mục đích của các hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội; những quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội đồng thời nghiên cứu
thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong công
tác xét xử.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận về hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn xét xử người chưa thành niên phạm
tội thông qua việc nghiên cứu đánh giá số liệu của các Tòa án và các bản án
trong những năm gần đây.
4
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là tìm hiểu về các loại hình phạt được áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội; căn cứ áp dụng từng loại hình phạt theo
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện nay,
trên cơ sở đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong xử lý người
chưa thành niên phạm tội, góp phần cải tạo, giáo dục người chưa thành niên
phạm tội có nhận thức đúng đắn, hạn chế tình trạng người chưa thành niên phạm
tội đang ngày một gia tăng ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở phân tích các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và nghiên cứu tình
hình phạm tội thực tế hiện nay, làm rõ những vấn đề tồn tại trong lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết, xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội, từng bước hoàn thiện các quy định về
hình phạt áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trên thực tế.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn phải trả lời cho các câu hỏi sau
đây:
- Khái niệm người chưa thành niên phạm tội, các đặc điểm tâm, sinh lý
của người chưa thành niên phạm tội?
- Khái niệm, mục đích của hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội là gì?
- Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong
từng giai đoạn của luật hình sự Việt Nam thế nào?
- Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được áp dụng trên
thực tiễn thế nào? Những tồn tại, hạn chế là gì? Cần hoàn thiện, kiến nghị những
nội dung gì?
5
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Quá trình nghiên cứu sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể
là: phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch; phương pháp phân tích đối
chiếu; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp; phương pháp mô tả, giải
thích; phương pháp thống kê…
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính hệ thống và tương
đối toàn diện về các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống về lý luận và thực tiễn
các vấn đề có liên quan đến hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội, luận văn đã đảm bảo sự nhận thức thống nhất các quy định của Bộ luật
Hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nêu ra các
hạn chế, tồn tại trong các quy định hiện hành của pháp luật đồng thời chỉ ra các
sai sót trong quá trình áp dụng các quy định của luật hình sự, tìm ra các nguyên
nhân khắc phục. Từ đó hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự, kiến nghị
đối với hoạt động áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội của
các cơ quan có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt trên thực
tế.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy và nghiên cứu môn luật hình sự. Những kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể được vận dụng trong công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật ở nước ta hiện nay.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội
6
Chương 2. Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
7
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Một số vấn đề chung về người chưa thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên là một vấn đề phổ biến ở tất cả các quốc gia trên
thế giới. Tuy nhiên, tùy thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội, văn hóa, nhận thức,
phong tục, tập quán, mỗi quốc gia lại có một cách hiểu khác nhau về vấn đề thế
nào là người chưa thành niên.
Trước hết, khái niệm người chưa thành niên được đề cập trong nhiều văn
bản pháp luật quốc tế dưới nhiều tên gọi khác nhau: người chưa thành niên, trẻ vị
thành niên, trẻ em. Tuy xem xét vấn đề người chưa thành niên dưới những góc
độ và tên gọi khác nhau nhưng các văn bản pháp luật quốc tế này đều ghi nhận
độ tuổi cụ thể để được coi là người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1990 đã quy định như sau: “Trẻ em được xác định là
người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm
hơn”.
Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước quyền tự do (Quy tắc Havana) được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 14/12/1990 ghi nhận cụ thể: “Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và
không được tước quyền tự do của người chưa thành niên”1.
1
Đại hội đồng Liên hợp quốc (1990), “Quy tắc tối thiểu phổ biến về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền
tự do”, Havana, quy tắc 2.1 mục a
8
Như vậy, có thể khẳng định khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người
chưa thành niên, pháp luật quốc tế dựa vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát
triển về thể chất, tinh thần thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm “trẻ
em” và “người chưa thành niên” đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra
khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa truyền
thống của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên
có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích
và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong
muốn và thông lệ đối với việc quản lý người chưa thành niên phạm tội.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế, cùng với kinh nghiệm lập
pháp cũng như thực tiễn của Việt Nam nhiều năm, pháp luật Việt Nam đã đề cập
một cách cơ bản đến vấn đề người chưa thành niên. Cụ thể: Bộ luật Dân sự Việt
Nam 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên.”2
Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động Việt Nam cũng có quy định: “Người lao động
chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi”3.
Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên trong
pháp luật Việt Nam là người dưới 18 tuổi. Quan điểm này là hoàn toàn phù hợp
với Công ước quốc tế về quyền trẻ em ngày 20/2/1990 mà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Việc quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi cũng được ghi
nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam. Theo đó, người chưa thành niên phạm
tội chỉ bao gồm những người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm. Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999 cũng đã dành một chương riêng để đề cập đến
những quy định đối với người dưới chưa thành niên phạm tội. Điều 68 Bộ luật
này quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội
2
3
Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội, Điều 18
Quốc hội (2002), Bộ luật Lao động, Hà Nội, Điều 161
9
phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời
theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy
định của Chương này.”
Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và trên cơ sở tham
khảo kinh nghiệm của một số nước khác, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã quy định
người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 1999 còn
quy định rõ người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng; người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều
12).
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự, một số tác giả đã đưa ra khái
niệm người chưa thành niên phạm tội tương đối đầy đủ trong khoa học pháp lý
hình sự nhằm xác định tính chất phạm tội của hành vi cũng như tạo điều kiện cho
việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên sao cho phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện trên cơ sở
những đặc điểm về tâm, sinh lý của họ vào thời điểm họ phạm tội.
Theo TSKH. GS Lê Cảm và PGS. TS Đỗ Thị Phượng thì “Người chưa
thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách
nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và có lỗi
(cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm”4.
4
Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên – Những khía cạnh pháp lý
hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học (Phần I – Khía cạnh pháp lý hình sự)”, Tòa án nhân
dân, (20), tr. 9
10
Theo đó, năm dấu hiệu cơ bản về người chưa thành niên phạm tội dưới
khía cạnh pháp lý hình sự là: 1) Từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2) Có năng lực
trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý; 3)
đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; 4) hành vi mà người chưa thành niên
thực hiện là hành vi bị pháp luật hình sự cấm; 5) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) khi thực
hiện hành vi đó5.
1.1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên phạm tội
Sở dĩ Nhà nước ta có những chính sách riêng cho đối tượng phạm tội là
người chưa thành niên vì xuất phát từ tính đặc thù của đối tượng này.
Chủ thể của tội phạm là những người tuổi đời còn ít, kinh nghiệm sống
chưa nhiều, hiểu biết pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế. Đặc biệt,
đây là lứa tuổi đang có sự biến đổi mạnh mẽ về tâm, sinh lý và là giai đoạn quan
trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trước hết, ở người chưa thành niên có sự phát triển cơ thể mất cân bằng
nên đã dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc. Tim phát triển
nhanh hơn các mạch máu đã gây ra sự thiếu máu trong từng bộ phận trên vỏ não,
và đôi khi còn làm rối loạn chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch. Đồng
thời, tuyến nội tiết ở người chưa thành niên hoạt động mạnh, gây ra sự mất cân
bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, do đó dễ đưa đến cho người
chưa thành niên những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vô cớ và
những hành vi bất thường. Trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân
bằng ở người chưa thành niên có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn
của họ.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật, đặc trưng nữa mà ta thường thấy ở lứa tuổi
này là sự biểu hiện nhu cầu độc lập. Sự hình thành và phát triển nhu cầu độc lập
ở lứa tuổi chưa thành niên là sự phát triển tâm lý có tính chất tất yếu của trẻ.
5
Đỗ Ngọc Thùy (2011), Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng,
Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội , tr. 13
11
Người chưa thành niên muốn tự khẳng định những phát triển của mình về nhân
cách trên con đường trở thành người lớn. Trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, họ
không muốn phụ thuộc vào người lớn, trước hết là cha mẹ, ông bà và những
người khác. Họ muốn suy nghĩ và hành động theo cách thức riêng của mình và
thường có xu hướng “phóng đại” các khả năng của mình, đánh giá chúng cao
hơn hiện thực. Tuy nhiên, khi nhu cầu độc lập được biểu hiện một cách thái quá
ra bên ngoài dưới dạng các hành vi ngang bướng, cố chấp, bảo thủ, tự ái, phô
trương, mạo hiểm, côn đồ thì người chưa thành niên dễ thực hiện các hành vi
lệch chuẩn, thậm chí là hành vi phạm tội.
Bên cạnh đó, lứa tuổi chưa thành niên là giai đoạn phát triển rất nhanh về
mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt nhận thức. Đó là lứa tuổi mà kinh
nghiệm sống còn ít, đặc biệt là khả năng nhận thức về phát luật còn nhiều hạn
chế. Vì thế, phần lớn người chưa thành niên thường thờ ơ, lãnh đạm đối với các
quy định của pháp luật. Cũng có không ít người chưa thành niên cho rằng,
“những yêu cầu và đòi hỏi của các chuẩn mực pháp luật chỉ được quy định trong
các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang tính hình thức, còn hành động thì phải
căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân mới thể hiện được cuộc sống tự do”6. Khi
không có ý thức pháp luật đúng đắn thì khả năng thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật của người chưa thành niên là rất lớn. Thực tế cho thấy, nhiều người chưa
thành niên thực hiện hành vi phạm tội nhưng không nhận thức được tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó, hoặc thực hiện hành vi phạm tội chỉ để thỏa mãn
nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân. Một số khác lại cho rằng hành vi
của mình là đúng đắn và cần thiết để góp phần tạo ra sự công bằng cho xã hội.
Ở người chưa thành niên, nhu cầu khám phá cái mới cũng là một đặc điểm
tâm lý hết sức nổi bật. Đây là một trong những nhu cầu quan trọng ở lứa tuổi
chưa thành niên. Họ muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá cuộc sống xã
6
Đặng Thanh Nga (2008), “Đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên phạm tội”, Luật học, (1), tr. 42.
12
hội xung quanh mình. Ở lứa tuổi này, người chưa thành niên có nhu cầu rất cao
đối với việc học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm sống, các kiến thức của những người
lớn tuổi và cả bạn bè cùng lứa tuổi. Điều này rất quan trọng đối với việc phát
triển nhân cách của người chưa thành niên. Tuy nhiên, cùng với việc khám phá
cái mới, người chưa thành niên còn có nhu cầu tìm tòi, thử nghiệm cái mới, trong
đó có cả những cái thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội. Do thiếu
kinh nghiệm sống, người chưa thành niên khó phân biệt được cái tốt với cái xấu,
nên dễ bị bắt chước, làm theo. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới
hành vi phạm tội của người chưa thành niên, nếu họ thiếu sự hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát của gia đình và xã hội; nếu họ không làm chủ được bản thân và
không phân biệt được phải trái, đúng sai.
1.2. Khái niệm và mục đích của hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.2.1. Khái niệm
Trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, hình phạt là một trong những đối
tượng nghiên cứu chủ yếu. Việc làm sáng tỏ và nắm bắt một cách sâu sắc, cũng
như lập luận mang tính khoa học khái niệm hình phạt nói chung và khái niệm
hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng là một vấn đề hết sức
quan trọng.
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo về hình phạt của các nhà khoa
học pháp lý trên thế giới, các học giả ở Việt Nam đã đưa ra những quan niệm về
hình phạt mà về cơ bản là thống nhất, mặc dù trong mỗi quan niệm đó có những
sự khác nhau nhất định, chẳng hạn như:
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong LHS, do Tòa án áp dụng cho
chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào
13
việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng
như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân"7.
Theo TS. Uông Chu Lưu và TS. Nguyễn Đức Tuấn thì hình phạt được
hiểu là "biện pháp cưỡng chế của nhà nước do Toà án áp dụng đối với người
thực hiện tội phạm theo quy định của luật hình sự, tước bỏ hoặc hạn chế những
quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm mục đích cải tạo, giáo dục
người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm"8.
Còn PGS.TSKH. Lê Cảm thì coi: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật của Toà án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án
theo các quy định của pháp luật hình sự"9.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 1999, nhà làm luật đã
ghi nhận định nghĩa pháp lý về khái niệm hình phạt tại Điều 26 như sau: “Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong
Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định”. Như vậy, trong khoa học luật hình sự
Việt Nam cũng như trong luật thực định, đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về
khái niệm hình phạt và mỗi định nghĩa đã chỉ ra một cách tương đối rõ ràng về
một hoặc nhiều khía cạnh cơ bản của hình phạt như: vai trò, bản chất, nội dung,
đặc điểm và mục đích của hình phạt.
Theo đó, hình phạt có những đặc điểm như sau: 1) là biện pháp cưỡng chế
Nhà nước nghiêm khắc nhất; 2) được quy định trong luật hình sự và do Tòa án
áp dụng; 3) chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội; 4) là công cụ
đảm bảo cho luật hình sự có thể thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ chế độ, trật tự
7
Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên, 2001), Trách nhiệm hình sự và Hình phạt, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội, tr.
29
8
Viện Khoa học pháp lý -Bộ Tư pháp (1995), Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr. 23
9
Lê Cảm (2000), “Hình phạt và biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam”, Dân chủ và Pháp luật, (8), tr.
10
14
xã hội và các quyền, lợi ích cơ hợp pháp của công dân cũng như nhiệm vụ đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
Hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội cũng
mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Tuy nhiên, với đặc điểm là người chưa
phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, người chưa thành niên dễ có
nguy cơ thực hiện tội phạm nếu họ sống trong một môi trường xã hội không lành
mạnh, tỷ lệ tội phạm cao. Bên cạnh đó, người chưa thành niên cũng là người dễ
uốn nắn, cải tạo, việc giáo dục, cải tạo người chưa thành niên thường dễ dàng
hơn so với người đã thành niên, đạt hiệu quả của hình phạt cao hơn. Do vậy
người chưa thành niên được áp dụng các hình phạt chủ yếu mang tính chất giáo
dục, cải tạo, ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đối với người đã thành niên
phạm tội tương ứng. Điều này thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo trong pháp
luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.
Theo quy định của Bộ luật hình sự thì hệ thống hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội như sau:
“Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt
sau đây đối với mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo;
2. Phạt tiền;
3. Cải tạo không giam giữ;
4. Tù có thời hạn.”10
Trên cơ sở nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của hình phạt nói chung, có
thể nêu khái quát khái niệm hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
như sau: “Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, do Tòa án quyết định áp dụng đối với
10
Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội, Điều 71
15
người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người đó
nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.”
1.2.2. Mục đích
Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội là vấn đề quan trọng trong luật hình sự. Đây là cơ sở để nhà làm
luật quy định về từng loại hình phạt, hệ thống hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội cũng như quyết định hình phạt trong luật. Mặt khác, nó
cũng là cơ sở để nhà làm luật áp dụng trên thực tế.
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội mang đầy đủ các mục
đích của hình phạt nói chung. Trong khoa học pháp lý, phần lớn các nhà luật học
cho rằng mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội nói riêng là giáo dục cải tạo người phạm tội để họ trở thành
người lương thiện, có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật. Còn trừng trị
chỉ là biện pháp để đạt được mục đích giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm.
Một số tác giả với quan điểm nghiêng về trấn áp hình sự lại coi mục đích của
hình phạt chỉ là trừng trị.
Để thống nhất trong các hiểu giữa các nhà làm luật, Bộ luật hình sự đã quy
định một cách cụ thể như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm
tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội
mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.”11.
11
Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội, Điều 27
16
Từ quy định này, có thể nhận thấy hình phạt nói chung và hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội nói riêng bao gồm hai loại mục đích, đó là
mục đích phòng ngừa riêng và mục đích phòng ngừa chung.
Mục đích phòng ngừa riêng trước hết được thể hiện ở chỗ hình phạt được
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội không chỉ nhằm trừng trị mà
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Nội dung cơ bản của mục đích này là sự tước bỏ, hạn chế những quyền và
lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hình sự đối với người bị áp dụng
hình phạt. Mức độ của việc tước bỏ và hạn chế những quyền và lợi ích này phụ
thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào nhân thân
người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Do đó, tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người phạm tội càng
nghiêm khắc. Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục
người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ
yếu là cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu hình phạt áp dụng đối với họ tương
xứng với hành vi phạm tội mà họ gây ra. Việc Nhà nước trừng trị người phạm tội
một cách công minh chính là nội dung chủ yếu và quan trọng tạo cơ sở cho cải
tạo, giáo dục người phạm tội; người lại, cải tạo, giáo dục người phạm tội chính là
phát huy tính tích cực của nội dung trừng trị. Như vậy, có thể nhận xét rằng
“trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt mục đích cuối
cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ”12.
Bên cạnh mục đích phòng ngừa riêng, hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội còn có mục đích phòng ngừa chung là “giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm”. Việc quy định hình phạt
không chỉ tác động trực tiếp đến bản thân người phạm tội mà còn tác động đến
12
Nguyễn Ngọc Hòa (1999), “Mục đích của hình phạt”, Luật học , (1), tr. 10
17
tâm lí của các thành viên khác trong xã hội, làm cho các thành viên “không vững
vàng” thấy trước hậu quả pháp lý mà họ phải chịu nếu thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, qua đó răn đe, ngăn ngừa họ phạm tội. Đối
với các thành viên khác trong xã hội, hình phạt có mục đích giáo dục và nâng
cao ý thức pháp luật cho họ, động viên toàn xã hội tích cực tham gia vào công
cuộc ngăn ngừa và chống tội phạm.13
Có thể thấy rằng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cũng
mang đầy đủ các mục đích của hình phạt nói chung. Tuy nhiên, với đối tượng
phải chịu hình phạt là người chưa thành niên có nhiều đặc điểm về tâm sinh lý
khác so với đối tượng là người đã thành niên, vì vậy mục đích của hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội cũng mang những đặc điểm đặc trưng riêng.
Trước hết, người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi phát triển về
mọi mặt, khả năng nhận thức và kinh nghiệm sống còn hạn chế, dễ bị tác động
bởi các yếu tố môi trường. Bởi vậy, tuy các hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội vẫn mang mục đích trừng trị, nhưng tính chất trừng trị của những
hình phạt đối với họ nhẹ hơn nhiều so với những hình phạt được áp dụng với
người đã thành niên phạm tội tương ứng. Mục đích trừng trị thể hiện sự lên án,
thái độ nghiêm khắc của Nhà nước, xã hội đối với người phạm tội khi họ thực
hiện tội phạm. Thái độ này được biểu hiện cụ thể bằng sự khiển trách công khai
của Nhà nước; tước bỏ một số quyền, lợi ích hợp pháp hoặc tước tự do của người
bị kết án. Tuy nhiên, với đặc điểm chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, hiểu biết
cũng kinh nghiệm sống, hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội chủ yếu nhằm đề cao vấn đề giáo dục, giúp người chưa thành niên nhận thức
rõ được sai lầm của mình, từ đó cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội,
ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục người chưa thành niên khác
trong xã hội có ý thức tuân thủ pháp luật, góp phần vào công cuộc đấu tranh
13
Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, NXB. Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 231 - 234
18
phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Đây là mục đích cao
cả nhất của hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thể hiện rõ nét
chính sách nhân đạo của Nhà nước ta.
1.3. Pháp luật hình sự một số nước về hình phạt áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội
Tình trạng người chưa thành niên phạm tội đã và đang là vấn đề mà tất cả
các nước trên thế giới quan tâm. Xuất phát từ nguyên tắc trẻ em phải là mối quan
tâm hàng đầu, trong pháp luật của hầu hết các quốc gia đều đưa ra những khuyến
nghị, những biện pháp hữu hiệu để xử lý nhằm giảm thiểu tình trạng người chưa
thành niên phạm tội. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia lại có thái độ và cách xử lý vấn
đề này một cách khác nhau phụ thuộc vào lịch sử, văn hóa và đặc điểm của mỗi
quốc gia.
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga đã dành hẳn một chương để quy định về
trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo
đó, khoản 1 Điều 87 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định: “Người chưa
thành niên phạm tội là người tới thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vừa đủ
mười bốn tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi”14. Như vậy, tương tự với quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật hình sự Nga cũng quy định độ tuổi bắt
đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi đối với một số tội phạm nhất định,
người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tất cả các tội phạm (khoản 1, 2
Điều 20 Bộ luật hình sự Liên bang Nga). Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự Nga quy
định một loạt các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội bao gồm: phạt tiền; tước quyền làm công việc nhất định; lao động bắt buộc;
lao động cải tạo; hạn chế tự do và tù có thời hạn, đồng thời quy định rõ điều kiện
và thời hạn áp dụng đối với mỗi loại hình phạt nêu trên.
14
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (2011), NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 126
19
Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định
và ngay cả đối với những tội này thì khi quyết định hình phạt Tòa án cũng giảm
nhẹ hình phạt cho họ. Điều 17 Bộ luật Hình sự Trung Hoa quy định:“Người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người, cố ý gây thương tích nặng, vô ý gây thương tích nặng hoặc gây chết
người, hiếp dâm, cướp, buôn bán ma túy, đốt nhà, phá hoại, đầu độc. Người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ bị xử theo khung hình phạt nhẹ hơn hoặc được
giảm nhẹ hình phạt”15. Với quy định như trên, Bộ luật này không chỉ rõ giới hạn
giảm nhẹ hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, điều này dẫn
đến tình trạng tùy tiện trong áp dụng. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự Trung Hoa đã
thể hiện đúng nguyên tắc nhân đạo trong đường lối xử lý khi quyết định hình
phạt cho người chưa thành niên với mức nhẹ hơn so với khung bình thường.
Độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình sự ở Nhật Bản tương đồng với
Việt Nam khi đều quy định: “Hành vi của người dưới 14 tuổi không bị xử
phạt”16 (Điều 41 Bộ luật Hình sự Nhật Bản). Tuy nhiên, hệ thống hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội ở Nhật Bản lại có một số điểm khác biệt.
Điều 9 Chương II Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định, hình phạt áp dụng đối với
người chưa thành niên bao gồm: Tử hình; Tù có lao động bắt buộc; Tù không có
lao động bắt buộc; Phạt tiền; Phạt giam hình sự; Phạt tiền về tội hình sự nhỏ;
Phạt giam vì không nộp đủ tiền phạt. Theo quy định trên thì hình phạt tử hình
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là điểm khác biệt
giữa Bộ luật hình sự Nhật Bản với Bộ luật hình sự các nước, trong đó có Việt
Nam.
Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định độ tuổi của người chưa thành niên
phạm tội là từ đủ 15 tuổi đến dưới 21 tuổi. Các hình phạt đối với người chưa
15
16
Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (2007), NXB. Tư pháp, Hà Nội, tr. 43
Bộ luật Hình sự Nhật Bản (2011), NXB. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 36
20
thành niên phạm tội quy định trong Bộ luật này gồm: phạt tiền, phạt tù có thời
hạn, hình phạt có điều kiện, buộc phải chịu thử thách và đưa vào cơ sở chăm sóc
đặc biệt. Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, luật
hình sự Thụy Điển quy định Tòa án phải đặc biệt cân nhắc đến độ tuổi của người
đó, hình phạt áp dụng phải nhẹ hơn hình phạt quy định đối với tội phạm tương
ứng do người đã thành niên thực hiện17. Riêng đối với người từ đủ 15 tuổi đến
dưới 18 tuổi, Tòa án chỉ có thể áp dụng hình phạt tù trong trường hợp có những
lý do đặc biệt, nhưng trước hết phải áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chăm sóc
người chưa thành niên phạm tội trong thời gian tối thiểu là 14 ngày, tối đa là 4
năm.
Ở Anh, trách nhiệm hình sự đối với trẻ em được chia làm 3 loại: 1) trẻ em
dưới 10 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về bất cứ tội phạm nào; 2) trẻ
em từ 10 đến 14 tuổi được coi là chưa có khả năng thực hiện một tội phạm cố ý
nhưng điều này có thể bị bác bỏ nếu chứng minh được có “xu hướng độc ác từ
phía đứa trẻ; 3) trẻ em từ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm đầy đủ về mọi tội
phạm nhưng cho đến 21 tuổi vẫn có thể được xét xử theo thủ tục riêng và được
áp dụng hình phạt riêng18. Theo đó, hệ thống hình phạt được áp dụng với người
chưa thành niên phạm tội từ 14 tuổi đến dưới 21 tuổi bao gồm: phạt tiền, các chế
tài liên quan đến cộng đồng (gồm tha có thử thách, buộc làm một số dịch vụ
công cộng, giám sát, quản chế, tham dự các trung tâm nhất định), các chế tài
giam giữ. Tuy nhiên, theo pháp luật hình sự Anh, người chưa thành niên phạm
tội không bị giam giữ tại nhà tù mà hình phạt này được thực hiện ở các Trại dành
cho người chưa thành niên phạm tội hoặc ở những nơi đảm bảo an ninh (một
dạng như trẻ ở nhà có khóa ngoài). Thời hạn giam giữ tùy thuộc vào tội phạm:
đối với tội giết người và ngộ sát thì trẻ em từ 10 đến dưới 18 tuổi có thể bị giam
17
Xem: Điều 3 Chương 1, Điều 7 Chương 29, Bộ luật Hình sự Thụy Điển (2010), NXB. Công an nhân dân, Hà
Nội, tr. 10, 282
18
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1999), Chuyên đề về Tư pháp hình sự so sánh, Hà Nội, tr.
294