Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Các tội phạm tình dục theo quy định của luật hình sự việt nam và một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.44 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ NGỌC BÍCH

CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Dương Tuyết Miên

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực tiễn
được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của
cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các Giáo sư,
Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa sau Đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện quản lý


đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trình đạo
tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này đúng tiến độ.
Cảm ơn Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa phương đã giúp
đỡ rất nhiều để tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS Dương Tuyết
Miên đã hướng dẫn cho tôi đầy nhiệt tình, tận tâm và khoa học.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2016
Người viết

Hoàng Thị Ngọc Bích


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp với đề tài: “Các tội phạm tình dục
theo quy định của luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện trên cơ sở các kiến thức lý luận, thực tiễn
và tham khảo các tài liệu liên quan. Các số liệu có nguồn trích dẫn đảm bảo tính
trung thực, chính xác; luận văn chưa từng được công bố trong công trình nghiên
cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 04 tháng 08 năm 2016
Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

PGS.TS Dương Tuyết Miên

Người viết luận văn

CN. Hoàng Thị Ngọc Bích



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
Nxb

: Nhà xuất bản

CHND

: Cộng hòa nhân dân



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ
CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC .......................................................................................... 8
1.1. Tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em (Điều 111, Điều 112 BLHS) ................................. 8
1.1.1. Dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em .......................................... 8
1.1.2. Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em ..................................... 17
1.2. Tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 113, Điều 114 BLHS) ......................... 23
1.2.1. Dấu hiệu định tội của tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm trẻ em .................................. 23
1.2.2. Đường lối xử lý đối với tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm trẻ em............................... 27
1.3. Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS) ................................................................. 30
1.3.1. Dấu hiệu định tội của tội giao cấu với trẻ em.......................................................... 30
1.3.2. Đường lối xử lý đối với tội giao cấu với trẻ em ...................................................... 34
1.4. Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS)............................................................... 36
1.4.1. Dấu hiệu định tội của tội dâm ô đối với trẻ em ....................................................... 36
1.4.2. Đường lối xử lý đối với tội dâm ô đối trẻ em .......................................................... 38
1.5. Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256 BLHS) ............................................ 40
1.5.1. Dấu hiệu định tội của tội mua dâm người chưa thành niên ..................................... 40
1.5.2. Đường lối xử lý đối với tội mua dâm người chưa thành niên ................................. 43
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 45
CHƯƠNG 2 : QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI VỀ CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHÓM TỘI NÀY ...................................... 46
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục ... 46
2.1.1 Quy định của BLHS Liên Bang Nga về các tội phạm tình dục................................ 46
2.1.2.

Quy định của BLHS Trung Quốc về các tội phạm tình dục ................................ 60

2.1.3. Bài học kinh nghiệm về lập pháp hình sự cho Việt Nam khi nghiên cứu BLHS của

Liên bang Nga, BLHS của CHND Trung Hoa về các tội phạm tình dục ......................... 65
2.2.

Quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm tình dục ....................................... 66


2.2.1 Những điểm mới của BLHS năm 2015 về các tội phạm tình dục ............................ 66
2.2.2. Những tồn tại cần khắc phục của BLHS năm 2015 khi quy định về các tội phạm
tình dục .............................................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 79


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế hội nhập quốc tế cùng với việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực, sự phát triển kinh tế - xã
hội ngày càng được cải thiện, đời sống nhân dân ngày được nâng cao. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, hiện tượng tội phạm ngày càng gia tăng gây nhức nhối trong xã hội, một trong
số đó là vấn đề các tội phạm tình dục có xu hướng diễn biến hết sức phức tạp, gây quan
ngại đối với toàn thể xã hội. Đây không chỉ là vấn nạn ở Việt Nam mà còn là vấn nạn ở
nhiều nơi trên thế giới. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trên phạm vi toàn
quốc, ngành tòa án đã xét xử trong năm 2011 là 1.352 vụ về các tội phạm tình dục với
1.568 bị cáo; năm 2012 đã xét xử 1.604 vụ với 1.864 bị cáo; năm 2013 đã xét xử 1.903
vụ với 2.140 bị cáo; năm 2014 đã xét xử 2.107 vụ về với 2.393 bị cáo; năm 2015 đã xét
xử 1.846 vụ với 2.012 bị cáo1. Số liệu này cho thấy, giai đoạn từ năm 2011 – 2014 số vụ
và số bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội phạm tình dục đều tăng liên tục. Riêng năm 2015
số vụ và bị cáo đưa ra xét xử về các tội phạm này có sự giảm nhẹ, song không đáng kể.

Như vậy, có thể thấy tội phạm về tình dục ở nước ta rất đáng lo ngại. Mặt khác,“Theo
Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef), trên toàn thế giới, 1/5 nữ giới và 1/7 nam giới
đã từng bị xâm hại tình dục, 9% đến 25% trẻ em ở khu vực Châu Á đã phải chịu đựng
nhiều mức độ xâm hại thể chất khác nhau, theo khảo sát 30% cả bé trai và bé gái đã
từng phải chịu đựng cưỡng bức tình dục…”2
Để đấu tranh phòng chống tội phạm tình dục, nhà nước cần tiến hành đồng bộ các
biện pháp khác nhau, trong đó, biện pháp hình sự đóng vai trò vô cùng quan trọng. BLHS
năm 1999 (BLHS hiện hành) quy định về các tội phạm tình dục đã góp phần quan trọng
vào đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, theo thời gian, xã hội Việt Nam
ngày càng biến đổi hết sức nhanh chóng, Bộ luật này đã bộc lộ những bất cập nhất định.
Những bất cập, tồn tại này cũng ảnh hưởng nhất định đến việc áp dụng BLHS trên thực
tế. Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập quốc tế, nghiên cứu so sánh với quy định của pháp

1

Số liệu từ Vụ Tổng hợp – Tòa án nhân dân tối cao cập nhật ngày 30/6/2016
/>2


2

luật hình sự nước ngoài, từ đó học tập kinh nghiệm về lập pháp hình sự nhằm hoàn thiện
luật là rất cần thiết. Do đó, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu một cách toàn diện quy định
của BLHS hiện hành về các tội phạm tình dục, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm lập pháp
hình sự của nước ngoài, chỉ rõ những bất cập của BLHS hiện hành cần phải sửa đổi, bổ
sung. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông qua, nhưng chưa có
hiệu lực. Do vậy, việc tìm ra những bất cập của Bộ luật này để phục vụ cho việc ban
hành Luật sửa đổi, bổ sung sắp tới là rất thiết thực. Với lí do trên, tác giả đã chọn và
nghiên cứu đề tài: “Các tội phạm tình dục theo quy định của luật hình sự Việt Nam và
một số nước trên thế giới” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các tội phạm tình dục là một vấn đề luôn dành được nhiều sự quan tâm, nghiên
cứu của các nhà khoa học, người làm công tác thực tiễn. Một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu liên quan đến đề tài này bao gồm:
* Luận văn thạc sĩ gồm có:
- “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình sự Việt Nam và đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này”, Tác giả Trịnh Thị Thu Hương, Luận văn Thạc sỹ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004;
- “Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành”, tác giả
Trần Thùy Chi, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011;
- “Tội hiếp dâm – so sánh giữa Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một
số nước”, tác giả Bùi Thị Quyên, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2013.
* Sách chuyên khảo gồm có:
+ “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người”,
tác giả Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
*Bài viết trên tạp chí gồm có:
+ “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam”, tác giả Dương Tuyết
Miên, Tạp chí Luật học, số 06, năm 1998;


3

+“Một số ý kiến khi áp dụng tình tiết định khung “Nhiều người hiếp một người”,
tác giả Nguyễn Thị Tuyết, Tạp chí Toà án nhân dân, số 03/1999;
+ “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người –
so sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 1985”, tác giả Nguyễn Ngọc Hoà, Tạp chí
Luật học số 1, năm 2001;
+ “Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999”, tác giả Trần Văn Luyện, Tạp

chí Nhà nước và pháp luật, số 3, năm 2001;
+“Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình dục trẻ
em”, Tác giả Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Toà án nhân dân, số 12, năm 2002;
+“Về tội hiếp dâm quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự”, Tác giả Nguyễn Hiển
Khanh,Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02, năm 2004;
+“Luật hình sự Việt Nam nhìn từ góc độ tiếp cận giới”, tác giả Nguyễn Tuyết
Mai, Tạp chí Luật học, số 03, năm 2007;
+“Một vài ý kiến trao đổi về tội hiếp dâm theo quy định tại Điều 111 Bộ luật hình
sự”, tác giả Đỗ Việt Cường, Tạp chí Kiểm sát, số 23, năm 2008;
+ “Trao đổi về tội hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự”, tác giả Đỗ Xuân
Nam, Tạp chí Kiểm sát, số 07, năm 2009;
+ “Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm phạm
nhân phẩm của con người trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”, tác giả Phạm Văn
Báu, Tạp chí Luật học, số 01, năm 2010;
+ “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người”, tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 08 (169) năm 2010;
+ “Một số ý kiến trao đổi về tội giao cấu với trẻ em”, tác giả Phạm Văn Nhớ, Tạp
chí Kiểm sát, số 11, năm 2010;
+ “Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm”, Tác giả Bùi Thị Quyên,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 23, năm 2012;


4

+ “So sánh dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trong Bộ luật hình sự Việt Nam
hiện hành với Bộ luật hình sự của một số nuớc và một số kiến nghị”, tác giả Dương
Tuyết Miên, Bùi Thị Quyên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7, năm 2013;
+ “Truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em – khó khăn, vướng
mắc và kiến nghị”, tác giả Hoàng Quảng Lực, Tạp chí Toà án nhân dân, số 13, năm

2014;
+ “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ
13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tác giả Vũ Hải Anh, Tạp chí Nghề Luật, số 01, năm
2015;
+ “Về quy định đối với các tội hiếp dâm - hiếp dâm trẻ em”, Tác giả Trần Hà Bảo
Khuyên, Tạp chí Toà án nhân dân, số 11, năm 2015;
+ “Bình luận về các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa
đổi)”, tác giả Dương Tuyết Miên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên Sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự 2015.
+ “Một số điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 về nhóm các tội phạm tình
dục”, tác giả Vũ Hải Anh, tạp chí Nghề luật, sô 3, năm 2016.
Ngoài ra, các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật trên cả nước đều đề cập đến
nhóm các tội phạm tình dục như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập 1 của Trường
ĐH Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2007;
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm của Học viện Cảnh sát nhân dân,
Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, năm 2012. Một số sách bình luận khoa học về BLHS
cũng đề cập đến nhóm tội này…
Các công trình trên ở các mức độ khác nhau đã làm rõ về vấn đề lí luận cũng như
thực tiễn áp dụng, vướng mắc ở một số tội phạm tình dục hoặc một tội nhất định. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về các tội phạm tình dục theo BLHS
năm 1999 có so sánh với BLHS một số nước trên thế giới, đồng thời cũng có sự liên hệ
đánh giá quy định tương ứng của BLHS năm 2015, đề xuất những giải pháp góp phần


5

hoàn thiện quy định của các Bộ luật này. Vì lí do đó, việc tác giả lựa chọn đề tài “Các tội
phạm tình dục theo quy định của Luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới”

là hoàn toàn cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và toàn diện
những quy định của BLHS Việt Nam hiện hành, có sự liên hệ, đánh giá với BLHS năm
2015 và BLHS của một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục. Do BLHS hiện
hành (BLHS năm 1999) vẫn đang được áp dụng, do vậy, tác giả sẽ chỉ ra những bất cập,
tồn tại của Bộ luật này. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 tuy đã được Quốc hội thông qua
nhưng đã bị lùi hiệu lực do phát hiện có một số sai sót, do vậy, tác giả cũng sẽ nghiên
cứu BLHS năm 2015, đề xuất giải pháp hoàn thiện trên cơ sở đánh giá bất cập của bộ
luật này, từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh chống và phòng
ngừa tội phạm tình dục trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Phân tích các dấu hiệu định tội, đường lối xử lý của các tội phạm tình dục theo
BLHS năm 1999, tìm ra những bất cập của Bộ luật này khi quy định về các tội trên;
- Đánh giá quy định của BLHS năm 2015 đối với các tội phạm tình dục, chỉ ra
những điểm mới cũng như những bất cập còn tồn tại;
- Phân tích các dấu hiệu định tội, đường lối xử lý đối với các tội phạm tình dục của
BLHS một số nước trên thế giới. Qua đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta trong
việc quy định về các tội phạm tình dục.
- Tìm ra được giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của BLHS Việt Nam năm
1999, BLHS năm 2015 đối với các tội phạm tình dục. Bên cạnh đó, luận văn cũng
nghiên cứu quy định của BLHS của một số nước trên thế giới về các tội phạm tình dục.


6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự. Tác giả tập trung nghiên cứu
quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm tình dục. Bên cạnh đó, tác giả cũng liên
hệ đánh giá về quy định của BLHS năm 2015 về nhóm tội này.
Tác giả cũng có nghiên cứu quy định của BLHS một số nước (Liên bang Nga,
Trung Quốc) về các tội phạm tình dục.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tác giả sử dụng nghiên cứu luận văn là phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về hình sự và cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng là phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu quy định của các tội phạm tình dục trong
BLHS năm 1999 một cách có hệ thống và tương đối toàn diện, từ đó, tìm ra những bất
cập của BLHS năm 1999, đề xuất kiến nghị hoàn thiện. Đồng thời, tác giả đã nghiên
cứu quy định về các tội phạm tình dục của BLHS một số nước trên thế giới. Qua đó, rút
ra bài học kinh nghiệm cho nước ta trong việc quy định về các tội phạm tình dục. Trên
cơ sở đánh giá quy định của BLHS năm 2015, tác giả đã tìm ra những điểm mới và
những điểm hạn chế còn tồn tại của BLHS năm 2015, từ đó đưa ra những phương
hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 và nâng cao hiệu quả
thi hành trong thời gian tới. Về thực tiễn, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cơ
quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho việc ban hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS sắp tới nhằm khắc phục sai sót của BLHS năm 2015.
Ngoài ra, luận văn còn có thể được sử dụng là tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo bậc đại học, sau đại học về
chuyên ngành luật học.



7

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chữ viết tắt và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội phạm tình
dục
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội
phạm tình dục và phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về nhóm tội này


8

CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ
CÁC TỘI PHẠM TÌNH DỤC
………………….
Các tội phạm tình dục là những hành vi mang tính nguy hiểm rất cao xâm
phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của con người
(trong đó chủ yếu là phụ nữ)..3
Trong phạm vi chương 1, tác giả sẽ phân tích quy định của BLHS Việt Nam
hiện hành (BLHS năm 1999) về dấu hiệu định tội, đường lối xử lý đối với các tội
phạm tình dục, đồng thời chỉ ra bất cập còn tồn tại của Bộ luật này.
BLHS hiện hành quy định 7 Điều luật về các tội phạm tình dục. Đó là các tội:
- Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS);
- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS);
- Tội cưỡng dâm (Điều 113 BLHS);
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS);
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS);
- Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS);
- Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256 BLHS).

Sau đây, tác giả sẽ phân tích cụ thể từng tội danh.
1.1. Tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em (Điều 111, Điều 112 BLHS)
1.1.1. Dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em
*Tội hiếp dâm (Điều 111 BLHS)
Căn cứ khoản 1 Điều 111 BLHS có thể hiểu: “Tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ”.4
Khách thể của tội hiếp dâm là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người
phụ nữ. Đây là một quyền hết sức quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do

3
4

Dương Tuyết Miên, Về các tội phạm tình dục trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 6/1998, tr44.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010, tr423.


9

đó, bất kì hành vi xâm phạm tình dục nào cũng là vi phạm pháp luật và đều phải chịu sự
trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật.
Chủ thể của tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu TNHS. Thực tiễn xét xử ở Việt Nam từ trước đến nay đều
thừa nhận chủ thể của tội hiếp dâm là chủ thể đặc biệt - nam giới. Nữ giới chỉ có thể
tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, giúp sức hay tổ
chức.
Hành vi khách quan của tội hiếp dâm được mô tả ở khoản 1 Điều 111 BLHS năm
1999 quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái
ý muốn của họ …”. Như vậy, hành vi khách quan của tội hiếp dâm là hành vi giao cấu

với người phụ nữ trái với ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,
lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác.
Ví dụ: Khoảng 21h ngày 24/2/2007 (tức ngày mồng 8 tết) Luận, Doanh, May,
Động đi chơi, tới gần đường rẽ vào nghĩa trang gặp đôi nam nữ thanh niên là Tùng và
Thu. Luận, Doanh, May, Động đã chặn đôi nam nữ lại. Động và May lôi chị Thu về phía
bờ ruộng gần đó, cả hai khống chế lột hết quần áo của chị Thu và lần lượt thực hiện hành
vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân mặc dù nạn nhân đã van xin xin tha. (Theo Bản
án số 21/2008/HSST ngày 28/10/2008 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội).
CTTP tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân,
nhưng không đòi hỏi hành vi giao cấu phải đã kết thúc về mặt sinh lí. Tội hiếp dâm là tội
phạm có CTTP hình thức vì nhà làm luật chỉ mô tả dấu hiệu hành vi trong mặt khách
quan và không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Hành vi giao cấu trái ý muốn của người phạm tội được thực hiện bằng một trong
các thủ đoạn sau:
- Thủ đoạn dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn
nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, vật ngã, túm tóc, bóp cổ, trói, đánh, đấm, đá,
đạp…


10

Đây là trường hợp phạm tội mà giữa người phạm tộ- Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực là
làm cho ý chí của người phụ nữ bị tê liệt, buộc họ phải chịu sự giao cấu mà không dám
kháng cự như dọa giết, dọa gây thương tích cho nạn nhân...
- Thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân là lợi dụng
người phụ nữ vì lý do nào đó không thể chống cự được hành vi giao cấu trái với ý muốn
của mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng ốm đau, bị ngất, bị bệnh tâm
thần, bị tàn tật…
- Thủ đoạn khác là những thủ đoạn (ngoài ba thủ đoạn trên) giúp cho người phạm
tội có thể thực hiện được việc giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ. Theo thực tiễn

xét xử, những thủ đoạn này có thể là lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng không
có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn như say rượu, bị cho sử dụng các chất ma túy gây ảo
giác, bị dùng chất kích dục… Tình trạng này có thể do hoặc không do người phạm tội
gây ra. Do không thể bao quát được hết các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để thực
hiện việc giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, nhà làm luật quy định về “thủ đoạn
khác” là cần thiết tránh việc bỏ lọt tội phạm.
Đối với đa phần các tội phạm về tình dục, người phạm tội đều có hành vi giao cấu.
Trong đó, hành vi giao cấu ở các tội này chỉ khác nhau ở thái độ của nạn nhân đối với
hành vi. Theo đó, thái độ của nạn nhân đối với hành vi giao cấu của người phạm tội ở tội
hiếp dâm là trái ý muốn (tội cưỡng dâm là miễn cưỡng, tội giao cấu với trẻ em là thuận
tình). Vì vậy, nội hàm của khái niệm giao cấu có thể được xác định chung cho những tội
luật có quy định về hành vi giao cấu.
Cho đến nay, ở nước ta chỉ có một văn bản duy nhất mô tả cụ thể thế nào là hành
vi giao cấu. Đó là Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội
phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày 11/5/1967 của TANDTC. Văn bản này đã
định nghĩa giao cấu là: “sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người
phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn sâu vào trong không kể sự xâm nhập
của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không”5. Cách định nghĩa tại
văn bản này ở thời điểm ra đời đã thể hiện quan điểm rất tiến bộ, góp phần bảo vệ tốt hơn
5

Tòa án nhân dân tối cao, Hệ thống hóa các văn bản về hình sự, Hà Nội, năm 1975, trang 389


11

danh dự, nhân phẩm của nữ giới. “Tuy nhiên, hiện nay hành vi tình dục của con người
ngày càng đa dạng, không chỉ nhằm mục đích sinh sản mà còn nhằm đem lại những
khoái cảm bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, hành vi tình dục không chỉ diễn ra ở
bộ phận sinh dục mà còn có thể diễn ra ở bộ phận khác trên cơ thể”.6 Do đó, xuất phát

từ mục đích bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tình dục không nên bó hẹp khái niệm
giao cấu ở “sự cọ sát dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ...” vì trong các
trường hợp như nam giới đưa dương vật vào miệng hoặc hậu môn của nữ giới hoặc
trường hợp nam giới đưa miệng, tay, vật thể vào âm hộ hoặc hậu môn của phụ nữ ... thì
quyền bất khả xâm phạm về tình dục của nữ giới cũng đã bị xâm hại. Trong nhiều trường
hợp hành vi của người phạm tội về bản chất đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm
về tình dục của nạn nhân, khiến nạn nhân tổn thương sâu sắc nhưng lại không bị xử lý
hình sự hoặc bị xử lý về tội nhẹ hơn tội hiếp dâm. “Thực tế ở Việt Nam đã xảy ra trường
hợp nam giới dùng vũ lực có hành vi đưa dụng cụ tình dục, tay vào âm đạo nạn nhân trái
ý muốn của nạn nhân nhưng lại xử về tội làm nhục người khác trong khi thực chất hành
vi này là phạm tội hiếp dâm theo quy định của nhiều nước trên thế giới”7. Như vậy, rõ
ràng việc quy định nội hàm của hành vi giao cấu theo cách hiểu truyền thống như hiện
nay không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn đến việc xử lý chưa nghiêm minh, bỏ lọt tội
phạm. Cho nên, theo tác giả cần coi những trường hợp nêu trên thuộc nội hàm của giao
cấu và khái niệm giao cấu cần phải được mở rộng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của tình
hình tội phạm hiện này. Mặt khác, chuẩn mực quốc tế khi đề cập đến tội hiếp dâm cũng
như tội hiếp dâm trẻ em cũng xác định giao cấu theo nghĩa rộng. Công ước của Hội đồng
Châu Âu đã mô tả về hành vi giao cấu của tội hiếp dâm cũng như tội hiếp dâm trẻ em là:
hành vi thực hiện một cách có chủ ý thuộc một trong các trường hợp: “a) ép buộc quan
hệ tình dục bằng cách thâm nhập âm đạo, hậu môn hay bằng miệng của người khác bằng
bất kì bộ phận nào của cơ thể hay bằng bất kì vật thể nào mà không được sự đồng ý của
nạn nhân, b)ép buộc thực hiện quan hệ tình dục với người khác mà không được sự đồng

6

Bùi Thị Quyên, Bàn về một số dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2013, tr28-36
Dương Tuyết Miên, Bình luận về các tội phạm về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi), Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên Sửa đổi, bổ
sung Bộ luật hình sự/2015, tr.131.
7



12

ý của họ, c) ép buộc người khác quan hệ tình dục với người thứ ba mà không có sự đồng
ý của người đó.”8
Hành vi giao cấu chỉ bị coi là phạm tội hiếp dâm khi được thực hiện trái với ý
muốn của nạn nhân. Thái độ trái ý muốn xảy ra khi người phụ nữ không chấp nhận sự
giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra không có ý muốn của người phụ nữ ( họ đang
trong tình trạng không thể biểu lộ ý chí đúng đắn). Biểu hiện của thái độ trái ý muốn là
người phụ nữ chống cự, khóc lóc, van xin, kêu cứu… Vấn đề đặt ra là thái độ trái ý muốn
của người phụ nữ xảy ra vào thời điểm nào thì hành vi giao cấu của nam giới bị coi là
phạm tội hiếp dâm? Hiện chưa có một văn bản pháp luật nào ở nước ta quy định về vấn
đề này. “Ở một số nước như Anh, Australia, Xcolen, xứ Uên, pháp luật quy định rõ thái
độ trái ý muốn của người phụ nữ phải xảy ra trước khi có hành vi giao cấu. Nếu người
đàn ông đang giao cấu, người phụ nữ mới biểu lộ thái độ trái ý muốn thì trường hợp này
người đàn ông không phạm tội hiếp dâm, vì thái độ trái ý muốn của người phụ nữ không
phải là trái ý muốn thực sự”9 . Tác giả đồng ý với ý kiến trên. Hành vi giao cấu chỉ bị coi
là trái ý muốn nạn nhân khi người phụ nữ thể hiện thái độ trái ý muốn trước khi nam giới
thực hiện hành vi này. Như vậy mới thể hiện được thái độ trái ý muốn thực sự của người
phụ nữ.
Lỗi của người phạm tội hiếp dâm là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi
giao cấu của mình là trái với ý muốn của người phụ nữ nhưng vẫn mong muốn thực hiện
hành vi đó bằng việc sử dụng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác.
Trong thực tiễn áp dụng luật hình sự đã từng có một số vụ án gây tranh luận của
giới chuyên môn liên quan đến việc giao cấu trái ý muốn người chuyển giới bằng một
trong các thủ đoạn nói trên. Tác giả xin nêu vụ án điển hình. Nguyễn Văn Tình, Phạm
Văn Ánh và Lê Quang Toản sau khi nhậu xong trở về nhà thì đã 11h30 đêm. Đến khu
vực ngoại ô của thành phố Đồng Hới, bọn chúng nhìn thấy một phụ nữ đang đi một mình

vừa đi vừa khóc. Cả ba tên đã bắt người phụ nữ lên xe máy đưa đến cánh đồng vắng và
8

“Nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ”, Tài liệu do UN Women và UNODC phát
hành, Bản tiếng Việt, tháng 12/2014.
9
Dương Tuyết Miên, Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 6/1998, tr47


13

dùng vũ lực thay nhau làm nhục nạn nhân, mặc cho nạn nhân khóc lóc, van xin. Sau đó,
bọn chúng để mặc nạn nhân một mình trên cánh đồng vắng và bỏ đi. Sau đó, nạn nhân đã
đến đồn công an trình báo. Cơ quan điều tra xác minh nạn nhân gốc là nam giới nhưng đã
phẫu thuật chuyển giới (giấy tờ vẫn tên là nam giới, nhưng cơ thể thì đã phẫu thuật
chuyển giới). Cơ quan điều tra cũng đã tìm hiểu và đã xác minh ba tên Tình, Ánh và
Toản khi xâm hại tình dục nạn nhân, bọn chúng đều không biết nạn nhân gốc là nam giới
mà vẫn nghĩ đó là phụ nữ (nạn nhân có âm đạo nhân tạo)10. Vụ án này dẫn đến tranh luận
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, do nạn nhân trên giấy tờ thể hiện là nam giới, gốc
gác là nam giới, do vậy, không xử lí hình sự ba tên Tình, Ánh và Toản về tội hiếp dâm
được vì nạn nhân của tội này phải là nữ giới.
Quan điểm thứ hai cho rằng vẫn xử lí hình sự ba tên Tình, Ánh, Toản được vì cả 3
tên này khi xâm hại tình dục nạn nhân đã sử dụng thủ đoạn dùng vũ lực và giao cấu trái ý
muốn nạn nhân, 3 tên này khi giao cấu trái ý muốn nạn nhân vẫn nghĩ rằng đó là phụ nữ,
không biết đó là người chuyển giới.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai bởi lẽ, trong khoa học luật hình sự có đề cập
đến trường hợp chưa đạt vô hiệu. “Chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt mà
nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng
tác động của tội phạm”11. Trường hợp chưa đạt vô hiệu có liên quan đến đối tượng tác

động của tội phạm thực chất là trường hợp sai lầm về đối tượng tác động. Đó là trường
hợp đối tượng tác động không có tính chất hoặc đặc điểm nhất định mà người phạm tội
tưởng lầm là có. Trường hợp nói trên, ba tên Tình, Ánh, Toản khi xâm hại nạn nhân đã
lầm tưởng nạn nhân là phụ nữ và bọn chúng đã giao cấu trái ý muốn với nạn nhân bằng
thủ đoạn dùng vũ lực, bọn chúng không biết nạn nhân là nam giới đã làm phẫu thuật
chuyển giới. Bọn chúng đã lầm tưởng nạn nhân là phụ nữ thực sự (do đặc điểm cơ thể
của người chuyển giới từ nam sang nữ giống như phụ nữ thực sự), do vậy, phải xác định
3 tên Tình, Ánh, Toản phạm tội hiếp dâm mới đúng (thuộc trường hợp chưa đạt vô hiệu).
10

“Hiếp dâm tập thể người chuyển giới, 5 năm vẫn chưa xử được”, tại nguồn truy cập ngày 15/7/2016
11
Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, NXB Công an nhân dân, năm 2006, trang 159.


14

Vì vậy, tác giả đồng tình với quan điểm: “Các bị can đã nhầm đối tượng tác động. Trong
ý chí chủ quan của các bị can đã xác định nạn nhân là nữ nên mới hiếp...”12
*Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS)
Căn cứ theo khoản 1 Điều 112 và Điều 111 BLHS có thể hiểu tội hiếp dâm trẻ em
là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái
với ý muốn của họ hoặc lợi dụng tình trạng không có khả năng thể hiện ý chí đúng đắn
của trẻ em dưới 13 tuổi để giao cấu với họ.
Tội hiếp dâm trẻ em xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quyền
bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm của trẻ em. Đồng thời, hành vi hiếp
dâm trẻ em còn xâm phạm đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, làm
băng hoại các giá trị đạo đức xã hội, gây nên sự bất bình trong nhân dân. Ngoài ra, hành
vi hiếp dâm trẻ em còn có thể gây ra những tổn thương về sức khỏe và có trường hợp có

thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ.
Tội hiếp dâm trẻ em là một trường hợp đặc biệt của tội hiếp dâm. Trước đây, tội
hiếp dâm trẻ em là một khung tăng nặng của tội hiếp dâm nhưng sau đó được nhà làm
luật tách ra thành tội độc lập nhằm thể hiện chính sách hình sự nghiêm khắc đối với hành
vi phạm tội này cũng như nhằm bảo vệ trẻ em được tốt hơn, vì lẽ đó, BLHS năm 1999 đã
không mô tả lại dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trẻ em tại Điều 112. Vì vậy, khi
nghiên cứu về tội phạm này, những điểm giống nhau với tội hiếp dâm tác giả sẽ không
trình bày lại mà chỉ tập trung phân tích điểm khác biệt của tội hiếp dâm trẻ em so với tội
hiếp dâm. Điểm khác biệt lớn nhất của hai tội này đó là về đối tượng tác động.
Đối tượng tác động của tội hiếp dâm trẻ em là trẻ em gái dưới 16 tuổi, còn đối
tượng tác động của tội hiếp dâm là phụ nữ, tức là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Điều 112
BLHS đã chia nạn nhân của tội hiếp dâm trẻ em làm hai trường hợp, cụ thể:
+ Đối với trường hợp đối tượng bị xâm hại tình dục là người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi: Điều 112 BLHS năm 1999 quy định: “Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị...”. Mặc dù, Điều luật không quy định rõ nhưng ở đây có
12

“Hiếp dâm tập thể người chuyển giới, 5 năm vẫn chưa xử được”, tại nguồn truy cập ngày 15/7/2016


15

thể hiểu người phạm tội đã có hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân là trẻ em từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác. Như vậy, BLHS hiện hành
quy định thái độ của trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với hành vi giao cấu của
người phạm tội là “trái ý muốn” và quy định này giống với hành vi phạm tội ở tội hiếp
dâm.
Ví dụ: Nhờ quen biết nên Sáng xin được số điện thoại của My (15 tuổi), mục đích
để rủ My đi chơi. Khoảng 21 giờ 30 phút Sáng rủ My ra bờ ao chơi, My đồng ý. Ngồi nói

chuyện một lúc, Sáng quay lại ôm My, My giằng co với Sáng, van xin Sáng bỏ ra và cho
My về. Nhưng Sáng không nghe rồi vật My xuống bên đường cạnh đống rơm của thôn
Hưng Nông và hiếp dâm My. (Bản án số 01/2014/HSST ngày 10/01/2014 của Tòa án
nhân dân huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội)
+ Đối với trường hợp đối tượng bị xâm hại tình dục là trẻ em dưới 13 tuổi: khoản
4 Điều 112 BLHS quy định: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là
phạm tội hiếp dâm trẻ em…”. Như vậy, có nghĩa là bất kể hành vi giao cấu với trẻ em
dưới 13 tuổi cho dù nạn nhân có trái ý muốn hay được sự đồng ý của nạn nhân đều coi là
hành vi hiếp dâm trẻ em. Quy định này xuất phát từ cơ sở khoa học cho rằng ở độ tuổi
dưới 13 tuổi, trẻ em nhận thức còn non nớt, chưa có khả năng biểu hiện ý chí đúng đắn,
dễ bị người khác lợi dụng, lôi kéo, rủ rê. Do đó, có thể coi đây là một thủ đoạn của tội
hiếp dâm trẻ em – thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể biểu lộ ý chí đúng đắn của
người dưới 13 tuổi. Quy định của Điều luật cho thấy rằng hành vi giao cấu đối với nạn
nhân càng nhỏ tuổi thì tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn và pháp luật cần phải bảo vệ
một cách nghiêm khắc hơn.
Ví dụ: Do là bạn thân nên Nguyễn Văn Điệp thường đến nhà Hoàng Văn Thắng
chơi và ngủ lại qua đêm. Từ đó, giữa Điệp và cháu Hoàng Thị Hạnh. (12 tuổi, cháu của
Thắng) nảy sinh tình cảm. Cuối tháng 8/2015, khi đến nhà bạn chơi, thấy Hạnh ở nhà
một mình nên Điệp nảy sinh ý định giao cấu và đã dụ dỗ Hạnh vào phòng và đồng ý cho
Điệp quan hệ tình dục. Sau lần đó, Điệp tiếp tục quan hệ tình dục với cháu Hạnh thêm


16

nhiều lần nữa (Bản án HSTT số 94/2015 ngày 14/12/2015 của tòa án nhân dân tỉnh Đắc
Lắc).
Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm trẻ em với lỗi cố ý trực tiếp. Tuy
nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc xác định, chứng minh ý thức chủ quan của
người phạm tội hiếp dâm trẻ em đối với trường hợp trẻ em ở lứa tuổi giáp ranh giữa trẻ
em và người thành niên còn phức tạp. Cụ thể, ở độ tuổi này nhiều em gái đã dậy thì nên

có bề ngoài cao lớn như thanh niên, xử sự giống người lớn. Mặt khác, bản thân nạn nhân
có thể cố tình che giấu độ tuổi thật của mình làm cho người phạm tội lầm tưởng là người
đã thành niên và thực hiện hành vi giao cấu với các em. Do vậy, quá trình áp dụng luật
đòi hỏi các cán bộ áp dụng luật phải nghiên cứu kĩ hồ sơ vụ án, nắm vững quy định của
luật để đảm bảo áp dụng chính xác
Tóm lại, qua việc nghiên cứu dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ
em theo quy định tại Điều 111, Điều 112 BLHS năm 1999, tác giả nhận thấy vẫn còn tồn
tại bất cập. Cụ thể:
Thứ nhất, nội hàm của giao cấu hiện nay còn quá hẹp và chỉ hiểu theo cách truyền
thống “giao cấu là sự cọ sát dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ...”. Do
quan niệm về nội hàm của giao cấu quá hẹp nên đã dẫn đến hệ lụy là nhiều trường hợp,
hành vi của người phạm tội về bản chất là phạm tội hiếp dâm nhưng lại không bị xử lý
hình sự về tội này hoặc bị xử lý về tội nhẹ hơn. Do xã hội ngày càng phát triển, sự giao
lưu với văn hóa phương Tây ngày càng mở rộng thì hành vi giao cấu ở Việt Nam ngày
càng đa dạng, phức tạp, vì vậy, để đảm bảo xử lí hình sự nghiêm minh thì nội hàm của
giao cấu cần được mở rộng và quy định cụ thể ngay trong luật. Qua đó, góp phần quan
trọng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm về tình dục, nhằm giảm đáng kể tội
phạm này, tránh bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, nhà làm luật không mô tả dấu hiệu định tội của tội hiếp dâm trẻ em trong
Điều 112 mà trên thực tế, nội dung này được hiểu và áp dụng giống như ở tội hiếp dâm.
Tuy nhiên, để thuận lợi cho cơ quan áp dụng luật và đảm bảo nguyên tắc “công khai,
minh bạch” trong quy định, nhà làm luật cần mô tả rõ dấu hiệu định tội của tội này trong
Điều 112, không nên hành văn chung chung như quy định của BLHS hiện hành.


17

1.1.2. Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, tội hiếp dâm trẻ em
*Đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm
Thể hiện đường lối xử lý đối với tội hiếp dâm, BLHS quy định 4 khung hình phạt

khác nhau được phép áp dụng cho tội này với mức hình phạt thấp nhất là 02 năm tù và
hình phạt cao nhất là tù chung thân.
Khung cơ bản có 2 mức. Mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm được áp dụng cho
trường hợp phạm tội không có tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là người thành
niên. Mức phạt tù từ 5 năm đến 10 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội không có
tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là người chưa thành niên (đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi).
Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Khung này được
áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Phạm tội có tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 111 BLHS)
Đây là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm. Trong
trường hợp hiếp dâm này, tất cả những người đồng phạm đều bị áp dụng tình tiết tăng
nặng định khung này. Tuy nhiên, TNHS đối với mỗi người lại phụ thuộc vào vai trò và
hành vi của họ trong vụ án.
- Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh (điểm b khoản 2 Điều 111BLHS)
i và nạn nhân có quan hệ đặc biệt với nhau. Trong đó, người phạm tội là người có
trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho nạn nhân. Trách nhiệm này phát sinh do
những cơ sở pháp lí khác nhau như: người được cơ quan, tổ chức xã hội hoặc họ hàng
thân thích giao trách nhiệm chăm sóc nạn nhân về ăn uống, sinh hoạt, vệ sinh cá nhân;
thầy giáo, người làm công tác giáo dục, bác sĩ điều trị cho bệnh nhân… Tuy nhiên không
phải trường hợp phạm tội hiếp dâm nào mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc,
giáo dục, chữa bệnh đều áp dụng tình tiết này mà chỉ được áp dụng tình tiết khi hành vi
phạm tội của người có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh đã lợi dụng việc chăm
sóc, giáo dục, chữa bệnh để hiếp dâm người được chăm sóc, được giáo dục, được chữa


18

bệnh. Nếu hành vi hiếp dâm không liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh thì

không thuộc trường hợp này.
- Nhiều người hiếp một người (điểm c khoản 2 Điều 111 BLHS)
Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm trong đó có nhiều người có hành vi giao
cấu trái ý muốn với cùng một nạn nhân. Trong một vụ đồng phạm, nếu có từ hai người
trở lên cùng giao cấu trái với ý muốn với một nạn nhân thì áp dụng tình tiết nhiều người
hiếp một người; còn nếu có sự phân công chặt chẽ giữa nhiều người như: người bịt mồm,
người giữ chân tay, người thực hiện hành vi giao cấu với nạn nhân thì áp dụng tình tiết
phạm tội có tổ chức. Quy định tình tiết này trong khung tăng nặng là cần thiết. Bởi lẽ, do
có nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân nên không
những xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của nạn nhân mà còn có khả năng
gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của nạn nhân.
- Phạm tội nhiều lần (điểm d khoản 2 Điều 111 BLHS)
Xét về mặt lý luận, phạm tội nhiều lần là phạm cùng một tội từ hai lần trở lên
trong đó mỗi lần đều thỏa mãn CTTP và chưa lần nào bị đưa ra xét xử. Trường hợp
người phạm tội đã phạm tội nhiều lần mà nạn nhân ở những lần phạm tội khác nhau là
khác nhau thì áp dụng cả hai tình tiết định khung tăng nặng: đối với nhiều người và phạm
tội nhiều lần.
- Đối với nhiều người (điểm đ khoản 2 Điều 111 BLHS)
Đây là tình tiết định khung tăng nặng mới được quy định trong BLHS năm 1999.
Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm
từ hai nạn nhân trở lên và những lần phạm tội đó đều chưa bị đưa ra xét xử. Nếu một
người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm với hai người trở lên và tất cả các nạn nhân
chỉ bị xâm hại một lần thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung
tăng nặng này. Nếu có nạn nhân bị xâm hại một lần, có nạn nhân bị xâm hại nhiều lần,
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tình tiết tăng nặng là “phạm
tội nhiều lần” và “phạm tội đối với nhiều người”.
- Có tính chất loạn luân (điểm e khoản 2 Điều 111 BLHS)


19


Tình tiết hiếp dâm “có tính chất loạn luân” được áp dụng khi giữa người phạm tội
và nạn nhân có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em cùng
cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Việc quy định tình tiết
này trong khung tăng nặng là cần thiết. Bởi lẽ, về mặt xã hội thì hành vi quan hệ sinh lý
giữa những người này là hành vi đi ngược lại đạo đức, luân lý, truyền thống, lễ giáo, là
biểu hiện của sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức… nên bị xã hội kịch liệt lên án. Đồng
thời hành vi hiếp dâm còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, tinh thần của nạn
nhân.
Tuy nhiên, theo tác giả việc sử dụng thuật ngữ “có tính chất loạn luân” như
BLHS hiện hành là chưa chuẩn xác vì chưa mô tả rõ lỗi của người phạm tội. Quy định
này, có thể dẫn đến cách hiểu là người phạm tội có thể không biết đến mối quan hệ huyết
thống này mà phạm tội. Theo khoa học luật hình sự, đối với các tội có CTTP hình thức,
lỗi của người phạm tội phải là lỗi cố ý trực tiếp. Hơn nữa, việc áp dụng biện pháp TNHS
đối với người phạm tội chỉ có ý nghĩa khi người đó biết giữa họ và nạn nhân có quan hệ
huyết thống. Do đó, tác giả cho rằng nên sửa tình tiết “có tính chất loạn luân” thành “Biết
là loạn luân mà vẫn phạm tội” như vậy mới thể hiện rõ lỗi của người phạm tội trong
trường hợp này chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp đồng thời đảm bảo sự phù hợp giữa quy
định của BLHS và thực tiễn xét xử.
- Làm nạn nhân có thai (điểm g khoản 2 Điều 111 BLHS)
Tình tiết này đòi hỏi việc nạn nhân mang thai phải là kết quả của việc giao cấu
giữa nạn nhân với người phạm tội, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi giao cấu
và hậu quả nạn nhân có thai. Nếu nạn nhân tuy bị hiếp dâm nhưng việc nạn nhân mang
thai đó là kết quả của việc giao cấu với người khác thì người phạm tội không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tình tiết này.
- Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
(điểm h khoản 2 Điều 111 BLHS)
Căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng này là kết quả giám định thương tật của nạn
nhân do Hội đồng giám định pháp y kết luận. Trong trường hợp này, cần xác định rằng
lỗi của người phạm tội đối với hậu quả gây thương tích là lỗi vô ý. Nếu trước hoặc trong



×