Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.37 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

LƯ NGỌC LAN

CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------

LƯ NGỌC LAN

CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể các thầy, cô giáo đang công
tác giảng dậy tại trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa sau Đại học, Thư viện trường
đã cung cấp cho em những kiến thức pháp lý nâng cao, tài liệu và điều kiện cần
thiết trong thời gian học tập tại trường.
Em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt nhất đến PGS.TS Phùng Trung Tập (trưởng
bộ môn Luật Dân sự, khoa Luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội) là người đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin chúc các thầy cô dồi dào sức khỏe, thành công trong công việc và hạnh
phúc trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2016
Học viên
Lư Ngọc Lan


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan Luận văn thạc sĩ luật học này là công trình nghiên cứu của

riêng em, chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các thông tin
và tài liệu được trích dẫn trong Luận văn là trung thực, khách quan dựa trên các
nghiên cứu khoa học thực tế đã được công bố.

Xác nhận của người hướng dẫn

Chữ ký của học viên


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

Nxb

: Nhà xuất bản

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNDS

: Trách nhiệm dân sự


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN
SỰ VÀ CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG ............................................................................................. 7
1.1. Khái niệm và phân loại trách nhiệm dân sự....................................................... 7
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự ....................................................................... 7
1.1.2. Phân loại trách nhiệm dân sự ...................................................................... 10
1.2. Khái niệm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng . 20
1.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp
luật của một số nước ............………………………………………………………21
1.3.1. Bộ Luật dân sự Nhật Bản ............................................................................. 21
1.3.2. Bộ Luật dân sự Pháp ................................................................................... 24
1.3.3. Bộ Luật dân sự và thương mại Thái Lan ...................................................... 27
Chương 2. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT GÂY RA VÀ
DO TÀI SẢN GÂY RA........................................................................................ 29
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi
trái pháp luật gây ra ............................................................................................... 29
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra ....................................................................................... 30
2.1.2. Có hành vi trái pháp luật ............................................................................. 35
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật .... 39
2.1.4. Có lỗi của người gây ra thiệt hại ................................................................. 43
2.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản
gây ra .................................................................................................................... 49
2.2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra........................................................................................ 49


2.2.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản
khác gây ra ............................................................................................................ 58
Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN

HÀNH VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN MỚI CỦA BLDS NĂM 2015 VỀ CĂN
CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..................................................................... 71
3.1. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và hạn chế của quy định hiện hành
về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .................... 71
3.2. Hướng hoàn thiện mới của BLDS năm 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và một số kiến nghị ...................................... 84
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong lịch sử
pháp luật dân sự thế giới cũng như của Việt Nam. Hệ thống pháp luật quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ở nước ta có từ khá sớm, được thể
hiện trong Bộ Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long, rõ nét hơn trong các văn bản
hướng dẫn của TANDTC cho đến khi ban hành BLDS năm 1995 và hiện nay quy
định khá cụ thể trong BLDS năm 2005. Quy định của pháp luật dân sự hiện hành về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn
thiện hơn, là căn cứ pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp trong giao lưu
dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể khi bị xâm hại.
Nội dung chính yếu của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
xác định đúng hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; chủ thể có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho chủ thể có tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh sự, nhân phẩm, uy tín… bị
xâm phạm và mức bồi thường thiệt hại nhằm khắc phục kịp thời khi có thiệt hại xảy
ra, bảo vệ quyền lợi hợp pháp thỏa đáng cho người bị thiệt hại. Nói đến bồi thường

thiệt hại ngoài hợp đồng nghĩa là phải xác định đúng các căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính
là vấn đề then chốt đồng thời là yếu tố tiền đề quan trọng nhất trong toàn bộ chế
định. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện
hay nói cách khác là có đủ các căn cứ do pháp luật quy định, đó là bốn điều kiện sau:
Có thiệt hại xảy ra, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ
nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật và có lỗi của người gây ra
thiệt hại. Trong BLDS năm 2005 hiện hành, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng được thể hiện tại Điều 604. Qua thực tiễn áp dụng Điều 604,
hiện nay có nhiều tranh cãi và vướng mắc khi xác định các căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm, mức bồi thượng thiệt hại… Trong các căn cứ làm phát sinh TNDS do
gây thiệt hại theo quy định hiện nay, ta thấy rằng tồn tại rất nhiều vướng mắc khi xác
định yếu tố lỗi của người có hành vi gây thiệt hại (chưa có một khái niệm lỗi rõ ràng;
việc xác định lỗi thuộc về ai trong trường hợp thiệt hại do súc vật, nguồn nguy hiểm


2

cao độ, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng… gây ra; trường hợp xác định lỗi liên
đới; vấn đề chứng minh lỗi…). Việc xác định mức độ thiệt hại và mức bồi thường
sao cho đúng và thỏa đáng để bảo vệ được lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại
cũng là vấn đề còn tồn tại nhiều bất cập. Ngoài ra, phải kể đến sự nhầm lẫn trong xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của con người gây
ra với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra; giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến nguồn
nguy hiểm cao độ với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. Như vậy, xuất phát từ quy định chưa cụ thể, rõ ràng của pháp luật về căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hiện nay đã dẫn đến nhiều
cách hiểu và vận dụng thiếu hiệu quả trong thực tiễn. Trong công tác xét xử, giải
quyết các tranh chấp tại Tòa án và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về vấn đề

này đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
chính đáng của các chủ thể, làm bất bình đẳng xã hội, giảm lòng tin trong nhân dân
và hơn hết là chưa đáp ứng được những đổi mới của kinh tế, xã hội đất nước ta trong
xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ bối cảnh hiện nay.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu chuyên sâu
là cần thiết với mục đích tìm hiểu, phân tích và làm rõ về mặt lý luận cũng như thực
tiễn một cách có hệ thống quy định của pháp lý hiện nay về các điều kiện làm phát
sinh TNDS do hành vi gây thiệt hại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định nhận được rất nhiều sự quan
tâm nghiên cứu trong khoa học pháp lý. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về chế định này và khai thác đa dạng ở nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau. Từ nghiên cứu chung toàn diện về chế định đến các đề tài chỉ đi sâu giải quyết
làm rõ một vấn đề nhất định, một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Xin kể tên dưới đây một số công trình nổi bật trong số rất nhiều
các công trình xuất sắc nghiên cứu xoay quanh chế định này:
Một số sách chuyên khảo: “Tìm hiểu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
của Luật sư Bùi Văn Thấm, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2004; “Bồi thường thiệt hại


3

ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng” của TS. Phùng Trung Tập, Nxb
Hà Nội năm 2009; “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Từ quy định
của pháp luật đến thực tiễn” của TS. Trần Thị Huệ, TS. Vũ Thị Hải Yến và ThS. Vũ
Thị Hồng Yến, Nxb Tư Pháp năm 2009; “Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Việt Nam - Bản án và bình luận bản án” (Xuất bản lần thứ hai) của PGS. TS Đỗ Văn
Đại, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh năm 2014.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí pháp lý như:

“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Vài nét về thực tiễn xét xử và
hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thanh Bình (Tạp chí Kiểm sát số
5/2003);“Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS. Phùng
Trung Tập (Tạp chí Tòa án nhân dân - Tòa án nhân dân tối cao số 10/2004); “Bàn về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” của TS. Lê
Đình Nghị (Tạp chí Nghề luật số 6/2008).
Ngoài ra, còn có Luận án Tiến sĩ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các
vụ tai nạn giao thông đường bộ” của Nguyễn Thanh Hồng năm 2001 và các Luận
văn Thạc sĩ: “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật dân sự” của Lê Mai Anh năm 1997; “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại từ hành vi xả thải trái phép gây ô nhiễm môi trường” của Ong Thị Ngân
năm 2011; “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành
niên gây ra theo pháp luật Việt Nam” của Ninh Thúy Ngọc năm 2015; “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”
của Nguyễn Tuấn An năm 2015.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng được các nhà luật học và học giả khai thác rất phong phú. Đi sâu tìm hiểu
về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài khóa luận
tốt nghiệp “Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” của Trần Thùy Dương năm 2012 chưa thấy có công trình nghiên cứu nào
khác. Như vậy, luận văn “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” sẽ là luận văn đầu tiên được nghiên
cứu chuyên sâu, đồng thời cũng trong thời điểm BLDS mới năm 2015 đã được thông


4

qua và sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/01/2017, góp phần làm giàu có thêm những kiến
thức pháp lý đối với chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề
lý luận và thực tiễn của BLDS năm 2005 hiện hành quy định về căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khái quát những vấn đề lý luận chung về
TNDS và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, về căn cứ phát sinh trách
nhiệm ngoài hợp đồng. Đặc biệt trọng tâm của luận văn là tập trung phân tích để làm
rõ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành
vi trái pháp luật gây ra và do tài sản gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự hiện
hành và các văn bản hướng dẫn thi hành. Để làm nổi bật hơn quy định của pháp luật
về vấn đề, tác giả có tìm hiểu và đề cập đến quy định của pháp luật một số quốc gia
phát triển khác trên thế giới như Nhật Bản, Cộng hòa Pháp và Thái Lan. Bên cạnh
đó, luận văn nhìn nhận quy định của pháp luật về căn cứ phát sinh TNDS ngoài hợp
đồng dưới góc độ thực tiễn, cho thấy những bất cập, tồn tại và vướng mắc khi áp
dụng quy định, qua đó xin đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định,
nâng cao hiệu quả áp dụng luật trong thực tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung quy
định của pháp luật hiện hành về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng; cho thấy những điểm vướng mắc chưa phù hợp và khó khăn
trong thực tiễn áp dụng chúng. Luận văn chỉ ra điểm mới tiến bộ của BLDS năm
2015 quy định về căn cứ phát sinh sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã khắc phục được hạn chế của quy định hiện nay và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này với mong muốn góp phần
nâng cao hiệu quả khi áp dụng và giải quyết, xét xử các vụ việc liên quan đến bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong thực tiễn.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Đưa ra khái niệm và làm rõ một số vấn đề lý luận về TNDS, trách nhiệm
ngoài hợp đồng và căn cứ phát sinh trách nhiệm ngoài hợp đồng;



5

+ Phân tích làm rõ quy định về các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2005 hiện hành, trong đó phân tích tách
biệt làm nổi bật căn cứ phát sinh TNDS do hành vi trái pháp luật gây ra và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra;
+ Nghiên cứu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về căn cứ
phát sinh TNDS do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại;
+ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật, những vướng mắc còn tồn tại, chỉ ra
những điểm mới hoàn thiện hơn trong quy định tại BLDS năm 2015 và đề xuất một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, trước những điểm chưa rõ trong quy
định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, luận văn
đã đưa ra nhiều câu hỏi, trong đó xin nêu một số ví dụ:
- Lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và trong trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng nói riêng là gì?
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người mà tài sản gây
thiệt hại hay một trong các đồng sở hữu sử dụng tài sản gây thiệt hại thì ta sẽ xác
định lỗi như thế nào, trách nhiệm bồi thường ra sao?...
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp một cách hợp lý các
phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp phân tích, phương pháp suy
diễn logic, phương pháp diễn giải, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh… để
làm sáng tỏ vấn đề về mặt lý luận. Đồng thời, tác giả cũng tìm hiểu và đưa ra một số
ví dụ làm sinh động và chứng minh thực tế cho những phân tích và đánh giá của luận
văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn phân tích tổng hợp làm sáng
tỏ mặt lý luận quy định của pháp luật hiện hành về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng một cách có hệ thống. Đồng thời chỉ ra những
điểm vướng mắc khi áp dụng quy định hiện hành trong thực tiễn. Đặt trong bối cảnh


6

giao thoa thời gian sắp hết hiệu lực của BLDS năm 2005 với thời điểm BLDS năm
2015 sắp có hiệu lực (ngày 01/01/2017), luận văn chỉ ra những điểm hạn chế, vướng
mắc của luật cũ so với quy định đã được khắc phục trong luật mới.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về trách nhiệm dân sự và căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Chương 2: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi trái pháp luật gây ra và do tài sản gây ra
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và một số kiến nghị


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
VÀ CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG

1.1. Khái niệm và phân loại trách nhiệm dân sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
“Trách nhiệm dân sự” là gì và TNDS có phải là trách nhiệm pháp lý hay

không? Để trả lời cho câu hỏi trên, ta sẽ đi tìm hiểu một số khái niệm, định nghĩa cụ
thể về “trách nhiệm”, “dân sự”, “trách nhiệm dân sự”, “trách nhiệm pháp lý” dưới
đây:
Theo Từ điển Tiếng Việt, “trách nhiệm” có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa thứ nhất, trách nhiệm được hiểu là “phần việc được giao cho hoặc coi như
được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu
phần hậu quả”; Nghĩa thứ hai, trách nhiệm là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi
của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả” [40].
Theo hai cách định nghĩa như trên thì nhận thấy trách nhiệm là việc phải làm theo
bổn phận của mình, mối quan hệ phát sinh giữa một hay nhiều chủ thể (gọi là người
có nghĩa vụ) phải làm một công việc, thực hiện một hành vi hoặc không được làm
một công việc, một hành vi vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (gọi là người
có quyền)… Về đối tượng của nghĩa vụ, đó có thể là tài sản, công việc phải làm hoặc
không được làm trong nghĩa vụ dân sự, các đối tượng này phải được chỉ định đích
xác để thuận lợi trong việc thực hiện và tránh xảy ra tranh chấp… Thông thường
nghĩa vụ luôn đi đôi với quyền nhưng trách nhiệm có một điểm khác biệt quan trọng,
đó là yếu tố hậu quả. Có thể thấy rằng, trách nhiệm mang hai nghĩa, cả tích cực và
tiêu cực. Về nghĩa tích cực, trách nhiệm là bổn phận, là điều phải làm.
“Dân sự” là việc có quan hệ đến dân, là việc thuộc về quan hệ tài sản hoặc
hôn nhân, gia đình.v.v.. do tòa án xét xử (nói khái quát) theo định nghĩa của Từ điển
Tiếng Việt. [39]


8

Khái niệm tiếp theo cần tiếp cận đó là“trách nhiệm pháp lý” là gì? Theo Từ
điển Luật học, trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể pháp luật phải gánh
chịu do pháp luật quy định vì hành vi vi phạm pháp luật của mình (hoặc của người
mà mình bảo lãnh hoặc giám hộ) [5]. Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với sự
cưỡng chế nhà nước, với việc áp dụng chế tài do pháp luật quy định. Định nghĩa về

trách nhiệm pháp lý trong giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật của trường Đại
học Luật Hà Nội như sau: “Trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi (sự
trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa
Nhà nước với các chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập
và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi,
những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật” [29].
Như vậy, có thể thấy điểm quan trọng đặc trưng của trách nhiệm pháp lý chính là
“hậu quả bất lợi” (là sự trừng phạt) hay có thể hiểu đó là những chế tài mà pháp luật
đặt ra nhằm thể hiện thái độ không chỉ là sự trừng phạt, răn đe mà còn giáo dục đối
với những hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là
trừng trị hành vi vi phạm mà bên cạnh đó còn là sự khôi phục lại tình trạng tương
ứng với phần hậu quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của
mình. Đặc điểm về hình thức của trách nhiệm pháp lý là chỉ tồn tại khi được quy
định trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành,
tức là chỉ Nhà nước có quyền xác định hành vi nào là vi phạm pháp luật và các chế
tài tương ứng với mỗi vi phạm đó.
BLDS năm 2005 hiện hành không có định nghĩa cụ thể thế nào là TNDS.
Theo Từ điển Luật học của Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý, “Trách nhiệm dân
sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm
pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại”
[4]. Định nghĩa trên cho thấy TNDS là loại trách nhiệm pháp lý chỉ được đặt ra khi
có sự vi phạm pháp luật dân sự (được hiểu theo nghĩa hẹp).
Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam (tập hai) do TS. Lê Đình Nghị chủ biên,
định nghĩa TNDS như sau: “Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, là
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng đối với người có nghĩa vụ khi họ
vi phạm trước người có quyền”. [16]


9


Bên cạnh đó, trong nghiên cứu khoa học pháp lý của Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số chuyên đề về BLDS năm 2005, TNDS còn được đưa ra với một cách
định nghĩa khác, theo đó: “TNDS (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng
chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi
phạm. TNDS (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp có tính cưỡng chế áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác, người gây ra
thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản
của mình (trong đó có bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng)”.
[6]
Dù định nghĩa bằng cách nào đi nữa thì TNDS vẫn được hiểu là một loại trách
nhiệm pháp lý. Vì vậy, nó mang những đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý nói
chung như: Là hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật, luôn đi kèm với chế tài là biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước, phải được quy định trong các văn bản pháp luật và
với tư cách là một TNDS, ngoài ra nó mang những nét đặc trưng riêng như sau:
- Căn cứ phát sinh TNDS là hành vi vi phạm pháp luật dân sự hoặc vi phạm
hợp đồng, đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
của người có nghĩa vụ dân sự;
- TNDS liên quan trực tiếp đến quan hệ tài sản. Lợi ích mà các bên hướng tới
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng mang tính chất tài sản. Do đó, TNDS
của người vi phạm bao giờ cũng là sự bù đắp cho bên bị thiệt hại những lợi ích vật
chất nhất định;
- Chủ thể chịu TNDS có thể là người vi phạm nhưng cũng có thể là người
khác như là người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên, pháp nhân, cơ quan, tổ
chức, v.v…;
- Hậu quả bất lợi mà người vi phạm phải chịu là việc bắt buộc phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và khắc phục những hậu quả vật chất
cho bên bị thiệt hại.
Khi một quan hệ nghĩa vụ dân sự được xác lập, về nguyên tắc thì người có nghĩa vụ
phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình trước người có quyền, hậu quả
pháp lý của hành vi vi phạm nghĩa vụ này chính là TNDS. Tóm lại, từ những định nghĩa nêu

trên và những đặc trưng pháp lý riêng, có thể hiểu TNDS là một loại trách nhiệm pháp lý,


10

là hậu quả pháp lý bất lợi áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật dân sự, buộc
chủ thể này phải khắc phục những tổn thất đã gây ra cho người bị thiệt hại thông qua
việc bồi thường cả về vật chất và tinh thần. Trong đó, trách nhiệm bồi thường về vật
chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được
thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí
ngăn chặn thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút. Bồi thường thiệt hại về tinh thần do
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín của người khác thì ngoài việc
chấm dứt hành vi vi phạm còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại. TNDS
bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi
thường thiệt hại, phạt vi phạm.
1.1.2. Phân loại trách nhiệm dân sự
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới,
thấy rằng pháp luật của một số quốc gia không có sự phân biệt rõ ràng về TNDS
trong hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Có thể kể đến pháp luật dân sự của Nhật
Bản, TNDS không được quy định phân loại cụ thể mà được chia ra hai trường hợp
chịu trách nhiệm là trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm do vi
phạm nghĩa vụ. Trong đó, trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ là trách nhiệm
do bên thực hiện chậm, thực hiện không đầy đủ và không thể thực hiện nghĩa vụ phải
gánh chịu. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm do
vi phạm là trách nhiệm phát sinh do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người
khác. Quy định của pháp luật dân sự Nhật Bản về trách nhiệm do vi phạm điều chỉnh
quan hệ giữa những chủ thể không có quan hệ hợp đồng, khi có những điều kiện nhất
định xảy ra làm phát sinh quan hệ bồi thường thì người gây thiệt hại có trách nhiệm
phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Có thể thấy, quy định của pháp luật dân sự
Nhật Bản về vấn đề TNDS có bản chất giống với TNDS ngoài hợp đồng theo quy

định của pháp luật nước ta.
Còn trong BLDS của Pháp thì chỉ quy định về bồi thường thiệt hại do không
thực hiện nghĩa vụ, theo đó người có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại nếu không
thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ, trừ khi chứng minh được rằng việc không
thực hiện nghĩa vụ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ là do một nguyên nhân khách quan
không thuộc trách nhiệm của mình mà không do ác ý.


11

Theo suốt lịch sử pháp luật Việt Nam từ thời cổ đại cho đến nay, thấy rằng
chế định TNDS và việc phân loại TNDS từ chưa được đề cập đến cho đến khi được
hình thành và sau này được quy định khá cụ thể. Trong bộ luật cổ Quốc triều Hình
luật, TNDS được áp dụng chung trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trong khế ước
hoặc vi phạm các nghĩa vụ khác ngoài khế ước. Các quy định này có liên quan đến
những yếu tố của TNDS như hành vi vi phạm, lỗi nhưng lại không có sự tách biệt
giữa trách nhiệm trong hay ngoài khế ước. Ví dụ, Điều 455 Quốc triều Hình luật quy
định cấm không được chứa chấp quân trộm cướp mà người chủ trang trại lại chứa
chấp thì ngoài việc bị phạt 500 quan tiền và tịch thu cả trang trại, người đó còn phải
bồi thường cả tang vật nếu có hay Điều 111 Hoàng Việt luật lệ quy định người giữ
kho thu thuế lương mà không đúng bằng dấu của quan thì bị phạt, số lượng dư ấy
được trả về cho chủ, quan lại biết mà không tố cáo thì đồng tội với người giữ kho,
không biết thì không có tội (thể hiện dấu hiệu lỗi). Qua các ví dụ trên, có thể nhận ra
các nhà làm luật thời kỳ phong kiến cũng chú trọng phân biệt lỗi cố ý và vô ý trong
việc gây thiệt hại để ấn định mức bồi thường, tuy nhiên không có sự phân định nghĩa
vụ theo khế ước hay ngoài kế ước.
Đến thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, TNDS cũng được Bộ Dân
luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật quy định, và đã được tách bạch ra khỏi
trách nhiệm hình sự, nhưng TNDS vẫn chỉ được tiếp cận một cách chung, khái quát,
chưa được phân định thành TNDS do vi phạm nghĩa vụ trong hay ngoài khế ước/hợp

đồng. Điều này thể hiện qua quy định sau của hai Bộ luật: Người nào làm bất cứ việc
gì gây thiệt hại cho người khác do lỗi của mình đều phải bồi thường thiệt hại (Điều
712 Bộ luật Bắc Kỳ và Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật).
Sau khi giải phóng đất nước, giành được độc lập dân tộc, với xu hướng pháp
luật xã hội chủ nghĩa, quy định của pháp luật dân sự nước ta đã có sự phân biệt rõ
ràng giữa TNDS trong hợp đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Từ đó đến nay, quy định
về TNDS nói chung và sự phân biệt TNDS trong hợp đồng, TNDS ngoài hợp đồng
nói riêng ngày càng cụ thể hơn, được áp dụng linh hoạt, hiệu quả trong thực tiễn đời
sống.
Theo quy định của BLDS Việt Nam năm 2005 hiện hành, dựa vào căn cứ làm
phát sinh nghĩa vụ, TNDS được phân thành hai loại là: Trách nhiệm do vi phạm hợp


12

đồng (hay còn gọi là TNDS do vi phạm nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận hoặc
trách nhiệm theo hợp đồng) và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(trách nhiệm ngoài hợp đồng). Đây là hai chế định quan trọng trong việc xác định
trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Hai loại TNDS này đều mang những
đặc điểm chung của TNDS và có không ít những nét riêng về bản chất cũng như nội
dung. Trước tiên, xin đề cập đến những nét tương đồng giữa hai loại TNDS này, đó
là:
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm là hành vi vi phạm pháp luật dân sự và chỉ áp
dụng với người thực hiện hành vi vi phạm đó;
- Tính chất của chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mang tính tài sản dành cho
người thực hiện hành vi vi phạm;
- Là một biện pháp cưỡng chế mang tính chất pháp lý, do đó được đảm bảo thi
hành bởi pháp luật và bộ máy cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh những điểm chung cơ bản nêu trên thì TNDS do vi phạm hợp đồng
và TNDS ngoài hợp đồng còn có những đặc tính riêng và sẽ được thể hiện thông qua

việc phân tích khái quát về hai chế định theo những tiêu chí dưới đây.
1.1.2.1. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
TNDS do vi phạm hợp đồng là TNDS phát sinh do không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng. Hay nói cách khác, nếu
nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết, thỏa thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm
nghĩa vụ đó thì sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng.
Về nguồn gốc phát sinh trách nhiệm: Khi hợp đồng được giao kết, các bên có
nghĩa vụ thực hiện đúng những cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu một bên
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ là vi phạm hợp đồng và phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. TNDS do vi phạm hợp đồng chỉ tồn tại khi
một hợp đồng tồn tại, trách nhiệm này chỉ phát sinh khi xuất hiện sự vi phạm một
hay nhiều nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Đặc điểm của loại trách nhiệm
này là giữa hai bên (bên có trách nhiệm và bên bị thiệt hại) có quan hệ hợp đồng và
thiệt hại phải do hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ trong hợp đồng gây ra. Các bên có thể thỏa thuận trước trong hợp đồng về


13

các biện pháp cưỡng chế, mức bồi thường, mức phạt hoặc các biện pháp bảo đảm
thực hiện việc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
Về căn cứ phát sinh trách nhiệm: Cơ sở phát sinh trách nhiệm do các bên trong quan
hệ hợp đồng thỏa thuận. Theo đó, các bên có thể đưa ra các điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm đầy đủ hoặc không đầy đủ những điều kiện làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do pháp luật quy định (có thiệt hại xảy ra, có
hành vi gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại, có lỗi).
Thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong việc xác định TNDS trong hợp
đồng, bởi chỉ cần có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã có thể phát sinh TNDS và khi xét
đến vấn đề thiệt hại trong hợp đồng, chỉ xét đến những tổn thất về mặt vật chất. Về
bản chất, các quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu là các quan hệ mang tính chất tài sản

và quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản. Ví dụ, các quan hệ hợp đồng mua bán,
tặng cho…. Tính chất tài sản trong TNDS do vi phạm hợp đồng dân sự thể hiện ở
việc khi chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu cho người khác thì Tòa án buộc
bên vi phạm phải bồi thường bằng chính tài sản của mình cho bên bị vi phạm.
Nguyên tắc của TNDS do vi phạm hợp đồng dân sự là nguyên tắc chịu trách nhiệm
bằng tài sản mà không có hình thức thay thế. Tính chất tài sản trong TNDS do vi
phạm hợp đồng dân sự thể hiện qua việc chủ thể bằng tài sản của mình bồi thường
tương ứng về giá trị thiệt hại do hành vi của chủ thể đó gây ra. Trách nhiệm bồi
thường bằng tài sản hoặc giá trị vật chất là bắt buộc và là một đặc điểm của pháp luật
dân sự. Đặc điểm này bảo đảm trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự luôn
luôn được giải quyết bằng tài sản và giúp phân biệt với trách nhiệm pháp lý khác mà
đặc điểm thực hiện hoặc áp dụng chế tài không mang tính chất tài sản.
BLDS năm 2005 quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh
thần tại Điều 307. Theo đó thấy rằng trách nhiệm bồi thường do tổn thất về tinh thần
chỉ áp dụng đối với các trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng “do xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín…”. Đối với trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng, chỉ xét đến những tổn thất về mặt vật chất và bồi thường thiệt
hại về vật chất. BLDS năm 2015 có nhiều quy định mới, rõ ràng hơn so với BLDS
năm 2005 về vấn đề thực hiện hợp đồng, trong đó xin kể đến quy định thiệt hại được


14

bồi thường do vi phạm hợp đồng tại Điều 419. Cụ thể, khoản 3 Điều 419 BLDS năm
2015 xác định người có nghĩa vụ do vi phạm hợp đồng có thể phải bồi thường thiệt
hại về tinh thần cho người có quyền và đây là điểm khác biệt so với BLDS năm 2005
hiện hành: “Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án
quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”.

Bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm dù đã có hay chưa có thiệt hại xảy ra
khi bên kia bị vi phạm hợp đồng. Bên cạnh đó, khi xem xét đến hành vi vi phạm thì
đối với TNDS trong hợp đồng, hành vi này là hành vi vi phạm những cam kết cụ thể,
những nghĩa vụ mà hai bên tự ràng buộc nhau trong hợp đồng, tức là hành vi này
chưa chắc đã vi phạm các quy định pháp luật chung mà chỉ vi phạm những quy định
được thỏa thuận, thiết lập giữa những người tham gia giao kết hợp đồng.
Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng mà không thể áp dụng
đối với người thứ ba. Hay nói cách khác, các chủ thể trong quan hệ hợp đồng không thể bắt
bất kỳ ai không tham gia hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không
được sự đồng ý của họ.
Về quan hệ giữa nghĩa vụ và trách nhiệm: Trong bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng, thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm xác định trách nhiệm là khác nhau. Thời
điểm xác định nghĩa vụ là lúc các bên giao kết hợp đồng, thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khi một bên vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng mà gây thiệt hại. Thiệt hại là
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Về phương thức thực hiện trách nhiệm: Các bên có thể thỏa thuận mức bồi
thường hay phạt vi phạm kể từ khi giao kết hợp đồng (thể hiện bản chất thỏa thuận
của hợp đồng). Trong quan hệ hợp đồng, các bên thỏa thuận và đưa ra điều khoản
quy định về mức bồi thường thiệt hại. Pháp luật dân sự nước ta tôn trọng sự thỏa
thuận của các bên tuy nhiên mức bồi thường phải dựa trên nguyên tắc nhất định là
thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. Luật dân sự hiện hành không có quy
định cụ thể về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nhưng theo quy định
tại khoản 2 Điều 307 BLDS năm 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực


15

tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm….” thấy rằng mục đích của

bồi thường là bù đắp tổn thất thiệt hại xẩy ra trên thực tế do đó mức bồi thường cũng
tương ứng với thiệt hại thực tế xẩy ra. Nếu các bên không thể thỏa thuận được mức
bồi thường thì yêu cầu Tòa án giải quyết dựa trên nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì
bồi thường bấy nhiêu. Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các
bên hoặc theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng chỉ giới hạn trong phạm vi những thiệt hại thực tế và những thiệt hại đó có thể
tiên liệu được vào thời điểm ký hợp đồng.
Trách nhiệm thực hiện phạt vi phạm khi có thỏa thuận được quy định tại Điều
422 BLDS năm 2005, theo đó “mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận” (khoản 2).
Khoản 3 Điều 422 BLDS quy định về thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi
phạm như sau: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải
nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi
phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi
thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên
không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp
tiền phạt vi phạm”. Các bên trong quan hệ hợp đồng có thể dự liệu và thỏa thuận
trước về những trường hợp thiệt hại do vi phạm hợp đồng và cách thức chịu trách
nhiệm như bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm.
Về yếu tố lỗi, TNDS trong hợp đồng phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong TNDS do vi phạm hợp đồng, chủ thể
không liên quan đến quan hệ hợp đồng nếu chứng minh được là có lỗi thì vẫn phát
sinh trách nhiệm bồi thường. Trong TNDS do vi phạm hợp đồng, việc thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại không làm giải phóng người có nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ một cách thực tế (TNDS do không thực hiện nghĩa vụ giao vật - Điều 303
BLDS năm 2005). TNDS do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không được
thực hiện một công việc (Điều 304 BLDS năm 2005). Trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng, đối với trường hợp không thực hiện nghĩa vụ giao vật, Điều 303
BLDS năm 2005 quy định:
“1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có



16

quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc
bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật.
2. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải
thanh toán giá trị của vật.
3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì ngoài việc thanh toán
giá trị của vật còn phải bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.”
Như vậy, trong trường hợp người có nghĩa vụ giao vật mà không thực hiện việc giao
vật theo đúng như pháp luật quy định mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì ngoài việc phải
bồi thường thiệt hại cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ còn phải thanh toán giá trị của vật
cho bên có quyền.
TNDS trong hợp đồng có thể do các bên thỏa thuận trên cơ sở hợp đồng (Điều
435 BLDS năm 2005 - Trách nhiệm giao vật không đúng số lượng; Điều 436 - Trách
nhiệm giao vật không đồng bộ; Điều 474 - Nghĩa vụ trả nợ của bên vay…). Tùy
thuộc vào thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mà bên vi phạm có phải thực hiện
trách nhiệm bồi thường hay không và cách thức thực hiện việc bồi thường như thế
nào cũng sẽ theo sự thỏa thuận đó để được thực hiện.
Ví dụ: A giao kết hợp đồng với B mua 1 tấn cá hồi nhập khẩu từ Nhật Bản
nhưng đến thời điểm giao hàng, B chỉ giao cho A 800 Kg tấn cá hồi đúng loại Nhật
Bản, còn lại 200 Kg cá hồi không đúng loại. Tùy thuộc vào thỏa thuận trong hợp
đồng giữa A và B mà A có thể lựa chọn hình thức: Nhận 800 Kg tấn cá hồi đúng loại
đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với 200 Kg cá hồi không đúng loại hoặc
nhận phần đã giao đúng loại và định thời hạn để B giao tiếp phần đúng loại còn thiếu
hoặc hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với toàn bộ đơn hàng.
1.1.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là TNDS, theo đó người
có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy
tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt
hại cho người bị thiệt hại. Hay nói cách khác, nếu pháp luật quy định về nghĩa vụ mà


17

có người vi phạm thì phải chịu trách nhiệm và trách nhiệm đó được coi là trách
nhiệm ngoài hợp đồng.
Về nguồn gốc phát sinh trách nhiệm: TNDS ngoài hợp đồng là trách nhiệm
pháp lý phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy
các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra không liên quan đến việc thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi chỉ tồn tại một hành vi vi phạm
pháp luật dân sự với lỗi cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này
không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại. Nó là trách nhiệm pháp lý bắt buộc phải thực hiện, phát sinh dưới tác động
trực tiếp của các quy phạm pháp luật, không có sự thỏa thuận trước của các chủ thể.
Các bên chỉ có thể thỏa thuận sau khi đã phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
như: Thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường…
Về căn cứ xác định trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Đó là bốn điều
kiện: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật và có lỗi. Trong nhiều
trường hợp, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vẫn phát sinh mà không cần đến yếu
tố lỗi, pháp luật quy định cụ thể về trường hợp đó. Thiệt hại, bao gồm thiệt hại về vật
chất và tinh thần, không chỉ là nền tảng cơ bản mà còn là điều kiện bắt buộc của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong TNDS ngoài hợp đồng, hành

vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm những quy định chung của pháp luật do Nhà nước
ban hành thuộc mọi lĩnh vực, vi phạm pháp luật dân sự hoặc hình sự, hành chính,
kinh tế… bởi căn cứ xác định trách nhiệm là hành vi vi phạm pháp luật và gây ra
thiệt hại.
Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại. Bên cạnh đó,
trách nhiệm này còn áp dụng đối với người khác là người chịu trách nhiệm thay cho
người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại, đó là cha, mẹ của người chưa thành niên;
người giám hộ đối với người được giám hộ; pháp nhân đối với người của pháp nhân;
trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề… đối với người mình quản lý.


18

Về quan hệ giữa nghĩa vụ và trách nhiệm: Đối với TNDS ngoài hợp đồng,
thời điểm xác định nghĩa vụ và phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại dường như
xuất hiện đồng thời. Thiệt hại đồng thời là điều kiện của nghĩa vụ và trách nhiệm.
Về phương thức thực hiện trách nhiệm: Các bên trong quan hệ TNDS ngoài
hợp đồng không biết nhau và không biết trước sự việc sẽ xảy ra làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường, do đó không thể thỏa thuận trước bất cứ một việc gì liên quan đến
phương thức, mức độ bồi thường. Việc thực hiện trách nhiệm bồi thường được các
bên thỏa thuận sau khi có đầy đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm. Các bên có
thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với TNDS ngoài hợp đồng thì bên gây
thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián
tiếp.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định bắt
buộc phải thực hiện. Khi có đầy đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm thì bên gây
thiệt hại phải thực hiện việc bồi thường, nếu không sẽ bị xử lý bởi các biện pháp chế

tài theo quy định.
Yếu tố lỗi: Trong TNDS ngoài hợp đồng, việc phân biệt lỗi cố ý và vô ý cũng
có ý nghĩa nhưng bên cạnh đó thì người có hành vi vi phạm có thể phải chịu trách
nhiệm ngay cả khi không có lỗi trong trường hợp pháp luật quy định: “Trong trường
hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp
không có lỗi thì áp dụng quy định đó” (khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005). Người
có hành vi vi phạm có thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có
lỗi nếu pháp luật quy định. Ví dụ: trong trường hợp thiệt hại do súc vật, vật nuôi gây
ra, người chủ sở hữu và người trông coi chỉ không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại
cho mình. Do chủ sở hữu đã bàn giao quyền trông coi cho người trông coi nhưng chủ
sở hữu là người được hưởng lợi ích từ việc nuôi con vật đó nên suy đoán trách nhiệm
bồi thường thiệt hại thuộc về họ.
Về thời điểm xác định trách nhiệm: Một trong những nội dung quan trọng để
có thể xác định được đúng mức bồi thường thiệt hại của bên vi phạm là xác định thời


×