Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hiệu lực pháp luật của di chúc một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.58 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI THỊ PHƯƠNG TÚ

HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA DI CHÚC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Tuyết

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Phạm Văn Tuyết. Trong quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn thạc sĩ này em có tham khảo một số
sách, bài viết, chuyên đề, các tài liệu của các tác giả khác, các nguồn trích dẫn,
tham khảo đã được chỉ ra trong danh mục tài liệu tham khảo. Các số liệu, trích
dẫn và ví dụ trong luận văn hoàn toàn có cơ sở, đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Một lần nữa, em xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA
DI CHÚC ....................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm ............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm di chúc ........................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm hiệu lực pháp luật của di chúc ....................................... 8
1.2. Lược sử pháp luật Việt Nam về hiệu lực pháp luật của di chúc .......... 11
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945............................................................ 11
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980 .......................................... 12
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay…………….……………………......13
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA
DI CHÚC ..................................................................................................... 16
2.1. Điều kiện hợp pháp của di chúc .......................................................... 16
2.1.1. Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự. ..................... 16
2.1.2. Ý chí của của chủ thể lập di chúc ................................................. 18
2.1.3. Nội dung của di chúc .................................................................... 19
2.1.4. Hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật. ...... 23
2.2. Thời điểm có hiệu lực của di chúc ...................................................... 31
2.3. Di chúc vô hiệu và di chúc không có hiệu lực pháp luật ..................... 34
2.3.1. Di chúc vô hiệu............................................................................. 34
2.3.2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật ............................................ 52
Chương 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HIỆU LỰC PHÁP
LUẬT CỦA DI CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA DI CHÚC .. 65
3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp về hiệu lực pháp luật của di chúc .... 65
3.1.1. Di chúc bị vô hiệu toàn bộ do năng lực hành vi của người để lại di
chúc........................................................................................................ 65



3.1.2. Tranh chấp thừa kế do xác định không đúng thời điểm có hiệu lực
của di chúc ............................................................................................. 69
3.1.3. Di chúc bị vô hiệu một phần do định đoạt tài sản của người khác 71
3.1.4. Tranh chấp xác định hiệu lực di chúc sau cùng ............................. 74
3.2. Hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về hiệu lực pháp luật của di
chúc........................................................................................................... 78
3.2.1. Hiệu lực di chúc do người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi lập ............................................................................................ 78
3.2.2. Hiệu lực của di chúc đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự ........................................................................................................... 80
3.2.3. Di chúc vô hiệu do người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt 81
3.2.4. Hiệu lực của di chúc có người làm chứng..................................... 82
3.2.5. Hiệu lực của di chúc có công chứng hoặc chứng thực .................. 82
3.2.6. Di chúc không có hiệu lực pháp luật do hủy bỏ di chúc ................ 83
3.2.7. Di chúc không có hiệu lực pháp luật do người thừa kế theo di chúc
không được quyền hưởng di sản ............................................................. 83
3.2.8. Di chúc không có hiệu lực pháp luật do cơ quan, tổ chức được chỉ
định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.................... 84
KẾT LUẬN.................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……..……………………………...88


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa kế theo di chúc là một vấn đề đã xuất hiện từ lâu trong đời sống xã
hội. Về mặt pháp lý, thừa kế theo di chúc được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật qua các thời kỳ khác nhau. Dưới chế độ phong kiến, các quy định về

thừa kế chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, vì thế việc thừa kế
trong giai đoạn này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa
bên nội, bên ngoại,... Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đến
nay, vấn đề thừa kế theo di chúc được quy định trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, phù hợp đối với tình hình xã hội trong từng thời kỳ. Trong số các
loại văn bản này, đáng chú ý là Thông tư số 81-TATC ngày 24-7-1981 của
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết tranh chấp thừa kế (đúc kết từ
thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân) và Pháp lệnh Thừa kế ngày 109-1990. Tuy nhiên, chỉ đến khi Bộ luật Dân sự 1995 ra đời thì vấn đề thừa kế
nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng mới được quy định cụ thể.
Nhằm kịp thời đáp ứng những thay đổi nhanh chóng trong các quan hệ
dân sự, Bộ luật Dân sự 2005 ra đời với những quy định cụ thể về thừa kế theo
di chúc trong đó có hiệu lực pháp luật của di chúc. Tuy nhiên, hệ thống quy
định về hiệu lực pháp luật theo Bộ luật Dân sự 2005 hiện hành vẫn còn nhiều
vướng mắc. Một số quy định còn mang tính chung chung, chưa cụ thể dẫn
đến cách hiểu không thống nhất về thời điểm có hiệu lực của di chúc, mức độ
có hiệu lực của di chúc. Chính vì vậy, quyền lợi của các chủ thể thừa kế theo
di chúc chưa được bảo vệ, đặc biệt là khi di chúc bị tuyên bố vô hiệu. Bộ luật
Dân sự 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 đã có những điều chỉnh các quy định
về hiệu lực pháp luật của di chúc. Những điều chỉnh này của Bộ luật Dân sự
năm 2015 nhằm giải quyết một số bất cập trong quy định hiện hành về hiệu
lực pháp luật của di chúc. Tuy nhiên, liệu những quy định này đã giải quyết


2

được hết những bất cập trong quy định hiện hành hay chưa là vấn đề cần được
nghiên cứu kỹ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, học viên lựa chọn

nghiên cứu đề tài "Hiệu lực pháp luật của di chúc – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn" làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về vấn đề thừa kế theo di chúc ở Việt Nam cho đến nay đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung và thừa kế theo di
chúc nói riêng, trong đó:
- Luận văn, luận án:
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như Luận án tiến sĩ của tác giả
Phạm Văn Tuyết với nhan đề "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật
Dân sự Việt Nam”. Với đề tài này, tác giả đã nghiên cứu, hệ thống hóa các
quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc để từ đó đánh giá nội dung những
quy định về thừa kế theo di chúc, chỉ ra những bất cập và đưa ra nhưng giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo di chúc. Luận án tiến sĩ với
nhan đề "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến
nay" đã được tác giả Phùng Trung Tập bảo vệ thành công năm 2002 đã hệ
thống hóa các quy định về thừa kế theo pháp luật từ đó đánh giá nội dung về
thừa kế theo pháp luật. Luận án tiến sĩ luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn
của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự" của Nguyễn
Minh Tuấn đã luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy định về
thừa kế của Việt Nam qua các thời kỳ phát triển... Tuy nhiên, những đề tài
trên đều có phạm vi nghiên cứu rất rộng, mang tính khái quát cao.
- Sách giáo trình, sách chuyên khảo:
Vấn đề thừa kế theo di chúc được nhiều tác giả để cập trong sách giáo
trình, chuyên khảo, tiêu biểu phải kể đến cuốn sách chuyên khảo “Pháp luật
về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của PGS.TS Phạm Văn Tuyết,
NXB Tư pháp, 2013; cuốn "Luật Thừa kế Việt Nam" của PGS.TS Phùng


3


Trung Tập, Nxb Hà Nội, 2008 và cuốn "Pháp luật thừa kế của Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Tiễn sỹ Nguyễn Minh Tuấn được xuất
bản năm 2009...
- Các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật:
Các bài báo, tạp chí tiêu biểu có thể kể đến: "Hoàn thiện quy định về
thừa kế trong Bộ luật Dân sự", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật
học, số Đặc san về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, tháng 11/2003); "Di chúc
và vấn đề hiệu lực của di chúc", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật
học, số 6/1995; "Di sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di
sản thừa kế", củaTiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Luật học, số 11/2007;…
Trên đây là những công trình lớn có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến những vấn đề
mang tính khái quát chung về chế định thừa kế trong đó có thừa kế theo di
chúc mà chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về hiệu lực pháp luật
của di chúc. Việc nghiên cứu về hiệu lực pháp luật của di chúc có ý nghĩa
quan trọng trong việc đảm bảo di chúc được thực thi trên thực tế và giải quyết
tranh chấp phát sinh về thừa kế theo di chúc. Trên cơ sở kế thừa các công
trình nghiên cứu trên đây, luận văn sẽ đi sâu phân tích hiệu lực pháp luật của
di chúc theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ ra những điểm bất cập và
đưa ra một số giải pháp hoàn thiện.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ các quy định về hiệu lực pháp luật
của di chúc và vấn đề áp dụng các quy định hiện hành về hiệu lực pháp luật
của di chúc trên thực tiễn.
 Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tôi tập trung vào:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hiệu lực pháp luật của di
chúc trong pháp luật dân sự Việt Nam;



4

- Nghiên cứu các quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc trong pháp
luật dân sự hiện hành như: Điều kiện có hiệu lực của di chúc; mức độ có hiệu
lực của di chúc đồng thời có sự so sánh với quy định của Bộ luật Dân sự
2015.
- Nghiên cứu về thực trạng pháp luật về hiệu lực pháp luật của di chúc từ
đó phát hiện những thiết sót, bất cập của luật thực định để kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên
cứu và làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về hiệu lực pháp luật của
di chúc, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp liên
quan đến hiệu lực pháp luật của di chúc qua đó nhằm tìm ra những bất cập
của pháp luật cũng như những vướng mắc của luật thực định đề xuất phương
hướng, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện các quy định về vấn đề này trong
pháp luật dân sự Việt Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Với những mục tiêu trên, luận văn hướng tới giải quyết các câu hỏi sau:
- Thế nào là di chúc? Đặc điểm, bản chất của di chúc? Thế nào hiệu lực
pháp luật của di chúc?
- Pháp luật dân sự điều chỉnh vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc như
thế nào?
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hiệu lực pháp luật của di chúc diễn
ra như thế nào?
- Pháp luật về hiệu lực pháp luật của di chúc còn những bất cập gì và
hướng giải quyết trong thời gian tới về vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận

văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ


5

nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, những phương pháp khoa học khác như:
so sánh, phân tích, tổng hợp,... cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề
mà đề tài đã đặt ra.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu những công trình nghiên cứu trước đó và qua quá
trình nghiên cứu, làm rõ các vấn đề xung quanh hiệu lực pháp luật của di chúc.
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hiệu lực pháp luật của di chúc như:
Khái niệm hiệu lực pháp luật của di chúc, hệ thống hóa và phân tích các điều
kiện có hiệu lực của di chúc.
- Phân tích và làm rõ một số quy định của pháp luật về thời điểm có hiệu
lực của di chúc, di chúc vô hiệu và di chúc không có hiệu lực pháp luật đồng
thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định hiện hành về hiệu lực pháp
luật của di chúc.
- Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật các quy định về hiệu
lực pháp luật của di chúc của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án có
liên quan đến vấn đề này.
- Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy
định về hiệu lực pháp luật của di chúc.
8. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hiệu lực pháp luật của di chúc.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hiệu lực pháp luật của di chúc.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hiệu lực pháp luật của di
chúc và phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về hiệu lực pháp

luật của di chúc.


6

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA
DI CHÚC
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm di chúc
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Di chúc là sự dặn lại của một người trước
lúc chết với những người khác về những việc cần làm, nên làm”.
Theo cách hiểu thông thường, di chúc là lời dặn dò của một người trước
khi chết để lại cho con cháu, có thể là lời dặn con cháu yêu thương nhau hay
dặn con cháu làm một việc gì đó hoặc thể hiện ý nguyện của một người trước
khi chết, ý nguyện về thờ cúng tổ tiên, ý nguyện về việc chia tài sản… Tuy
nhiên, di chúc nói trên không có ý nghĩa đối với việc thừa kế di sản mà người
đó để lại, vì di chúc đó không thể hiện được ý chí của người chết trong việc
dịch chuyển di sản. Vì vậy, bên cạnh cách hiểu thông thường, khái niệm di
chúc cần được luật hóa để đảm bảo đúng bản chất là sự dịch chuyển tài sản từ
người đó cho những người còn sống.
Điều 646 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết".
Di chúc phải là ý chí của cá nhân còn sống tự nguyện lập ra. Vì vậy,
pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình không phải là chủ thể xác lập di chúc.
Người lập di chúc dựa vào ý chí cá nhân chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho người còn sống khác, sau khi người lập di chúc chết. Xét về
tính chất của giao dịch dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương, hoàn
toàn độc lập, tự định đoạt ý chí của cá nhân người lập di chúc do vậy di chúc
là giao dịch dân sự một bên. Di chúc theo quy định của pháp luật dân sự phải

nhằm dịch chuyển tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người
lập di chúc chết. Việc chuyển tài sản có thể được hiểu là chuyển theo nghĩa
vật lý tức là chuyển tài sản từ người này sang người khác mà không chuyển
quyền sở hữu. Tuy nhiên, đối với di chúc thì việc chuyển tài sản được hiểu là


7

chuyển quyền sở hữu sang cho người khác. Theo khoản 5 Điều 170 Bộ luật
Dân sự 2005: “Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong trường hợp
được thừa kế”. Người được hưởng thừa kế theo di chúc chỉ có quyền nhận tài
sản của người lập di chúc kể từ khi người lập di chúc chết. Việc người thừa kế
theo di chúc nhận di sản là căn cứ xác lập quyền sở hữu di sản của người thừa
kế.
- Đặc điểm của di chúc
Thứ nhất, di chúc là ý chí đơn phương của cá nhân
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nên nó được hình thành duy nhất
bằng ý chí đơn phương của người để lại thừa kế (một bên chủ thể trong giao
dịch dân sự về thừa kế). Người lập di chúc có quyền tự định đoạt tài sản của
mình cho người thừa kế sau khi chết mà không phụ thuộc vào người khác.
Qua việc lập di chúc, cá nhân thể hiện ý chí muốn xác lập một giao dịch dân
sự về thừa kế. Theo đó, họ quyết định chuyển giao một phần hoặc toàn bộ tài
sản của mình cho người đã được họ xác định trong di chúc mà không cần biết
người đó có nhận di sản của mình hay không.
Thứ hai, mục đích của di chúc nhằm chuyển dịch di sản của người chết
cho những người khác đã được xác định trong di chúc.
Mục đích của việc lập di chúc là nội dung quan trọng không thể thiếu
của một di chúc nếu muốn được coi là căn cứ để dịch chuyển tài sản từ người
chết sang những người khác. Thông thường, một người chỉ lập di chúc trong
trường hợp họ có một khối tài sản trước khi chết và bằng ý chí của mình để

định đoạt cho ai. Mặt khác, cho dù trước lúc chết, người đó có khối tài sản và
cũng để lại di chúc nhưng nếu di chúc không chứa đựng nội dung này thì
cũng không làm phát sinh việc thừa kế theo di chúc. Trên thực tế xảy ra
những trường hợp, một người trước khi chết dặn dò con cháu đoàn kết, yêu
thương nhau,… thì trường hợp này không được coi là di chúc bởi không có sự
định đoạt nhằm dịch chuyển di sản từ người lập di chúc sang người khác sau
khi chết. Như vậy, di chúc chỉ đem lại ý nghĩa về mặt vật chất cho những


8

người thừa kế đồng thời chỉ thật sự là một phương tiện để người lập di chúc
thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình chừng nào di chúc chứa
đựng nội dung trên.
Thứ ba, di chúc là loại giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi chính người
xác lập ra di chúc chết.
Nếu như các giao dịch dân sự khác như hợp đồng dân sự có hiệu lực từ
thời điểm giao kết (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy
định khác) thì thời điểm có hiệu lực của di chúc phụ thuộc vào thời điểm
người lập đi chúc chết. Khoản 1 Điều 667 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Di
chúc có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Di chúc là ý chí đơn phương của người lập ra nên người lập di chúc luôn
có quyền tự mình thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hoặc hủy bỏ di
chúc đã lập. Dù di chúc đã được lập ra nhưng khi người lập di chúc còn sống
thì không có bất kỳ sự ràng buộc nào giữa họ và người được chỉ định trong di
chúc. Quyền tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc và người được chỉ định
trong di chúc không có bất kỳ quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc
và họ cũng không chắc chắn có quyền hưởng di sản. Sau khi người lập di
chúc chết, người được chỉ định trong di chúc trở thành người thừa kế theo di
chúc thì họ mới có quyền bày tỏ ý chí trong việc nhận hay không nhận di sản

thừa kế.
1.1.2. Khái niệm hiệu lực pháp luật của di chúc
Hiệu lực của di chúc có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình dịch
chuyển di sản từ người để lại di sản cho những người thừa kế. Trước hết, vấn
đề di chúc có hiệu lực hay không sẽ quyết định việc phân chia di sản theo di
chúc hay phân chia di sản theo pháp luật. Vấn đề này ảnh hưởng to lớn, sâu
sắc tới quyền lợi của những người thừa kế.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì hiệu lực được hiểu một cách đơn giản là
công dụng, hiệu quả. Như vậy, di chúc có hiệu lực là di chúc có khả năng
thực hiện được trên thực tế.


9

Dưới góc độ pháp lý, theo Từ điển Luật học: “Hiệu lực của di chúc là
giá trị bắt buộc phải thi hành, tuân theo di chúc”. Tuy ngắn gọn, nhưng định
nghĩa này cũng đã phần nào phản ánh được bản chất của khái niệm hiệu lực
của di chúc.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, quy định về hiệu lực
pháp luật của di chúc luôn được các nhà làm luật chú trọng. Tuy nhiên, khái
niệm hiệu lực pháp luật của di chúc thì chưa có văn bản pháp luật quy định cụ
thể. Mặc dù chưa có khái niệm về hiệu lực pháp luật của di chúc nhưng Bộ luật
Dân sự 2005 đã có nhiều quy định về vấn đề này, cụ thể như sau:
Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm thừa kế. Chỉ có di chúc hợp pháp mới
có hiệu lực pháp luật. Di chúc hợp pháp tức là phải đáp ứng được đầy đủ các
điều kiện mà pháp luật đã quy định. Trước hết với tư cách là một giao dịch dân
sự nên di chúc muốn được coi là hợp pháp phải đáp ứng đủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Mặc khác, di chúc là loại giao dịch đặc biệt, đồng thời chỉ có hiệu lực
khi người lập ra nó đã chết nên việc lập di chúc không thể thực hiện bằng
cách ủy quyền cho người khác thay mình lập di chúc. Do đó, di chúc hợp
pháp là di chúc đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Điều 652 Bộ
luật Dân sự 2005:
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không
bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di
chúc không trái quy định của pháp luật.


10

Căn cứ vào những điều kiện trên, có thể hiểu: “Di chúc hợp pháp là di
chúc có hiệu lực pháp lý, thể hiện ý chí của người lập di chúc mà khi xác lập
đảm bảo tất cả những điều kiện theo luật định”.
Đối với giao dịch nói chung thì tính hợp pháp đồng nghĩa với tính có
hiệu lực. Tuy nhiên, đối với di chúc thì tính hợp pháp không đồng nghĩa với
tính có hiệu lực bởi có những di chúc hợp pháp đã đáp ứng đầy đủ các điều
kiện luật định nhưng vẫn không có hiệu lực vì những nguyên nhân khác. Di
chúc không có hiệu lực có thể xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (do sự thay
đổi ý chí của người lập di chúc) hoặc từ những nguyên nhân khách quan.
+ Do người lập di chúc thay đổi ý chí
Khoản 2 Điều 662 Bộ luật Dân sự 2005 quy định người lập di chúc có
thể hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào. Trong trường hợp này thì di chúc bị hủy bỏ
sẽ không có hiệu lực pháp luật.

+ Do nguyên nhân khách quan
- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc;
- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời
điểm mở thừa kế;
- Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa
kế không còn vào thời điểm mở thừa kế;
- Di chúc bị thay thế bằng một di chúc hợp pháp khác. Khi một người để
lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có
hiệu lực pháp luật;
- Người thừa kế theo di chúc từ chối quyền hưởng di sản;
- Người thừa kế theo di chúc bị tước quyền hưởng di sản theo quy định
của pháp luật.
Có thể nói, hiệu lực pháp luật của di chúc được BLDS 2005 quy định rất
cụ thể nhưng chưa đưa ra khái niệm thể hiện đầy đủ bản chất hiệu lực pháp luật
của di chúc – đó là giá trị pháp lý ràng buộc các bên, mà chủ yếu để xác định


11

thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc, điều kiện hợp pháp của di chúc và các
trường hợp ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc.
Trên cơ sở nghiên cứu khía cạnh pháp lý và từ điển về hiệu lực pháp luật
của di chúc có thể đưa ra khái niệm hiệu lực pháp luật của di chúc như sau:
“Hiệu lực pháp luật của di chúc giá trị bắt buộc thi hành trên thực tế theo
đúng nội dung của di chúc và phù hợp với các quy định của pháp luật”.
Khi bàn về hiệu lực của hợp đồng, người ta thường nhìn nhận hiệu lực
hợp đồng ở nhiều khía cạnh: điều kiện có hiệu lực của di chúc, thời điểm có
hiệu lực của di chúc, mức độ hiệu lực của di chúc. Các nội dung này sẽ lần
lượt được trình bày trong luận văn.

1.2. Lược sử pháp luật Việt Nam về hiệu lực pháp luật của di chúc
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua nhiều thế kỉ. Mỗi nhà nước
phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục
vụ cho công việc quản lý đất nước. Các bộ cổ luật của Việt Nam đã có những
quy định cụ thể về thừa kế. Trong đó tiêu biểu phải kể đến: Bộ luật Hồng Đức
(1483), Bộ luật Gia Long (1815). Ngoài các bộ luật, nhà nước phong kiến còn
ban hành nhiều văn đơn hành như chiếu, chỉ dụ, lệnh của vua…
Trong Bộ luật Hồng Đức có quy định các con (con trai, con gái, con
nuôi) đầu có quyền thừa kế của cha, mẹ. Đồng thời, Bộ luật cũng có quy định
tôn trọng quyền định đoạt của người có tài sản.
Điều 388 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Cha mẹ mất cả, có ruộng đất,
chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20
số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì chia
nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ
và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình”. Điều 390 Bộ luật
Hồng Đức quy định: “Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc
thư…”. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức đã có quy định về quyền lập chúc thư,
đặc biệt là những người cao tuổi. Đồng thời, Bộ luật còn quy định cụ thể về


12

hình thức lập chúc thư tại Điều 366: “Những người làm chúc thư, văn khế mà
không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phảo phạt 80
trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị.
Nếu biết chữ mà viết lấy thì được”. Trong trường hợp chúc thư không tuân
thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý lúc đó di
sản thừa kế được chia theo pháp luật.
So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thể là trong bộ Hoàng Việt Luật Lệ

có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên những nguyên tắc về quan
hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như Bộ luật Hồng Đức dưới thời
nhà Lê. Tuy nhiên, Bộ luật Gia Long không thừa nhận quyền thừa kế của con
gái mà chú trọng đến quyền lợi của con trai. Vấn đề thừa kế theo di chúc được
quy định tại Điều 388: “Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ phải theo đúng, vi
phạm điều này sẽ mất phần của mình”.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980
Sau Cách mạng tháng Tám Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Một Nhà nước non trẻ đã phải đối mặt với những vấn đề phức tạp về chính trị,
văn hóa, xã hội… Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước lúc này là phải bảo vệ
củng cố thành quả cách mạng, kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân
sự. Để đảm bảo cho các quan hệ xã hội về dân sự phát triển bình thường, Nhà
nước cần phải có hệ thống pháp luật. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký Sắc lệnh 97/SL về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong luật dân
luật, quy định một số nguyên tắc mới để áp dụng trong điều kiện của nền dân
chủ nước ta. Về lĩnh vực thừa kế đã quy định vợ, chồng có quyền thừa kế tài
sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha, mẹ;
chồng góa, vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin chia di sản; con, cháu
hoặc vợ góa, chồng góa không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đã chết;
các chủ nợ của người đã chết không có quyền đòi người thừa kế phải thanh
toán nợ quá phần di sản mà người đó nhận được.


13

Hiến pháp năm 1959 ra đời là một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập
pháp Việt Nam. Quyền thừa kế được Hiến pháp ghi nhận tại Điều 19: “Nhà
nước chiếu theo pháp luật, bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”.
Trên cơ sở đó, ngày 29/12/1959, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Luật
Hôn nhân và gia đình, có hiệu thực thi hành từ ngày 13/1/1960. Luật Hôn

nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Các con đều có quyền lợi và nghĩa vụ
ngang nhau trong gia đình và trong việc hưởng thừa kế, không phân biệt con
trai, con gái, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi”.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử trong phạm vi chức năng do
Luật tổ chức tòa án quy định. Tòa án nhân dân tối cao ra nhiều thông tư
hướng dẫn. Thông tư số 549/NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét
xử các việc tranh chấp về thừa kế; Thông tư số 02/TATC ngày 02/8/1973
hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản liệt sĩ…
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay
Hiến pháp năm 1980 ghi nhận: “Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản
của công dân” (Điều 27). Để phục vụ cho công tác xét xử tranh chấp về thừa
kế đồng thời bổ sung một số điểm cho phù hợp với Hiến pháp mới, qua tổng
kết rút kinh nghiệm công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Thông tư 81 ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế.
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc tuy không được quy định cụ thể nhưng
đã đề cập đến một số điều kiện để di chúc có giá trị thi hành. Theo đó, di chúc
viết phải do người có năng lực hành vi dân sự tự nguyện lập ra. Di chúc phải
đáp ứng các yêu cầu về hình thức của di chúc. Nội dung của di chúc phải phù
hợp với chính sách và pháp luật. Thông tư số 81 là văn bản tương đối hoàn
chỉnh về các quy phạm pháp luật liên quan đến quyền thừa kế nói chung và
hiệu lực pháp luật của di chúc nói chung, là cơ sở cho các văn bản pháp luật
về sau quy định chi tiết về hiệu lực pháp luật của di chúc.
Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua pháp lệnh thừa kế. Đây là văn bản pháp luật có hệ thống và


14

có giá trị pháp lý cao nhất về thừa kế kể từ ngày lập nước. Pháp lệnh Thừa kế
gồm 38 điều, được chia làm 6 chương, trong đó đã xác định những nguyên tắc

cơ bản về thừa kế, về quyền bình đẳng thừa kế của công dân. Thừa kế theo di
chúc được Pháp lệnh quy định tại chương II từ Điều 10 đến Điều 23. Pháp lệnh
Thừa kế quy định về di chúc hợp pháp là di chúc do người từ đủ mười tám tuổi
trở lên tự nguyện lập trong khi minh mẵn, không bị lừa dối và không trái với
quy định của pháp luật. Di chúc cũng được coi là hợp pháp nếu do người từ đủ
mười sáu tuổi trở lên nhưng chưa đủ mười tám tuổi tự nguyện lập trong khi
minh mẵn, được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, không bị lừa dối và
không trái với quy định của pháp luật. Nội dung và hình thức của di chúc được
Pháp lệnh quy định cụ thể. Pháp lệnh thừa kế là văn bản đầu tiên quy định cụ
thể, chi tiết về hiệu lực của di chúc tại Điều 23. Theo đó, di chúc có hiệu lực từ
thời điểm mở thừa kế. Trong trường hợp di chúc do nhiều người lập chung, mà
có người chết trước, thì chỉ phần di chúc có liên quan đến tài sản của người
chết trước có hiệu lực. Di chúc không có hiệu lực, nếu người thừa kế theo di
chúc chết trước người lập di chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người
thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trong trường
hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước người lập di
chúc, cơ quan, tổ chức được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc không còn
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, thì chỉ phần của di chúc có liên quan đến
người chết trước, liên quan đến cơ quan, tổ chức không còn tồn tại đó không có
hiệu lực. Di chúc không có hiệu lực nếu tài sản, quyền về tài sản để lại cho
người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế. Nếu tài sản, quyền về tài
sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần của di chúc về phần còn
lại đó vẫn có hiệu lực.
Trước những thay đổi nhanh chóng của đời sống xã hội, các vấn đề dân
sự phát sinh ngày càng nhiều mà các hình thức văn bản như: Pháp lệnh, Nghị
định, Thông tư,.. chưa đủ bảo quát để điều chính các quan hệ dân sự nói chung
và vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc nói riêng. Trước những yêu cầu của


15


thực tiễn, ngày 28/10/1995, Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Bộ
luật Dân sự đầu tiên của của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thừa
kế được quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật Dân sự 1995 đã kế thừa hầu hết
các quy định của Pháp lệnh về thừa kế năm 1990. Ngoài ra có bổ sung một số
vấn đề mới trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất
của cá nhân và thành viên của hộ gia đình. Về hiệu lực pháp luật của di chúc
nói riêng, Bộ luật Dân sự 1995 kế thừa các quy định của Pháp lệnh thừa kế
đồng thời có sự bổ sung quy định khi một người để lại nhiều bản di chúc đối
với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật.
Các quy định về thừa kế nói chung và hiệu lực pháp luật của di chúc nói
riêng trong Bộ luật Dân sự 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định
Bộ luật Dân sự năm 1995 và có một số thay đổi nhỏ để khắc phục vướng mắc
không phù hợp với thực tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế.
Bộ luật Dân sự 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017 tiếp tục kế thừa các quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005 đồng thời có những điều chỉnh các quy định về
hiệu lực pháp luật của di chúc. Những điều chỉnh này của Bộ luật Dân sự năm
2015 nhằm giải quyết một số bất cập trong quy định hiện hành về hiệu lực pháp
luật của di chúc.


16

Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT CỦA
DI CHÚC
2.1. Điều kiện hợp pháp của di chúc
2.1.1. Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành
vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Một người chỉ được
coi là có năng lực hành vi dân sự khi người đó bằng khả năng của mình để
thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân
sự của cá nhân được xác định qua hai tiêu chí: độ tuổi và khả năng nhận thức.
Thứ nhất, về độ tuổi
Pháp luật dân sự quy định người đã thành niên mới có quyền lập di chúc,
còn người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi muốn lập di chúc
phải được sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ. Sở dĩ pháp luật quy định
như vậy bởi chỉ khi đạt độ tuổi nhất định thì con người mới có đủ nhận thức
để điều chỉnh hành vi của mình. Nhận thức của người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi chưa ổn định, thiếu chín chắn trong cách suy nghĩ
và xử sự nên đòi hỏi cần phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ để
đảm bảo.
Nếu hiểu sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ đối với việc người chưa
thành niên lập di chúc là sự đồng ý về nội dung của di chúc thì sẽ ảnh hưởng
đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc khi định đoạt tài sản và dẫn đến di
chúc bị vô hiệu. Chính vì vậy, khi người chưa thành niên lập di chúc thì cha,
mẹ, người giám hộ có quyền nêu ý kiến của mình về việc có đồng ý cho
người đó lập di chúc hay không mà không được can thiệp vào nội dung của di
chúc hay sự định đoạt của người lập di chúc.
Hình thức đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ cho người đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi cũng không được quy định nên sẽ không
tránh khỏi có nhiều cách hiểu khác nhau về hình thức đồng ý được thể hiện


17

bằng văn bản riêng hay chỉ cần bút tích của cha, mẹ, người giám hộ vào bản
di chúc hay chỉ cần có chữ ký của cha, mẹ hoặc người giám hộ vào cuối bản

di chúc hoặc vào từng trang của bản di chúc. Trên thực tế có thể xảy ra trường
hợp, cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý dưới hình thức miệng nhưng sau khi
di chúc được lập ra họ biết được sự định đoạt trong nội dung di chúc nên họ
không đồng ý với sự định đoạt ấy và tuyên bố không cho người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi lập di chúc. Thiết nghĩ, cần có quy định
cụ thể về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di chúc
của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành một văn bản riêng hoặc có bút tích của cha, mẹ, người giám hộ vào bản
di chúc.
Thứ hai, về khả năng nhận thức
Bên cạnh yêu cầu về độ tuổi thì nhận thức là yếu tố quan trọng để xác
định một người có năng lực hành vi dân sự để lập di chúc. Khi một người đạt
được độ tuổi trưởng thành thì họ có đủ khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi. Tuy nhiên, khi họ mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không
thể nhận thức, điều khiển hành vi thì khả năng nhận thức của họ không được
đảm bảo.
Theo điểm a khoản 1 Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005: “người lập di chúc
phải minh mẫn sáng suốt trong khi lập di chúc...”. Pháp luật hiện hành chưa
quy định cụ thể thế nào là minh mẫn, sáng suốt khi lập di chúc. Hai từ “minh
mẫn”, “sáng suốt” có thể được hiểu là khả năng nhận thức rõ ràng và giải
quyết vấn đề đúng đắn, không nhầm lẫn. Cụm từ trên nếu hiểu theo cách đơn
giản có nghĩa là khi lập di chúc người lập hoàn toàn tỉnh táo để hiểu được
những điều mình làm là đúng đắn. Lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu tài
sản định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế nên họ phải minh mẫn, sáng
suốt để nhận thức được hành vi của mình.


18

2.1.2. Ý chí của của chủ thể lập di chúc

Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di
chúc phải tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và
điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, người lập di chúc không
những phải thỏa mãn các điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của Bộ
luật Dân sự, mà còn phải thỏa mãn cả điều kiện về ý chí của chủ thể khi tham
gia giao dịch dân sự. Cụ thể, theo điểm c khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định: “Người tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.”
Bên cạnh đó điểm a, khoản 1, Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng quy
định về sự tự nguyện của người lập di chúc. Sự tự nguyện của người lập di
chúc được thể hiện thông qua sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ.
Việc phá vỡ sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí làm mất đi tính tự
nguyện của người lập di chúc. Sự thống nhất này có thể bị phá vỡ khi người
lập di chúc bị cưỡng ép, đe dọa hoặc bị lừa dối.
Bộ luật Dân sự 2015 tiếp tục kế thừa các quy định của Bộ luật Dân sự
2005 về điều kiện của người lập di chúc nhưng có một số điều chỉnh. Theo
khoản 1 Điều 625 Bộ luật Dân sự 2015: “Người thành niên có đủ điều kiện
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 của Bộ luật này có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình”. Đồng thời theo điểm a khoản 1 Điều
630 Bộ luật Dân sự 2015: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi
lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. Như vậy, so với Bộ luật
Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình. Sở dĩ Bộ luật Dân sự 2015 bỏ đi quy định này là bởi người lập di
chúc minh mẫn, sáng suốt tức là họ phải là người có đủ khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của mình nên không cần thiết phải quy định người lập
di chúc không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức
và làm chủ được hành vi của mình.


19


2.1.3. Nội dung của di chúc
Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc
định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Pháp luật cho phép
người lập di chúc có quyền tự định đoạt tài sản của mình nhưng quyền tự do
này phải được đặt trong một khuôn khổ nhất định, không xâm phạm đến
quyền, lợi ích của các chủ thể khác và Nhà nước. Vì vậy, một di chúc chỉ được
coi là hợp pháp nếu sự thể hiện ý chí trong nội dung di chúc không vi phạm
những điều pháp luật cấm, không trái với những điều pháp luật đã quy định.
Bên cạnh đó, di chúc muốn được coi là hợp pháp, nội dung của nó phải
phù hợp với đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là hình thái ý thức xã hội, luôn
phụ thuộc vào tồn tại xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định. Vì
vậy, đạo đức xã hội không mang tính cố định. Mỗi một thời đại, thậm chí
trong cùng một xã hội thì mỗi giai cấp khác nhau sẽ có một quan điểm khác
nhau về đạo đức. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật. Đạo đức là cơ sở xã hội của pháp luật. Một nền pháp luật
được hình thành nếu không phù hợp với đạo đức xã hội thì tính khả thi của nó
sẽ bị hạn chế rất nhiều. Ngược lại, pháp luật là phương tiện để nâng đạo đức
xã hội thành ý chí của nhà nước. Nhìn chung, đạo đức xã hội là những trật tự
công cộng, thuần phong mĩ tục được hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất
định và đang được một cộng đồng người nhìn nhận và tôn trọng1. Theo quy
định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự 2005: “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng”.
Ví dụ: Ông A lập di chúc cho con trai hưởng toàn bộ di sản với yêu cầu
anh phải ly hôn với vợ hay gây tổn hại sức khỏe đến người khác… thì điều
này là không phù hợp với phong tục, tập quán, trái quy định của pháp luật.

1


Phạm Văn Tuyết, Luận án Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam, tr.94


20

Bên cạnh việc đảm bảo nội dung di chúc không trái quy định của pháp
luật và đạo đức xã hội thì nội dung di chúc phải đáp ứng các yêu cầu theo quy
định tại Điều 653 Bộ luật Dân sự 2005, cụ thể như sau:
- Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc
Ngày, tháng, năm lập di chúc là nội dung có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định tính hiệu lực của di chúc. Đây là cơ sở để xác định thời điểm
người để lại di sản lập di chúc. Thông qua ngày, tháng, năm lập di chúc sẽ xác
định được năng lực hành vi dân sự của người lập di chúc, sự minh mẫn, sáng
suốt của họ tại thời điểm di chúc được lập ra. Mặt khác, trong trường hợp,
một người lập nhiều di chúc đối với một tài sản thì ngày, tháng, năm lập di
chúc là căn cứ để xác định di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.
- Di chúc phải ghi rõ họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc
Di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương nên trong di chúc cần phải
xác định rõ họ, tên của người có ý chí đó. Việc ghi rõ họ tên người là cơ sở để
xác định người lập di chúc có đúng là người để lại di sản. Mặt khác, nơi cư trú
của người lập di chúc là căn cứ để xác định địa điểm mở thừa kế, nơi đăng ký
từ chối nhận di sản, thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của Tòa án khi có
tranh chấp đều được xác định thông qua nơi cư trú của người lập di chúc.
- Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di
sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
di sản
Khác với thừa kế theo pháp luật, người thừa kế được xác định là những
người trong mối quan hệ về hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để
lại di sản thì phạm vi những người thừa kế theo di chúc không thể xác định
được vì họ là những người bất kỳ do người lập di chúc chỉ định. Người thừa

kế theo di chúc có thể là một cá nhân, cơ quan, tổ chức bất kỳ. Khi mở thừa
kế, người được chỉ định trong di chúc được hưởng di sản. Tuy nhiên trên thực
tế có nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức trùng tên, vì vậy cần xác định rõ cá


21

nhân, tổ chức nào đang sinh sống, làm việc hoặc hoạt động ở địa phương nào
là phù hợp với nội dung ghi trong di chúc sẽ được hưởng di sản.
Trường hợp, người lập di chúc có đưa ra các điều kiện để cá nhân, tổ
chức hưởng di sản thì các điều kiện này phải thực hiện được và không bị pháp
luật cấm, không trái với các quy định của pháp luật. Nếu người được chỉ định
trong di chúc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các điều kiện trong
di chúc thì không được hưởng di sản.
- Di chúc phải ghi rõ di sản để lại và nơi có di sản
Người lập di chúc chỉ được định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của
mình cho những người thừa kế. Vì vậy, việc ghi rõ di sản trong di chúc nhằm
xác định người lập di chúc có những tài sản gì, những tài sản đó được phân
định như thế nào là nội dung không thể thiếu. Tuy nhiên, quy định này của
pháp luật với mục đích chủ yếu là nhằm hướng dẫn để các cá nhân lập di chúc
được rõ ràng cụ thể nên nếu di chúc không ghi rõ, liệt kê từng loại tài sản thì
cũng không vì thế mà coi di chúc đó là bất hợp pháp được. Trong trường hợp
này, người có thẩm quyền sẽ căn cứ vào pháp luật về quyền sở hữu tài sản mà
xác định những gì thuộc về di sản của người đã chết để lại.
Ngoài việc ghi rõ di sản, người lập di chúc cần ghi rõ trong di chúc nơi
có di sản để sau khi mình chết, những người thừa kế dựa vào đó dễ dàng xác
định được địa điểm tồn tại của di sản. Hơn nữa, trong những trường hợp
không thể xác định được nơi cư trú thì việc ghi rõ nơi có di sản là cơ sở để
việc xác định địa điểm mở thừa kế được dễ dàng.
- Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung

của nghĩa vụ
Những người hưởng di sản thừa kế đều phải thực hiện nghĩa vụ về tài
sản do người chết để lại trên cơ sở tương ứng với kỷ phần tài sản mà mình
được hưởng. Mặt khác, việc giao nghĩa vụ cho những người thừa kế là một
trong những quyền định đoạt của người lập di chúc. Vì vậy, trong di chúc,
người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho mỗi một người trong số những


×