Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Pháp luật về ủy quyền – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO - BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

--o0o--

PHẠM VĂN HƠN

PHÁP LUẬT VỀ ỦY QUYỀN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO - BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

--o0o--

PHẠM VĂN HƠN

PHÁP LUẬT VỀ ỦY QUYỀN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS Vũ Thị Hồng Yến


HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Vũ Thị Hồng Yến –
Đại học Luật Hà Nội.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực.
Trong quá trình thực hiện, Luận văn có tham khảo một số chuyên đề, các bài
viết có liên quan nhưng được trích dẫn nguyên văn, nguồn tài liệu trích dẫn được nêu
ra tại danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối Luận văn này.
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
HƯỚNG DẪN

Tác giả

Phạm Văn Hơn
Lớp cao học luật khóa 2014 – 2016
Trường đại học Luật Hà Nội


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT.

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:


Tố tụng dân sự

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND:

Ủy ban nhân dân

SHTS:

Sở hữu tài sản


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ỦY QUYỀN.
1.1
Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của ủy quyền.
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm.
1.1.3 Ý nghĩa.

1.2
Khái quát lịch sử hình thành pháp luật về ủy quyền
1.2.1. Khái quát pháp luật một số nước trên thế giới về ủy quyền
1.2.2 Khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về ủy
quyền.
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ ỦY QUYỀN
2.1
Chủ thể của ủy quyền
2.1.1 Bên ủy quyền
2.1.2 Bên được ủy quyền.
2.2
Hình thức ủy quyền.
2.3
Đối tượng của ủy quyền.
2.4
Phạm vi ủy quyền.
2.5
Thời hạn ủy quyền
2.6
Ủy quyền lại
2.7
Chấm dứt ủy quyền
2.7.1. Ủy quyền hết hạn
2.7.2 Công việc uỷ quyền đã hoàn thành
2.7.3 Đơn phương chấm dứt thực hiện ủy quyền
2.7.4 Chấm dứt thực hiện ủy quyền trong một số trường hợp khác
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ỦY QUYỀN
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
3.1

Khái quát thực tiễn về uỷ quyền tại Việt Nam
3.1.1 Kết quả thực hiện công chứng uỷ quyền tại Phòng công
chứng.
3.1.2 Một số khó khăn, vướng mắc trong áp dụng pháp luật về uỷ
quyền.
3.2
Hướng hoàn thiện pháp luật về ủy quyền
3.2.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về ủy quyền.
3.2.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về uỷ quyền
PHẦN KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC

Trang
1
6
6
6
6
9
12
13
13
18
25
25
27
32
40
44

47
50
52
55
56
56
58
61
64
64
64
64
79
79
81
89
90
95


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài.
Trong đời sống hiện nay, không phải cá nhân nào cũng có thể tự mình
tham gia vào tất cả các hợp đồng, giao dịch mà mình giao kết. Vì vậy, pháp
luật cho phép họ ủy quyền cho người khác. Có thể nói ủy quyền được diễn ra
thường ngày gắn liền với nhu cầu công việc và đời sống của mỗi người, mỗi
gia đình và toàn xã hội. Trong xu thế xã hội ngày một phát triển, yêu cầu giao
dịch dân sự, hợp đồng dân sự nói chung và ủy quyền nói riêng càng nhiều, với

tính chất rất phức tạp đòi hỏi người tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng
phải có những hiểu biết nhất định về pháp luật để bảo vệ bản thân, cũng như
tránh gây phương hại cho đối tác trong hợp đồng. Đối với vấn đề giao kết và
thực hiện ủy quyền, do tính chất phổ biến, đa dạng và phức tạp nên Nhà nước
và pháp luật luôn tạo điều kiện đảm bảo và tôn trọng quyền tự do thỏa thuận
và giao kết của các chủ thể. Tuy nhiên, có nhiều chủ thể khi tham gia hợp
đồng ủy quyền lợi dụng sự tôn trọng và bảo vệ này của Nhà nước và pháp luật
đã có những hành vi sai trái trong quá trình thực hiện làm xâm hại đến lợi ích
của cá nhân, tổ chức gây thiệt hại cho Nhà nước và ảnh hưởng đến toàn xã
hội.
Bên cạnh đó, do trình độ hiểu biết về pháp luật nói chung pháp luật về ủy
quyền nói riêng của người tham gia còn nhiều hạn chế, thiếu sự đồng nhất
giữa các bên nhất là khi các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình dễ
dẫn đến một trong hai bên có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng, phải bồi
thường thiệt hại... Ngoài ra, những quy định của pháp luật về ủy quyền chưa
đầy đủ dẫn đến việc các cá nhân, tổ chức có thể lợi dụng các quy định này tạo
kẻ hở để trục lợi gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người thứ ba.
Theo báo cáo tổng kết của công tác công chứng, chứng thực tại UBND và
các Phòng công chứng trong cả nước, nhất là ở những tỉnh, thành phố lớn
cho thấy, việc công chứng, chứng thực uỷ quyền ngày càng tăng, đặc biệt tại
một số Phòng công chứng thì số lượng uỷ quyền chiếm 30% trong tổng số
hợp đồng, giao dịch được công chứng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc


2

soạn thảo, công chứng, chứng thực ủy quyền cũng như việc thực hiện uỷ
quyền đã phát sinh một số vấn đề bất cập như căn cứ uỷ quyền, hình
thức uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao kết hợp
đồng ủy quyền, ... Đây là những nguyên nhân, dẫn đến việc tranh chấp về ủy

quyền, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như việc giải quyết
tranh chấp.
Chính vì những lý do đó, nhằm hiểu rõ, hiểu đúng và cụ thể những quy
định của pháp luật về ủy quyền, người viết chọn đề tài “Pháp luật về ủy
quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu, đồng thời tìm ra
những vướng mắc trên thực tế và đưa ra ý kiến đề xuất đối với những quy
định chưa hoàn thiện là một vấn đề rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
trong đời sống thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu những quy
định của pháp luật về những hợp đồng dân sự thông dụng trong đó đã có
một số đề tài nghiên cứu về ủy quyền. Năm 2004, tác giả Đinh Thị Thanh
Thuỷ bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ luật học với đề tài: “Quan hệ đại
diện theo uỷ quyền trong hoạt động thương mại”. Năm 2012, tác giả Lê Nhân
Hùng bảo vệ thành công luật văn thạc sĩ với đề tài “đại diện theo ủy quyền
trong tố tụng dân sự việt nam”. Năm 2014, tác giả Hoàng Hải Lâm bảo vệ
thành công luật văn thạc sĩ “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền định
đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa
bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc giang”.
Ngoài ra, vấn đề ủy quyền còn được đề cập trong một số bài viết được
đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số suy nghĩ về đại diện của
đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp
chí Khoa học pháp lý số 1/2007; “Đại diện theo ủy quyền – Từ pháp luật nội
dung đến tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Tạp chí
nghiên cứu lập pháp, số 5 (52), 5/2005; “ Tính hợp pháp của các hình thức uỷ
quyền khi tham gia hoạt động công chứng” của tác giả Vương Tất Đức trên


3


Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3/2012; “ Vấn đề đặc thù trong hoạt động
công chứng hợp đồng ủy quyền” của tác giả Hà Thị Lan Anh và Hà Thị Lan
Phương trên Tạp chí Nghề Luật, số 5/2014, v.v...
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu khai thác dưới góc độ bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự hoặc mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh về người đại diện theo ủy quyền, chỉ ra một số vướng mắc nhất định
khi thực hiện quy định về đại diện theo uỷ quyền, chứ chưa nghiên cứu môṭ
cách toàn diện và chuyên sâu về đại diện theo ủy quyền. Do vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu chuyên sâu các các vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền, thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về đại diện theo ủy quyền, từ
đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện là cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Uỷ quyền là một trong những giao dịch dân sự thông dụng được hình
thành rất sớm có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội như Dân sự, Hành chính, Tố tụng, Kinh tế, .... Đề tài cũng không có
tham vọng nghiên cứu tất cả các vấn đề pháp lý về đại diện theo ủy quyền
trong tất cả các quy định về vấn đề này từ trước đến nay. Đề tài, chủ yếu tập
trung nghiên cứu trong phạm vi quy định của BLDS đang có hiệu lực thi hành
và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, để có thể triển khai
đề tài một cách sâu sắc, việc nghiên cứu về lược sử các quy định có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu cũng được tiến hành. Đề tài cũng chỉ nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy định về ủy quyền trong BLDS 2005. Cụ thể:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về ủy quyền trong lĩnh vực
dân sự;
- Nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về ủy quyền trong
BLDS và một số văn bản liên quan;
- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về
ủy quyền trong quan hệ dân sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn.
Nghiên cứu đề tài “Pháp luật về ủy quyền – môt số vấn đề lý luận và



4

thực tiễn” nhằm những mục tiêu chủ yếu sau đây:

- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của uỷ quyền như khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa, lịch sử hình thành; vai trò của uỷ quyền trong nền
kinh tế thị trường.

- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành, thực
tiễn hoạt động công chứng, chứng thực và thực hiện uỷ quyền. Trên cơ sở,
đánh giá những ưu điểm cũng như chỉ ra những mặt hạn chế của của pháp
luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về uỷ quyền.
5. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn.
Với mục tiêu nghiên cứu như trên, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
được áp dụng trong đề tài này là:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát: Để nắm vững cơ sở lý
luận của việc ủy quyền quan hệ dân sự, đề tài đi sâu phân tích những khái
niệm, bản chất của quan hệ ủy quyền, các mối quan hệ trong ủy quyền, khái
quát những nguyên tắc chung của việc ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ ủy quyền.

- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Chất lượng cuộc sống ngày
càng đi lên, việc chuyên môn hóa đang phát triển ở mức độ cao hơn, thực tiễn áp
dụng ủy quyền ngày nhiều. Cùng với đó là những khó khăn, vướng mắc khi áp
dụng các quy định về ủy quyên trong thực tiễn. Lấy thực tiễn đa dạng, phong
phú để chứng minh, bổ sung cho lý luận và ngược lại là một trong những

phương pháp nghiên cứu của đề tài này.

- Phương pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu các quy
định về ủy quyền, về đại diện theo ủy quyền trong BLDS; trong BLDS với
một số văn bản khác, so sánh các quy định hiện hành với các quy định trước
đây về ủy quyền trong dân sự để tìm ra những quy định phù hợp với thực tiễn
cuộc sống, từ đó việc kiến nghị sẽ hoàn thiện hơn.

-


5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn.
- Làm rõ được những vấn đề lý luận về đại diện theo ủy quyền;
- Phân tích có hệ thống các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến
đại diện theo ủy quyền trong BLDS và một số văn bản liên quan;
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ủy quyền và rút
ra những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành;
- Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
các quy định về ủy quyền.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn được kết cấu theo 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần
kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về uỷ quyền.
Chương 2: Quy định của pháp luật việt nam hiện hành về ủy quyền.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về ủy quyền và hướng hoàn thiện
pháp luật.



6

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ỦY QUYỀN.
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của ủy quyền.
1.1.1 Khái niệm.
Để hiểu về ủy quyền, ta phải tìm hiểu nguồn gốc của nó, đó là chế định
đại diện. Trong đời sống thường nhật, mỗi con người đều phải tham gia
vào các mối quan hệ trong xã hội và hầu hết các nhu cầu sống của họ đều
được đáp ứng thông qua mối liên hệ với người khác như: hôn nhân, gia
đình, quan hệ làm ăn buôn bán, các nhu cầu thiết yếu của bản thân…Các
nhu cầu này ngày càng đa dạng và có chiều hướng tăng lên theo sự phát
triển của xã hội. Nhưng với nhịp sống ngày càng hiện đại hóa, nhu cầu thì
lớn mà thời gian thì có hạn hoặc do những trở ngại về sức khỏe, địa lý và
hạn chế về chuyên môn mà các chủ thể này không thể thực hiện hết các
mong muốn của mình, để có thể thỏa mãn được những nhu cầu này các chủ
thể trong quan hệ pháp luật dân sự cần có người khác thay mình thể hiện ý
trí nhưng vẫn mang tới sự ràng buộc cho chính bản thân họ.
Nắm bắt được thực tiễn của xã hội và trên nguyên tắc tự do ý chí,
pháp luật thế giới nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đều thừa nhận
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có thể tự mình xác lập và thực hiện
giao dịch hoặc có thể biểu lộ ý trí thông qua người khác. Từ đó, chế định đại
diện được ban hành để điều chỉnh mối quan hệ xã hội này. Ý nghĩa xã hội
pháp lý của chế định đại diện được thể hiện chính ở chỗ nhờ có nó mà một
người có thể sử dụng tri thức, khả năng, kinh nghiệm của người đại diện và
tiếp nhận kết quả từ hành vi pháp lý của người đó. Đại diện là chế định có
chức năng trợ giúp xã hội, là một trong những thành quả của trí tuệ pháp lý
của loài người, mang tính nhân văn, nhân đạo.
Konrad Zweigert và Hein Koetz cho rằng: “phương thức đại diện là một

sự cần thiết không thể bị vô hiệu trong bất kỳ chế độ phát triền nào mà dựa
trên sự phân công lao động đối với sản xuất, và phần phối hàng hóa và dịch


7

vụ” 1
Theo Điều 139 BLDS 2005 quy định “Đại diện là việc một người (sau
đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây
gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi
đại diện.”
Quan hệ đại diện phát sinh từ các căn cứ:
- Đại diện theo pháp luật: bao gồm đại diện theo quy định của pháp

luật và theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đại diện theo ủy quyền: theo sự thỏa thuận của các bên.

Thẩm quyền đại diện của một người đối với chủ thể khác chỉ phát sinh
trên hai căn cứ đó mà không có căn cứ nào khác.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định dựa trên các
tiêu chí: Do quan hệ đặc biệt giữa người được đại diện và người đại diện mà
phát sinh quan hệ đại diện đương nhiên (cha mẹ và con, vợ và chồng…);
Quan hệ đại diện phát sinh trên cơ sở một quan hệ pháp lý khác (giám hộ, lao
động, hợp tác…); Việc đại diện do cơ quan nhà nước (Tòa án) quyết định khi
sự đại diện là cần thiết đối với người bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi.
Điểm đặc thù của quan hệ đại diện theo pháp luật là bên cạnh việc thực hiện
hành vi đại diện, người đại diện còn thực hiện các chức năng khác được pháp
luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của người được đại diện.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự thỏa thuận của
các bên. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự do xác lập, thực hiện, định

đoạt các hành vi không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội để phục vụ cho nhu cầu, sở thích của mình, quyền và lợi ích của
người khác. Vì lý do nào đó mà các chủ thể trên không thể tự mình thực
hiện được một phần hoặc tất cả công việc thì có thể ủy quyền cho người
khác làm thay. Khi bên ủy quyền và bên được ủy quyền xác lập một quan hệ
ủy quyền, tức là đã xác lập sự thỏa thuận giữa các bên (có thể có thù lao

1

Hein Kotz, Konrad Zweigert, (1998), Pháp luật so sánh trong lĩnh vực luật
tư, Nhà xuất bản Quan hệ quốc tế, Matxcơva


8

hoặc không có thù lao), theo đó bên được ủy quyền được quyền thay mặt và
nhân danh bên ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định trong phạm vi
ủy quyền, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quyền lợi
của bên ủy quyền hoặc của bên thứ ba liên quan. Cá nhân, người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự2
Khoản 2 Điều 142 BLDS 2005 quy định “Đại diện theo uỷ quyền là đại
diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại
diện”. Pháp luật Việt Nam không có định nghĩa về ủy quyền mà chỉ quy định
về hợp đồng ủy quyền “Hợp đồng uỷ quyền là sự thoả thuận giữa các bên,
theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên uỷ
quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp
luật có quy định”3.
Hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law), hay còn được biết đến với tên gọi
đơn giản là hệ thống pháp luật Pháp – Đức đây là hệ thống pháp luật có nền

tảng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật của Pháp và pháp luật của một số nước
lục địa Châu Âu. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều chịu
ảnh hưởng của Luật La Mã. Theo quan điểm của hệ thống Civil law thì có ba
điều cần thiết đển tạo ra một sự ủy quyền: phải tồn tại một công việc hay hành
động là đối tượng của hợp đồng; phải được thực hiện bằng hành vi; các bên tự
nguyện có ý định tham gia.
Ủy quyền là việc một người chỉ định một người khác đại diện cho họ
trong hành động hay nói cách khác là thay mặt mình, trong các giao dịch pháp
lý với bên thứ ba. Người có hành động hay giao dịch được ủy quyền được gọi
là ngưởi ủy quyền, và người chấp nhận các ủy quyền là người được ủy
quyền4.
Hệ thống pháp luật Common Law, hay gọi đơn giản hơn là hệ thống

2
3
4

Khoản 1Điều 143 BLDS 2005
Điều 581 BLDS 2005

/>9049e=70edd6418f19b89736a5261503d5e99


9

pháp luật Anh – Mỹ: Pháp luật Anh – Mỹ là pháp luật ra đời ở Anh, sau này
phát triển ở Mỹ và những nước là thuộc địa của Anh, Mỹ trước đây. Đây là
hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán (custom), hay còn được gọi
là hệ thống pháp luật tập quán, hay hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ
(precedents/ judge made law).

Ủy quyền trong hệ thống Luật Common Law là quyền hành động thay
mặt người khác trong vấn đề pháp lý, kinh doanh hoặc một số lĩnh vực khác.
Trong một ủy quyền (Power of attorney) thì một người ủy quyền cho người
khác để hành động là người ủy quyền (principal) và một người được ủy quyền
để hành động là người được ủy quyền (the attorney-in-fact)5.
Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về ủy quyền như
sau: Ủy quyền là việc một bên (được gọi là bên được ủy quyền) nhân danh
một bên khác (được gọi là bên ủy quyền) để xác lập, thực hiện các giao dịch.
1.1.2 Đặc điểm.
Ủy quyền là một loại đại diện; do vậy, nó cũng mang đầy đủ những đặc
điểm chung của một quan hệ đại diện.
- Ủy quyền làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại: Quan hệ thứ nhất
là quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền (còn được gọi là
quan hệ bên trong). Người ủy quyền là người có công việc đang cần phải thực
hiện nhưng do một lý do nào đó họ không thực hiện được mà cần có người
khác thực hiện thay. Người được ủy quyền là người có khả năng thực hiện
công việc mà người ủy quyền đang cần, hai bên đã thống nhất được với nhau
các nội dung để người được ủy quyền thực hiện công việc thay cho người ủy
quyền. Từ đây phát sinh quan hệ ủy quyền giữa người ủy quyền và người
được ủy quyền. Quan hệ thứ hai là quan hệ giữ người ủy quyền và người thứ
ba (còn gọi là quan hệ bên ngoài). Người ủy quyền sẽ không tham gia quan hệ
trực tiếp với người thứ ba mà thông qua người được ủy quyền. Người được ủy
quyền là người trực tiếp làm việc với người thứ ba nhưng lại không nhân danh

5

/>

10


chính họ mà nhân danh cho người ủy quyền. Do vậy không phát sinh quan hệ
giữa người được ủy quyền và người thứ ba mà nó phát sinh quan hệ giữa
người ủy quyền và người thứ ba. Các quyền và nghĩa vụ được người được ủy
quyền xác lập với người thứ ba là quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền.
Trong thực tế vẫn tồn tại mối quan hệ giữa người được ủy quyền và người thứ
ba (mối quan hệ gián tiếp).
- Người được ủy quyền xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh
(đại diện) người ủy quyền chứ không phải nhân danh chính họ. Người được
ủy quyền phải giới thiệu tư cách pháp lý của mình, căn cứ chứng minh tư cách
của mình với người thứ ba để người này hiểu được hai vấn đề cần thiết trước
khi xác lập giao dịch: Thứ nhất, ai là người trao đổi lợi ích hay chịu trách
nhiệm về hậu quả của giao dịch đối với họ (quyền và nghĩa vụ phát sinh trong
giao dịch với họ là ai); thứ hai, thẩm quyền của người được ủy quyền đến đâu.
Hợp đồng ủy quyền hay giấy ủy quyền là bằng chứng của quan hệ ủy quyền,
người được ủy quyền phải cung cấp cho bên thứ ba những bằng chứng chứng
minh tư cách của mình trước khi xác lập quan hệ.
- Mục đích người được ủy quyền xác lập quan hệ với người thứ ba là vì
lợi ích của người ủy quyền. Hay nói cách khác là quyền (lợi ích) và nghĩa vụ
trong quan hệ với người thứ ba là quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền.
Trong xã hội phát triển ngày nay có một số công việc đặc thù việc ủy quyền
thực hiện những công việc đó trở thành một nghề và người được ủy quyền
thực hiện công việc để hưởng thù lao từ công việc đó thì việc xác lập quan hệ
với người thứ ba còn vì lợi ích của chính người được ủy quyền. Ví dụ: A của
nhu cầu mua một ngôi nhà nhưng không có thời gian đi thực hiện các thủ tục
theo quy định của pháp luật; B là người môi giới và là người chuyên thực hiện
các thủ tục hành chính về nhà đất cho khách hàng. A ủy quyền cho B thực
hiện các thủ tục để mua nhà cho A và A trả cho B một khoản thù lao. Như
vậy, việc B xác lập giao dịch mua nhà và thực hiện các thủ tục đăng ký biến
động để sang tên chủ sử dụng, sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
lợi ích từ việc này là A được hưởng, A mua được nhà, A đứng tên trên giấy



11

chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ngoài việc thực hiện công việc để
đạt được lợi ích cho A thì B thực hiện công việc này cũng hướng đến lợi ích là
khoản thù lao của mình. Hay như việc ủy quyền cho luật sư đi giải quyết các
vấn đề pháp lý thì việc người ủy quyền phải trả thù lao cho luật sư. Luật sư
giải quyết công việc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người ủy quyền
cho mình và nhận được thu lao từ việc giả quyết công việc.
Ngoài những đặc điểm chung của quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ đại
diện thì ủy quyền còn có những đặc điểm riêng. Cụ thể như sau:
- Ủy quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận. Khác với quan hệ đại

diện theo pháp luật là loại đại diện bắt buộc phải có cho người được đại diện.
Đại diện theo pháp luật được hình thành do pháp luật quy định trên cơ sở
huyết thống, hôn nhân (Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực
hành vi dân sự - Điều 62 BLDS 2005), quyết định của UBND (Cử người giám
hộ - Điều 63 BLDS 2005), Tòa án (bản án, quyết định của Tòa), điều lệ công
ty (Điều lệ công ty quy định Giám đốc là người đại diện theo pháp luật ) …
Ủy quyền là hình thức đại diện được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa hai
bên, có sự thống nhất ý chí giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Bên
ủy quyền hoàn toàn có thể tự mình thực hiện công việc của họ mà không cần
thông qua người đại diện. Tuy nhiên, họ không muốn trực tiếp thực hiện công
việc mà muốn ủy quyền cho người khác thực hiện thay. Bên được ủy quyền là
người đáp ứng được những yêu cầu do bên ủy quyền đưa ra để thay mặt mình
thực hiện công việc và có thiện chí nhận ủy quyền để nhân danh bên ủy quyền
thực hiện công việc. Từ đó, hai bên thỏa thuận và thống nhất các nội dung ủy
quyền và hình thành nên qua hệ ủy quyền giữa hai bên.
Quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền tùy thuộc vào nội dung ủy

quyền (phạm vi ủy quyền). Khác với đại diện theo pháp luật, người đại diện
có quyền xác lập mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện6,
quan hệ ủy quyền hình thành theo thỏa thuận nên phạm vi ủy quyền cũng là
một trong những nội dung được thỏa thuận. Người ủy quyền có thể ủy quyền
6

Khoản 1 Điều 144 BLDS 2005


12

cho người được ủy quyền có toàn quyền thực hiện công việc của mình hoặc
chỉ được thực hiện một phần công việc. Theo đó, người nhận ủy quyền cũng
có toàn quyền thực hiện công việc hoặc chỉ là một phần quyền là do phạm vi
ủy quyền được thỏa thuận, cùng với nó sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của
người được ủy quyền. Ví dụ: A ủy quyền cho B sử dụng ngôi nhà của A thì
phạm vi quyền của B chỉ được là sử dụng, tức là chỉ được ở nhưng không
được phép bán, tặng cho, thế chấp… Nếu A ủy quyền cho B toàn quyền quản
lý, sử dụng, định đoạt ngôi nhà của A thì B có toàn quyền quyết định các giao
dịch pháp lý đối với ngôi nhà như là một chủ sở hữu nhà bao gồm cả bán, tặng
cho, thế chấp…
1.1.3 Ý nghĩa.
Mỗi một cá nhân, tổ chức trong một thời gian nhất định không chỉ tham
gia một giao dịch dân sự mà còn tham gia nhiều giao dịch dân sự. Trên thực
tế, không phải ai cũng có điều kiện trực tiếp tham gia vào tất cả các giao dịch.
Có thể vì một lý do nào đó như không có thời gian, sức khỏe hoặc không có
khả năng về chuyên môn. Vì vậy, pháp luật cho phép nếu những chủ thể này
không có điều kiện trực tiếp thực hiện những giao dịch đó họ có thể uỷ quyền
cho nguời thứ ba, thay mặt mình tham gia các giao dịch dân sự.
Theo quan niệm truyền thống thì uỷ quyền được hiểu như là một công

việc mà việc thực hiện công việc này mang tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau trong cuộc sống. Những người uỷ quyền thường là những người do
không thu xếp được công việc, do sức khoẻ, hoặc do ở xa ... vì vậy, có thể ủy
quyền cho người khác thực hiện công việc của mình. Người thực hiện uỷ
quyền có thể là những người thân thiết, việc thực hiện những công việc này
mang tính chất hữu hảo không được tính thù lao và lợi nhuận.
Ngày nay, quan niệm về uỷ quyền đã có sự thay đổi, ngoài ý nghĩa
truyền thống, uỷ quyền còn được coi là một dịch vụ pháp lý góp phần làm gia
tăng các giao dịch dân sự. Bởi lẽ, cùng một thời điểm, một người vẫn có thể
tham gia được nhiều giao dịch thông qua người đại diện theo uỷ quyền. Người
được uỷ quyền làm mọi công việc nhân danh người uỷ quyền vì lợi ích của
người uỷ quyền. Từ hơn 100 năm trước một nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận


13

định hết sức đúng đắn: "Trong chế định đại diện, cá nhân pháp lý của con
người có thể vượt ra khỏi những giới hạn được quy định bởi bản chất tự nhiện
của con người”7. Câu nói này chủ yếu nói đến đại diện theo ủy quyền.
Uỷ quyền được ghi nhận trong xã hội đương đại như là một công cụ đắc
lực thúc đẩy các giao dịch trong điều kiện sự phân công lao động càng lúc
càng chặt chẽ và tinh vi. Trước đây, uỷ quyền được thực hiện trong phạm vi
rất hẹp, xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, được coi như một công việc rất
đơn giản, là sự giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Hiện nay, uỷ quyền được
thể hiện ở hầu hết những lĩnh vực của đời sống xã hội như Thương mại, Lao
động, Tố tụng, ... Đặc biệt "Quyền đại diện" là một trong những nguyên tắc
của hợp đồng thương mại quốc tế.
Từ những phân tích trên cho thấy, uỷ quyền có ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, việc xác lập quan hệ uỷ quyền sẽ tạo điều kiện cho chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự tiết kiệm chi phí, tiền bạc cũng như thời gian.

Ngày nay, những quy định của pháp luật về hình thức, phạm vi và đối tượng
của ủy quyền ngày càng mở rộng, việc này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ủy quyền được diễn ra nhanh chóng, kịp thời.
Thứ hai, uỷ quyền là một công cụ đắc lực góp phần thúc đẩy và phát
triển các giao dịch dân sự trong xã hội. Một người hoặc một tổ chức có thể là
chủ thể của rất nhiều hợp đồng, giao dịch nếu sử uỷ quyền cho người khác
tham gia các giao dịch dân sự nhân danh mình.
Thứ ba, việc BLDS nước ta ghi nhận uỷ quyền là phù hợp với pháp luật
quốc tế, thể hiện sự hoà nhập của pháp luật nước ta với các nước trên thế giới
đồng; thời là phương tiện ghi nhận một trong những quyền cơ bản trong quan
hệ dân sự đó là quyền tự do khi tham gia quan hệ dân sự.
1.2 Khái quát lịch sử hình thành pháp luật về ủy quyền
1.2.1. Khái quát pháp luật một số nước trên thế giới về ủy quyền
Trong các kiểu Nhà nước chủ nô thì Nhà nước La Mã được đánh giá là
Nhà nước có hệ thống pháp luật tiêu biểu nhất, đặc biệt là chế định về dân sự.
Ở La Mã, luật dân sự (juscivile) là luật áp dụng đối với công dân La Mã, phân
7

M.I. Braginski, V.V. Vitrianski (2002), Luật hợp đồng (quyển 3). Nxb Matxcơva, Tr 248.


14

biệt với luật chung (jus gentium) áp dụng cho những ai không có tư cách là
công dân La Mã8. Cả luật chung và luật dân sự đều tập trung giải quyết các vấn
đề pháp lý trong quan hệ giữa người và người. Nhiều chế định của luật La Mã
có giá trị như một nguồn tri thức chung của nhân loại về cấu trúc lập pháp và
trình độ lập pháp. Trong đó, những quy định của luật La Mã về quan hệ sở
hữu, về nghĩa vụ trong hợp đồng đã đặt nền móng vững chắc cho nền luật học
La Mã. Chế định ủy quyền ra đời từ thời La Mã cổ đại, cùng với quá trình phát

triển của xã hội, những quy định của pháp luật về ủy quyền ngày càng hoàn
thiện.
Trong thời kỳ La Mã, đã có sự phân biệt giữa đại diện theo pháp luật (là
những đại diện đương nhiên, đại diện bắt buộc) và đại diện tự nguyện trên
cơ sở ủy quyền. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, chế định đại diện theo pháp luật
được coi trọng hơn đại diện theo ủy quyền. Do vậy, những quy định về đại
diện theo pháp luật được pháp luật ghi nhận một cách khá đầy đủ.
Đại diện theo pháp luật có nền tảng phát triển là cấu trúc xã hội, đó là
chế độ chiếm hữu nô lệ mà trong đó chủ nô và gia chủ có vị trí quan trọng
đối với nô lệ và người phụ thuộc trong gia đình. Những người có địa vị thấp
trong xã hội như nô lệ, người phụ nữ, con cái bị hạn chế năng lực hành
vi. Thông thường gia chủ, người có địa vị cao trong xã hội là đại diện
đương nhiên của những người bị phụ thuộc, người có địa vị trong xã hội
thấp, người bị hạn chế, người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Mặc dù, trong thời kỳ này đại diện theo pháp luật chiếm vị trí quan
trọng; tuy nhiên, những quy định của pháp luật về đại diện theo ủy quyền
cũng đã bắt đầu xuất hiện và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội. Luật La Mã đã có những quy định về đại diện theo uỷ quyền,
mặc dù nó có tính chất sơ khai, nhưng những quy định này thực sự là những
tiền đề cho những quy định của pháp luật về đại diện theo ủy quyền sau này.
Trong luật La Mã, một người còn có thể trao cho một người quyền được thực
hiện một số hành vi nhất định nhân danh người ủy quyền, giao kết thông qua
8

TS. Nguyễn Ngọc Điện (2009), Giáo trình Luật La Mã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 8


15

hợp đồng ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền là hợp đồng không có đền bù, có

nghĩa là người được ủy quyền không nhận bất cứ một lợi ích nào từ phía người
ủy quyền. Người được ủy quyền thực hiện các công việc mang tính tương trợ,
giúp đỡ người ủy quyền. Tuy nhiên, có những trường hợp sau khi thực hiện
xong việc ủy quyền người ủy quyền cảm ơn người được ủy quyền bằng một số
vật chất. Nhưng đó không phải là sự trả công mà là sự trả ơn9. Người đại diện
tuyên bố “Không phải anh ta ký kết hợp đồng nhân danh người được đại diện
mà là người đại diện ký kết hợp đồng thông qua anh ta”10.
Sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, ở Châu Âu xã hội chuyển sang một
giai đoạn mới. Do đặc thù của xã hội trong thời kỳ này, nên những chế định
của pháp luật về đại diện đương nhiên theo pháp luật rất phát triển còn những
quy định về đại diện theo ủy quyền dường như không phát triển so với thời kỳ
La Mã.
Cách mạng tư sản nổ ra, cùng với nó là việc phá vỡ quan hệ sản xuất
lạc hậu của chế độ phong kiến, giải phóng lực lượng sản xuất. Để điều chỉnh
những quan hệ sản xuất mới, cùng với việc xây dựng bộ máy Nhà nước,
nhiều Nhà nước tư sản đã ban hành Bộ luật Dân sự nhằm điều chỉnh những
quan hệ xã hội mới, phù hợp với tình chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ này, những tư tưởng tiến bộ của Luật La Mã cổ đại được phục
hồi và ghi nhận trong luật dân sự của các nước phát triển như Pháp, Đức,
Nhật, … trong đó có chế định về ủy quyền.
BLDS Pháp năm 1804 ra đời đánh dấu bước phát triển vượt bậc của
luật dân sự, những tư tưởng pháp lý không chỉ có ý nghĩa đối với nước Pháp
mà còn ảnh hưởng đến luật dân sự của rất nhiều nước trên thế giới. BLDS
Pháp năm 1804 là sự pháp điển tới mức kinh điển những quy định của pháp
luật La Mã cổ đại trong đó chế định hợp đồng dân sự và ủy quyền, bổ sung
những quy định mới cho phù hợp với thực tế. Theo quy định của BLDS
Pháp thì chế định đại diện đã tổng hợp sự điều chỉnh các quan hệ bên
9

Trường Đại học luật Hà Nội (2003), Giáo trình luật La Mã, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr

147
10
M.I. Braginski, V.V. Vitrianski, tlđd chú thích 7, Tr 265-268


16

trong và bên ngoài trong quan hệ đại diện.
Điều luật đầu tiên (Điều 1984) của chương “Về bản chất và hình thức
uỷ quyền" quy định như sau: Uỷ quyền là hành vi, trong đó một người
trao cho người khác những quyền năng thực hiện công việc cho người uỷ
quyền và nhân danh anh ta. Uỷ quyền chỉ có hiệu lực khi người được ủy
quyền đồng ý.
Điều 1985 BLDS Pháp năm 1804 quy định: Một ủy quyền có thể được
lập thành văn bản công chứng hoặc tư chứng thư, kể cả bằng thư thường.
Có thể ủy quyền bằng lời. Nhưng chứng cứ bằng lời khai của người làm
chứng chỉ có thể được phép chấp nhận theo quy định tại phần “hợp đồng
hay nghĩa vụ hợp đồng nói chung” của Bộ luật Dân sự Pháp (từ Điều 1341
đến Điều 1348).
Bộ Luật dân sự Đức năm 1900, một trong những bộ luật dân sự có sự
phân biệt rõ ràng giữa chế định uỷ quyền và chế định đại diện. Đại diện quy
định tại Quyển 1-Phần chung-Chương V Phần 3-Giao dịch, còn uỷ quyền
quy định tại Quyển 2-Phần nghĩa vụ-Chương VIII Phần 13 các loại nghĩa vụ.
Điều 662 Bộ luật Dân sự Đức quy định - Nhiệm vụ chủ yếu trong ủy
quyền: Bằng cách chấp nhận một ủy quyền, người được ủy quyền đồng ý thực
hiện một giao dịch cho người ủy quyền.
BLDS Nhật Bản cũng phân chia chế định đại diện và chế định uỷ
quyền. Chế định đại diện được quy định tại Phần chung-Chương V, Mục
3, uỷ quyền quy định tại Phần 3 – Chương II, Mục 10.
Đại diện có chức năng to lớn trong hoạt động xã hội của con người.

Chính nhờ chế định đại diện mà một người có thể sử dụng khả năng nhận
thức của người người đại diện, nhận được kết quả từ hoạt động của người đó.
Cũng như quy định của các nước khác, BLDS Nhật Bản coi việc uỷ
quyền là một công việc mang tính chất tương trợ, hai bên nếu như không có
thoả thuận riêng thì người được uỷ quyền không được phép yêu cầu người uỷ
quyền trả thù lao. Việc trả thù lao không được coi là sự trả công như những
hợp đồng dân sự có đền bù khác.


17

Trong hệ thống pháp luật của Anh, không có nhiều quy định điều chỉnh
về ủy quyền như của Pháp, Đức; Ủy quyền ở Anh được gọi là “Power of
attorney” thường là ở dạng giấy ủy quyền. Giấy uỷ quyền là một uỷ quyền
bằng văn bản mà một người cho phép một người khác do mình chỉ định để thực
hiện hành vi theo quy định trong giấy ủy quyền nhân danh của mình11.
Giấy ủy quyền là hữu ích và cần thiết trong trường hợp khi:
- Một người muốn công việc cá nhân của họ hoặc việc kinh doanh

thương mại của họ phải được tiến hành trong khi vắng mặt họ; ví dụ, doanh
nghiệp của họ đang ở trong một quốc gia khác…
- Một người muốn công việc cá nhân của họ hoặc việc kinh doanh

thương mại của họ phải được thực hiện bởi người có chuyên môn nhiều hơn
hoặc kiến thức kỹ thuật hơn họ. Ví dụ, người đó đang đối phó với một vấn đề
pháp lý và họ cần phải ủy quyền cho luật sư…
- Một người đang sống nhưng không thể xem xét vấn đề pháp lý về tài

chính của mình. Ví dụ, nếu người đó đang trong giai đoạn bị tai nạn hay đang
trong một tình trạng khẩn cấp y tế nghiêm trọng…

Giấy uỷ quyền là một hoạt động pháp lý để một người có thể hành động
thay mặt cho người khác.
Trong luật pháp Anh, bất cứ ai có đủ năng lực có thể cấp Giấy ủy quyền.
Ủy quyền có thể là các hoạt động tổng hợp (tức là người được ủy quyền có
thể làm bất cứ điều gì mà pháp luật cho phép), hoặc liên quan đến một hành
động cụ thể (ví dụ như bán tài sản…). Giấy ủy quyền chỉ có giá trị khi người
ủy quyền có khả năng ký phê chuẩn các hành động được ủy quyền, trừ khi việc
ủy quyền được thực hiện dưới dạng hình thức ủy quyền lâu dài (Lasting Power
of attrney)12.
Pháp luật Mỹ về ủy quyền nói chung là giống nhau. Tuy nhiên, mỗi
bang có thể quy định các quy tắc khác nhau liên quan đến hoạt động uỷ
quyền. Do đó, các vấn đề liên quan đến ủy quyền cần phải được thực hiện
11
12

Powers of Attorney.co.uk, /> />

18

theo pháp luật của từng bang nơi mà việc ủy quyền được thực hiện13.
Ủy quyền là quá trình trao quyền cho một tổ chức hoặc người có quyền
lực pháp lý hoặc phê chuẩn để làm một cái gì đó cụ thể14. Pháp luật Mỹ cũng
có cách tiếp cận gần tương tự đối với vấn đề ủy quyền như pháp luật anh. Ủy
quyền được gọi là được gọi là “Power of attorney” và thường sử dụng dưới
dạng thức giấy ủy quyền.
Một "giấy ủy quyền" là một công cụ pháp lý mà trong đó có các điều
khoản về việc người khác thực hiện các hành vi pháp lý thay cho một cá
nhân và có thể đưa ra các quyết định có tính ràng buộc pháp lý thay cho cá
nhân đó.
Khi đưa ra một giấy ủy quyền, người được ủy quyền có quyền lực thay

mặt người ủy quyền giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý với bên thứ ba (người
được ủy quyền thay mặt người ủy quyền ký tên vào hợp đồng có giá trị
pháp lý). Vì vậy, người ủy quyền phải xem xét cẩn thận người mà mình trao
quyền lực cho và về giới hạn quyền lực trong khoảng thời gian giấy ủy quyền
có hiệu lực.
1.2.2 Khái quát quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về ủy
quyền.
1.2.2.1 Thời kỳ trước năm 1945
Cùng với sự phát triển của lịch sử Nhà nước và pháp luật, ở Việt Nam
chế định hợp đồng (khế ước) ra đời và tồn tại từ rất sớm. Trong những bộ
luật cổ, như Bộ Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long đã có một số quy định
về ủy quyền. Tuy nhiên, do đặc điểm của thời kỳ này, những quy định của
pháp luật mới chỉ dừng ở việc ghi nhận một cách sơ lược, chưa hình thành
chế định hợp đồng ủy quyền theo đúng nghĩa như hiện nay.
Trong hai bộ luật của chế độ phong kiến Việt Nam, không điều luật cụ
thể nào quy định về uỷ quyền; những nội dung về ủy quyền chỉ được đề
cập một cách gián tiếp thông qua những quy định cụ thể trong một số lĩnh
vực khác. Ví dụ: Điều 378 Bộ Luật Hồng Đức quy định: Cha mẹ còn sống
13
14

/> />

19

mà bán trộm điền sản, con trai bị xử phạt 60 trượng, biếm hai tư, con gái thì
bị xử phạt 50 roi, biếm một tư, phải trả nguyên tiền cho người mua, điền
sản cho cha mẹ. Theo quy định của Bộ luật Hồng Đức thì việc bán điền sản
của cha mẹ, nếu như có sự uỷ quyền của cha mẹ thì việc bán điền sản đó
hoàn toàn hợp pháp. Như vậy, trong thời kỳ phong kiến, ủy quyền chưa có

quy định riêng mà việc điều chỉnh những quan hệ này nằm rải rác trong
những điều luật ở những nội dung khác nhau.
Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, cùng với việc áp đặt bộ
máy cai trị kiểu thực dân, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba kỳ đó
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tương ứng với mỗi kỳ là một bộ máy cai
trị, hệ thống pháp luật riêng. Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã
làm cho cơ cấu xã hội Việt Nam có sự biến đổi mạnh mẽ, toàn diện, trong đó
hệ thống pháp luật mà luật dân sự là một trong những lĩnh vực có sự biến đổi
mạnh mẽ và toàn diện nhất. Sự chuyển biến này thể hiện ở việc, thực dân
Pháp đã ban hành ba bộ luật dân sự áp dụng cho ba kỳ.
Có thể nhận xét một cách chung nhất đối với ba BLDS mà thực dân
Pháp ban hành ở nước ta đó là sự giản yếu đến mức tối đa những quy định
của BLDS Pháp năm 1804 đồng thời ghi nhận những quy định của pháp
luật phong kiến Việt Nam đang tồn tại. Tuy vậy, cũng phải ghi nhận đây là
lần đầu tiên, ở nước ta chế định ủy quyền được ghi nhận một cách tương
đối toàn diện trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao đó là
BLDS.
Theo quy định của Bộ luật giản yếu Nam Kỳ, sự "uỷ quyền" là một
khế ước do đó một người, người uỷ-quyền (uỷ-chủ) cho một người, người
thụ-uỷ được nhân danh mà thực hành một hay nhiều hành vi pháp lý15. Về
hình thức, khế ước uỷ quyền bằng có thể bằng văn bản tự lập hoặc bằng văn
tự được công chính. Sự uỷ quyền bắt đầu có hiệu lực từ khi người thụ uỷ
thực hiện công việc. Thù lao cho người thụ uỷ không được đề cập đến.
Như vậy, uỷ quyền thời kỳ này được hiểu theo truyền thống là làm thay,
15

Phan Văn Thiết (1961), Dân Luật Tu tri, Nhà sách Khai trí, Tr 297- 298


20


làm hộ mà không tính đến việc nhận thù lao.
Các nhà làm luật thời bấy giờ rất chú trọng và đánh giá cao ý nghĩa
của việc uỷ quyền, cho nên ngay trong những quy định về uỷ quyền có
những quy định có tính chất hướng dẫn như “Xin nói qua rằng sự uỷ-quyền
chung là rất nguy hiểm cho uỷ-chủ, chỉ nên cho một cách thận trọng vì về thực
tế, nó như là một sự từ khước tất cả quyền-lợi của mình trong thời gian uỷquyền; hay như: Tờ uỷ- quyền riêng phải định nghĩa rõ-ràng quyền-hành của
người thụ-uỷ, người uỷ-chủ phải cần nhắc kỹ-càng từng câu vè nên nhớ rằng
mình phải biết rõ người thụ-uỷ mới dám cho làm như vậy” 16.
So với Bộ luật giản yếu Nam Kỳ thì Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931
có nhiều đổi mới, các quy định về ủy quyền được quy định tại các chương,
tiết và các điều khoản cụ thể, rõ ràng hơn. Khế ước uỷ quyền được quy định
tại chương VIII gồm 28 điều.
Theo quy định tại Điều 1172 Bộ Dân luật Bắc Kỳ thì uỷ quyền là một
khế ước do một người cho quyền người khác đứng tên mình làm việc gì cho
mình. Hình thức của ủy quyền có thể bằng văn bản hoặc chỉ cần nói bằng
miệng. Công việc được uỷ quyền trong thời kỳ này, được các nhà làm luật
chia thành uỷ quyền đơn giản, uỷ quyền phức tạp (liên quan đến chuyển
dịch, để đương) và uỷ quyền riêng, uỷ quyền chung. Cụ thể như thế nào
người uỷ quyền phải nói rõ khi giao kết khế ước. Người thụ uỷ có thể
được nhận thù lao cho công việc mình làm hoặc không có thù lao.
So với Bộ luật giản yếu Nam Kỳ, Bộ dân luật Bắc kỳ có những quy
định cụ thể về nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết khế ước uỷ quyền. Ví
dụ như Điều 1178 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định: Trong khi người thụ uỷ còn
nhận việc uỷ quyền, thì phải làm cho trọn, và nếu khi thi hành có sự tổn
hại thì phải bồi thường; hay: Phàm người thụ-uỷ đã chiếu giấy uỷ-quyền mà
giao ước việc gì, thì người uỷ quyền có trách nhiệm phải thi hành việc ấy, ...
Người thụ uỷ có trách nhiệm làm toàn bộ công việc thay cho người uỷ
quyền, người uỷ quyền phải trả toàn bộ chi phí cho công việc đã uỷ
16


Phan Văn Thiết, tlđd chú thích 15, Tr 297- 298


×