A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhu cầu tham gia các giao dịch dân sự
(GDDS) của các chủ thể cũng ngày càng đa dạng và mở rộng. Trong giao lưu dân sự,
các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện GDDS nhưng trong những trường hợp
nhất định, do hạn chế về mặt này mặt kia mà họ không thể tự mình xác lập, thực hiện
các GDDS được, vì thế pháp luật dân sự đã đặt ra chế định đại diện.
Đối với cá nhân, bên cạnh những người có đầy đủ năng lực hành vi (NLHV) có
thể tham gia GDDS theo Điều 122 BLDS thì còn có các đối tượng khác như: người
chưa thành niên, người bị hạn chế NLHV dân sự, người bị mất NLHV dân sự… những
hạn chế về mặt nhận thức, hoàn cảnh đã cản trở họ, khiến họ không thể tự mình xác
lập các giao dịch được thì chế định đại diện đã giúp họ tiến hành xác lập các giao dịch
theo mong muốn hoặc vì lợi ích của họ. Đối với các chủ thể là pháp nhân, tổ hợp tác
hay hộ gia đình mà quyền lợi mang tính cộng đồng, việc tham gia GDDS không thể
xác lập thông qua tất cả mọi cá nhân thì chế định đại diện được đặt ra tạo điều kiện và
đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể này. Như vậy đại diện là một công cụ pháp lí
hữu hiệu để các chủ thể thực hiện được tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình
một cách linh hoạt và hiệu quả nhất.
Vậy đại diện là gì, có những loại đại diện nào, chấm dứt đại diện ra sao…Bài
viết của em xin đề cập về vấn đề đó.
B. PHẦN NỘI DUNG.
I. Khái niệm, đặc điểm của đại diện.
1. Khái niệm.
Đại diện là một chế định pháp lí theo đó người đại diện độc lập thực hiện sự thể
hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lí trực tiếp đối với người được đại diện. Xét từ
góc độ lí luận thì người thực hiện các hành vi pháp lí đồng thời là người tiếp nhận kết
quả của các hành vi đó. Có thể thấy đại diện là một chế định pháp luật thể hiện sự linh
1
hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ
thể.
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: Đại diện là việc một người (sau đây
gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
So với khoản 1 Điều 148 BLDS 1995 thì khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 bổ sung thêm
không lớn nhưng đã nhấn mạnh được trách nhiệm của người đại diện, phản ánh đúng
bản chất của đại diện, từ đó có cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp người đại
diện xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không xuất phát từ lợi ích của người được
đại diện. Ngoài ra Điều 139 BLDS 2005 còn thêm khoản 5 “người đại diện phải có
NLHV dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của bộ luật này”
Như vậy đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể của quan hệ đại diện
bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh
người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại
diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người
đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Quan hệ đại diện là căn cứ để
phát sinh thêm một quan hệ (GDDS) tiếp theo là quan hệ giữa người đại diện với
người thứ ba theo ý chí của người được đại diện. Mọi cá nhân đều được pháp luật bảo
vệ quyền tham gia xác lập và thực hiện GDDS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua người khác. Tuy nhiên, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình
trong trường hợp mà pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
đó (thông thường, đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có đặc
tính không thể chuyển giao cho người khác được. Ví dụ : một người chồng không thể
ủy quyền cho một người khác đại diện để “làm chồng” đối với người vợ của mình !).
2. Đặc điểm của quan hệ đại diện.
* Quan hệ đại diện là một loại quan hệ pháp luật (QHPL) do vậy quan hệ đại diện
cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của QHPL.
2
- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện là loại quan hệ xã hội có ý chí, tức là xuất hiện do
ý chí của con người. Quan hệ đại diện không ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hành
vi có ý chí của một hoặc cả hai bên chủ thể. Có những quan hệ đại diện mà sự hình
thành đòi hỏi cả hai bên thể hiện ý chí (hợp đồng ủy quyền), có những quan hệ đại
diện hình thành trên cơ sở ý chí của nhà nước (đại diện theo pháp luật).
- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện xuất phát trên cơ sở các quy phạm pháp luật.
Trong BLDS năm 2005 thì các chế định về đại diện được quy định tại chương VII, từ
Điều 139 đến Điều 148.
- Cũng như QHPL, nội dung của quan hệ đại diện được cấu thành bởi các quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế nhà nước. Trong
quan hệ đại diện khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các QHPLDS, các
bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo cho
họ điều kiện lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất
cho các bên và này luôn phải đảm bảo nguyên tắc là không được trái với pháp luật.
* Ngoài các đặc điểm của QHPLDS nói chung, quan hệ đại diện còn có các đặc điểm
riêng sau đây:
- Đại diện có 2 quan hệ pháp luật khác nhau là quan hệ bên trong và quan hệ bên
ngoài.
+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người được đại diện là quan hệ bên
trong. Quan hệ này có thể được hình thành từ hợp đồng hay theo quy định của pháp
luật. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 21 BLDS thì mọi GDDS của người chưa đủ 6 tuổi
phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Như vậy quan hệ giũa người
đại diện và người được đại diện được xác lập theo pháp luật chứ không phải hợp đồng.
+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người thứ ba là quan hệ bên ngoài. Quan
hệ bên trong là tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài. Quan
hệ bên ngoài thực hiện vì quan hệ bên trong, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do người
đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về
người đại diện. Người đại diện có thể được hưởng những lợi ích nhất định từ người
3
được đại diện do thực hiện hành vi với người thứ ba, chứ không được hưởng bất kỳ lợi
ích gì với người thứ ba.
- Người đại diện xác lập quan hệ đại diện với người thứ ba là nhân danh người được
đại diện chứ không phải nhân danh chính họ. Do vậy người được đại diện phải giới
thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba để người này hiểu được hai vấn đề cần
thiết trước khi lập giao dịch.
- Mục đích của người đại diện xác lập quan hệ với người thứ 3 là vì lợi ích của người
được đại diện, hay nói cách khác quyền và lợi ích trong quan hệ với người thứ ba được
chuyển cho người đại diện. Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, họ có thể được
hưởng tiền thù lao nếu có thỏa thuận; còn trong các quan hệ đại diện theo pháp luật thì
chỉ có nghĩa vụ theo pháp luật chứ người đại diện sẽ không có được lợi ích vật chất cụ
thể từ quan hệ đại diện này.
- Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ bị giới hạn
trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy đinh của pháp luật nhưng họ vẫn
có sự chủ động khi tiến hành các công việc cần thiết để dạt mục đích và vì lợi ích của
người được đại diện. Ví dụ: A đại diện theo ủy quyền mua ô tô cho B thì A vẫn được
thể hiện ý chí của mình qua việc thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng với người
thứ ba nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho B.
II. Phân loại đại diện.
Việc phát sinh quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức : do pháp luật qui định
hoặc theo sự uỷ quyền.
1. Đại diện theo pháp luật.
a. Khái niệm đại diện theo pháp luật.
Theo quy định tại Điều 140 BLDS 2005 thì “ Đại diện theo pháp luật là đại
diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”.
Căn cứ để hình thành quan hệ đại diện này là do ý chí của nhà nước, pháp luật quy
định mối quan hệ đại diện dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ
4
thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể. Như vậy , đại diện được quy định
theo pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện. Các chủ thể
trong quan hệ đại diện có thể là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc pháp nhân.
Ví dụ : Người đại diện của công ty là người mà công ty đăng ký với vị trí là “người đại
diện theo pháp luật” – thể hiện trong Giấy đăng ký kinh doanh (thường là giám đốc)
do Sở kế hoạch và đầu tư cấp. Đây là trường hợp đại diện mà pháp luật qui định.
b. Các trường hợp đại diện theo pháp luật.
Như đã nói, “đại diện theo pháp luật” là sự đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Điều 141 BLDS 2005 qui định “người đại
diện theo pháp luật” trong một số trường hợp như sau:
1. Đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi) - Cha, mẹ là người đại diện theo pháp
luật.
2. Đối với người được giám hộ - Người giám hộ là người đại diện theo pháp luật.
3. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự - Người được Toà án chỉ định là
người đại diện theo pháp luật.
4. Đối với pháp nhân- Người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều lệ pháp nhân
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật.
5. Đối với hộ gia đình - Chủ hộ là người đại diện theo pháp luật.
6. Đối với tổ hợp tác - Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật.
7. Những người khác theo qui định của pháp luật.
* Trường hợp thứ nhất đó là cha mẹ đối với con chưa thành niên.
- Điều 39 Luật Hôn nhân gia đình năm 200 quy định: “Cha mẹ là người đại diện theo
pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự,
trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp
luật”. Có thể thấy người chưa thành niên là người chưa có đủ khả năng nhân thức và
điều khiển hành vi của mình nên họ không thể tham gia các giao dịch dân sự một cách
độc lập, trừ những giao dịch nhỏ đảm bảo cho sinh hoạt hàng ngày. Trong những giao
dịch quan trọng mà người chưa thành niên tham gia thì cha, mẹ của họ sẽ là người
5
nhân danh, và vì lợi ích của họ xác lập và thực hiện các giao dịch đó với điều kiện cha,
mẹ là người có đủ năng lực hành vi dân sự.
* Trường hợp thứ hai đó là người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Điều 58 BLDS năm 2000 quy định: Giám hộ là việc một hoặc nhiều người (người
giám hộ) thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một hay
nhiều người khác (người được giám hộ). Một người có thể giám hộ cho nhiều người,
nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là
cha và mẹ hoặc ông và bà của người được giám hộ. Người giám hộ có thể là cá nhân
hoặc tổ chức; nếu là cá nhân thì có thể là người giám hộ đương nhiên hoặc người được
cử ra; trường hợp không cử được cá nhân giám hộ thì một tổ chức sẽ được đề nghị
đảm nhận việc giám hộ. Cá nhân làm người giám hộ phải có đủ các điều kiện sau: Có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện cần thiết bảo đảm
thực hiện việc giám hộ.
- Pháp luật Việt Nam qui định về người được giám hộ như sau: Người chưa thành niên
không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa
thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; người mất năng lực hành vi dân sự.
*Trường hợp thứ ba là người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế
NLHVDS.
- NLHVDS của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và
thủ tục được quy định tại Điều 23 BLDS. Việc hạn chế NLHVDS phải thông qua Tòa
án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các
chất kích thích dẫn tới hậu quả phá tán tài sản. Như vậy có thể thấy người bị hạn chế
NLHVDS không có đầy đủ khả năng nhân thức và làm chủ hành vi của mình. Do là
đối tượng cần được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ không thể trực tiếp tham gia vào
bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật phải quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo
vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực hiện các GDDS nên bắt buộc phải
thông qua người đại diện cụ thể. Khoản 2 Điều 23 BLDS năm 2005 quy định: “Người
6
đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại
diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ
giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày”.
*Trường hợp thứ tư là người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều lệ pháp
nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật.
- Điều 84 BLDS năm 2005 mô tả: Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập hợp
pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình
tham gia váo các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy để tham gia vào các
quan hệ pháp luật thì pháp nhân phải thông qua hoạt động của mình như là những chủ
thể độc lập tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự nói riêng.
Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi những cá nhân- người
đại diện của pháp nhân. Người đại diện của pháp nhân có quyền nhân danh pháp nhân
thực hiện các hành vi nhằm duy trì sự hoạt động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp
luật và điều lệ quy định (ký kết các hợp đồng và thực hiện các giao dịch khác).
- Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì đại diện theo pháp luật của các
loại pháp nhân là:
+ Đối với Công ty cổ phần: Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng
Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công
ty, người đại diện theo pháp luật phải thường trú tại Việt Nam. Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc công ty không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh
nghiệp khác.
+ Công ty hợp danh: Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ
chức điều hành hoạt động hàng ngày của công ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Chủ tịch hội đồng thành viên hơcj Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ
công ty, người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam.
*Trường hợp thứ năm là chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình:
7
- Tuy chưa có một khái niệm thống nhất về hộ gia đình nhưng chúng ta có thể hiểu hộ
gia đình là tập hợp những người trong gia đình có các quan hệ huyết thống, nuôi
dưỡng và hôn nhân. Để trở thành chủ thể trong quan hệ dân sự thì hộ gia đình phải có
những điều kiện nhất định, đó là thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung. Hộ gia
đình hoạt động với tư cách chủ thể trong quan hệ dân sự phải thông qua đại diện của
hộ gia đình mà pháp luật gọi là “chủ hộ”. Chủ hộ là người đại diện cho hộ trong các
GDDS vì lợi ích chung của hộ ( chuyển quyền sử dụng đất, mua bán vật tư sản
phẩm..). Khi tham gia vào giao dịch dân sự, chủ hộ đại diện cho hộ gia đình không cần
có sự đồng ý của các thành viên nếu mục đích giao dịch phục vụ lợi ích chung của cả
hộ.
* Trường hợp thứ sáu là tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác:
- Theo Điều 111 BLDS, tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có
chứng thực của UBND cấp cơ sở của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản,
công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và chịu trách nhiệm
là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự.
- Tổ hợp tác hoạt động thông qua đại diện của tổ. Đại diện của tổ là tổ trưởng do các tổ
viên bầu ra. Theo đó, tổ trưởng sẽ nhân danh tổ xác lập, thực hiện các giao dịch dân
sự phù hợp vơi mục đích hoạt động của tổ, trong phạm vi những công việc đã được
ghi nhận trong hợp đồng hợp tác làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ. Tuy nhiên
khoản 2 Điều 114 BLDS quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ
hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa
số tổ viên đồng ý” thì hành vi của người đại diện mới phát sinh quyền và nghĩa vụ cho
cả tổ. Nhưng xét theo nguyên tắc chung về chủ thể, cũng như về đại diện theo pháp
luật, thì tổ trưởng là người đại diện cho tổ thì họ có quyền thực hiện các giao dịch mà
không cần sự đồng ý của đa số các thành viên, miễn là giao dịch đó phù hợp với công
việc và lợi ích của tổ.
2. Đại diện theo ủy quyền.
a. Khái niệm:
8