Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Pháp luật quốc tế về chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.43 MB, 136 trang )

IT“
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Long
PHÁP LUẬT QUỐC TÊ VỂ CHỐNG KHỦNG B ố ,
MÔT SỐ VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ THựC TIÊN
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số :50512
LUẬN VÃN THẠC sĩ LUẬT HỌC
• • • •
Người hướng dẫn khoa học:
Luật sư, TS. Hoàng Ngọc Giao
GVC Khoa Luật, Đại học Quốc giơ Hà N ội
CẠ! HOC o u ô ’c GIA ! ;A >iộì
TRÚN6TÂ,.; THÒNG ĩ!* : Viậ.
Hà Nội, 2003
Pháp luật Quốc tô' vổ chống khủng bố, một số vấn đổ lý luận và thực tlẫn
MỤC LỤC
Mục lụ c i
Danh mục các hộp, biểu iv
Ký hiệu chữ viết tắ t V
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu để tà i 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tà i 3
4. Giới hạn của để tà i 4
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 4
7. Kết cấu của đề tài 5
PHẦN THỨ HAI


Chương 1
K H Á I N IỆ M V Ề K H Ủ N G B ố V À
P H Á P L U Ậ T Q U Ố C T Ế V Ê C H Ố N G K H Ủ N G B ố
1.1. Tổng quan về khủng bố 6
1.1.1. K h ái niệm khủng b ố 6
1.1.1.1. Định nghĩa
.
6
1.1.1.2. Đặc điểm
.

24
1.1.1.3. Phân loại 28
1.1.2. Lược sử khủng bô 29
1.1.2.1. G iai đoạn trước thập niên 1960
29
1.1.2.2. Giai đoạn từ thập niên 1960 đến năm 2001 30
1.1.2.3. Giai đoạn sau năm 20 01 31
1.2. Lịch sử lập pháp quốc tế về chống khủng b ô 32
1.2.1. K h ái niệm luật pháp quốc tế về chống khủng bô 32
1.2.1.1. Định nghĩa 32
Pháp luật Quốc tê về chông khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn
1.2.1.2. Lịch sử hình thành 33
1.2.1.3. Nguồn 36
1.3. Kết chương 36
Clnrơng 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỂ CHỐNG KHỦNG B ố
2.1. Các nguyên tắc cơ bản 38
2.1.1. Các nguyên tác chung r


39
2 .1.1.1. Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
39
2.1.1.2. Nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ bằng vũ lực trong
quan hệ quốc tế 42
2.1.1.3. Nguyên tắc hoà bình giải quyết tranh chấp quốc tế

44
2.1.1.4. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác

46
2.1.1.5. Nguyên tắc tận tâm thực hiện nghĩa vụ theo luật quốc tế
49
2.1.1.6. Nguyên tắc dân tộc tự quyết 49
2.1.1.7. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau

50
2.1.2. Các nguyên tác đăc th ù 50
2.1.2.1. Pháp luật chống khủng bố và các biộn pháp chống khủng bô'
không được phép vi phạm hay hạn chế các quyền con người cơ bản

50
2.1.2.2. Nguyên tắc Aut derede, aut judicare 52
2.2. Các quy định pháp luật quốc tê' về phòng ngừa khủng bô

54
2.2.1. Khái q uá t 54
2.2.2. Các biện pháp và hoạt động phòng ngừa khủng bố quốc tế íheo
pháp luật quốc tê 55
2.2.2.1. Trao đổi thông t in 55

2.2.22. Biện pháp hành chính và hình sự 55
2.3. Các quy định pháp luật quốc tế về trừng trị khủng b ố

59
2.3.1. Khái 5()
2.3.2. Quy định PLQT về những hành vi bị coi là khủng bô quốc tế

59
I
Pháp luật Quốc tô' Vể chống khủng bố, một 8Ố vấn đế lý luân và thực tlển
2.3.3. Qtìy định PLQT về hợp tác giữa các QG để trừng trị khủng b ố

62
2.3.3.1. Xác lập và thực thi quyền tài phán
62
2.3.3.2. HỖ trợ trong các hoạt động, thủ tục để trừng trị khủng bố quốc tế

64
2.4. Thực tiễn thực thi pháp luật quốc tê về chống khủng b ố 67
2.4.1. Ký k ết 68
2.4.2. Thực h iện 69
2.4.2.1. Việc ban hành, sửa đổi các quy định pháp luật trong nước
71
2.4.2.2. Việc đảm bảo thực hiện 72
2.5. Khuynh hướng phát triển của pháp luật quốc tế về chống khủng bố
sau ngày 11/9/2001 72
2.6. Kết chương 76
Chương 3
VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG B ố
3.1. Việt Nam thực hiện pháp luật quốc tế về chống khủng b ố 78

3.1.1. Việc ký kết các điều ước quốc tế về chống khủng bố 79
3.1.1.1. Gia nhập các điều ước 79
3.1.1.2. Chuẩn bị gia nhập các điều ước 81
3.1.2. Việc thực thi các cam kết quốc t ế 81
3.1.2.1. Khái niệm pháp lý về khủng bô' 81
3.1.2.2. Các quy định về ngăn ngừa khủng b ố 84
3.1.2.3. Các quy định về trừng trị các hành vi khủng bố 94
3.1.3. Hướng hoàn thiện khung pháp luật trong nước
về chống khủng bô quốc tế trong tình hình m ới 98
3.2. Kết chương 99
PHẦN BA: KẾT LUẬN 101

Phụ lục 1 Dự thảo Công ước toàn diện về chống khủng bố quốc t ế

105
Phụ lục 2 Các vãn bản pháp luật của Việt Nam có đề cập đến khủng b ô

118
Danh mục Tài liệu tham khảo 126
Pháp luật Quốc tế về chống khủng bố, một số vấn đẽ lý luận và thực tiễn
DANH MỤC CÁC H 0 p , BI Ë ư
H ộ p
Hộp 1: Một số định nghĩa về khủng b ố 8
Hộp 2: Các điều ước quốc tế về chống khủng bố và các nước ký kế t

68
Hộp 3: Tội khủng bố và các tội phạm có liên quan 83
Hộp 4: Các điều ước song phương về tương trợ tư pháp hình sự mà Việt Nam đã ký kế t 93
BIỂU
Biểu 1 : Số lượng các vụ không tặc từ năm 1975 - 2000 30

>
Biểu 2: Tổng số các vụ khủng bố quốc tế từ năm 1981 - 2001
32
Biểu 3: Số vụ khủng bố quốc tế theo vùng từ năm 1995 -2000 33
- iv -
Pháp luật Quốc tô' về chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn
KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
APEC
Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á Thái Dinh Dương
ASEAN
Hiệp hội các nước Đỏng Nam Á
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tỏ'lụng Hìnli sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
C ư
Công ước
ĐHĐ
Đại hội dồng
HĐBA
Hội đổng bào an
HQNT
Hậu quà nghiêm trọng
k.
Khoản
LHQ
Liên hợp quốc
ND

Nhân dân
NĐT
Nghi địnli thư
NHNN
Ngân hàng nhà nước
NLTNHS
Năng lực trách Iilìiệm hình sự
NN
Nhà nước
NXB
Nhà xuất bản
OAS
Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
OAU
Tổ chức tliống nhất châu Phi
PLQT
Pháp luật quốc tế
QĐND
Quân đội nhân dân
QG
Quốc gia
QS
Quân sự
SNG
Cộng đồng các quốc gia dộc lập
TA
' T ' \ *
Toà án
TC
Tối cao

TCTD
Tổ chức tín dụng
TTK
Tổng thư kỷ
VK S
Viện kiểm sát
XH CN
Xã hội chủ nghĩa
- V -
Pháp luật Quốc tế Vể chống khủng bố, một số vân để lý luận và thực tỉễn
PHẦN Mỏ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CÙA ĐỂ TÀI
Khủng bố quốc tế từ lâu đã được xem là nguy cơ đối với an ninh đối nội và đối
ngoại của mọi quốc gia. Các vụ khủng bô' ngày 11/9/2001 và cuộc chiến toàn diện
chống khủng bố của Mỹ đã khiến cho vấn đề khủng bố trở thành một trong những
mối quan tâm hàng đầu của công chúng hiện nay.
Với cộng đồng quốc tế, khủng bố quốc tế thực sự là mối đe doạ an ninh chính trị và
kinh tế toàn cầu. Với mỗi quốc gia, khủng bố là mối hiểm hoạ đối với an ninh chính
trị-kinh tế-xã hội. Chống khủng bố quốc tế là công việc đòi hỏi phải có sự phối hợp
giữa các quốc gia và sử dụng nhiều phương thức tổng hợp. Một trong những phương
tiện hiệu quả chống khủng bố là pháp luật. Chính vì vậy, ngay từ những năm 60,
những công ước quốc tế đầu tiên về chống các hành vi khủng bố máy bay, bắt cóc
v.v. đã được các quốc gia ký kết. Cho đến nay, đã có khoảng 12 điều ước quốc tế
phổ câp, 7 điều ước quốc tế khu vực và hàng chục điều ước quốc tế song phương về
hợp tác chống khủng bố. Sau sự kiện 11/9 một sô' điều ước quốc tế khác đang được
Liên hợp quốc soạn thảo.
Việt Nam là một thành viên của cộng đồng quốc tế và không nằm ngoài mối đe doạ
tiềm tàng của chủ nghĩa khủng bô' quốc tế1. Việc tham gia hợp tác cùng cộng đổng
quốc tế trong cuộc đấu tranh chung là cần thiết cho sự ổn định lâu dài của nước nhà.
Nhận thức được điều đó, chúng ta đã ký kết 8 điều ước quốc tế về chống khủng bố.

Việc tiếp tục gia nhập vào các điều ước khác đang là một đòi hỏi cấp bách từ phía
cộng đồng quốc tế cũng như từ trong nước. Nghị quyết 1373 (2001) của HĐBA
LH Q và nhiều văn kiện khác của Đ H Đ LH Q kêu gọi các quốc gia thành viên nhanh
chóng ký kết 12 điều ước quốc tế phổ cập về chống khủng bố càng sớm càng tốt.
Đồi với trong nước, việc ký kết các điều ước quốc tế này cũng là một cơ sở để
chúng ta tiếp tục tiến trình hội nhập quốc tế và hoàn thiện pháp luật trong nirớc bảo
đảm chống khủng bô' hiệu quả. Sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001, Chủ tịch nước
Trần Đức Lương chỉ thị cho các bộ ngành khẩn trương nghiên cứu và trình Chủ tịch
1 Ngày 19/6/2001, Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan bị Võ Văn Đức cùng 3 tên khác đạt bom.
-1 -
Pháp luật Quốc tê vể chống khủng bố, một số vấn đề lý luận và thực tiền
nước về việc gia nhập các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Việt Nam chưa
ký kết. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta còn thiếu thống tin về mảng pháp luật quốc tế
quan trọng này. Các bài viết, nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hiếm. Tinh trạng
thiếu thông tin toàn diện về pháp luật quốc tế về chống khủng bố phổ biến cả trong
giới quan chức lân giới nghiôn cứu và cả xã hội nói chung. Tình trạng này làm cho
việc nghiên cứu pháp luật quốc tế vổ chống khủng bố trở thành một nhu cầu cấp
thiết hiện nay ở Việt Nam.
Việc Mỹ dùng tên lửa hành trình bắn vào Sudan và Afghanistan với cớ trả đũa các
vụ đánh bom khủng bố Đại sứ quán Mỹ' và tàu chiến M ỹu và đặc biệt là việc Mỹ tấn
công Afghanistan, coi chiến tranh xâm lược Iraq là đỉnh cao của cuộc chiến chống
khủng bố, đe doạ tấn công Syria và Lebanon với lời cáo buộc là các quốc gia này
ủng hộ khủng bố V.V., việc Thủ tướng Australia tuyên bố dành quyền đánh phủ đầu
và Mỹ đưa ra học thuyết về quyền đơn phương hành động đánh phủ đầu, ngăn chặn
từ xa [21, 2] đang đặt chúng ta trước nhiều câu hỏi cả về lý luận và thực tiễn: liệu
pháp luật quốc tế về chống khủng bố có quy định nào cho phép tấn công một quốc
gia có chủ quyền với cái cớ chống khủng bố? Liệu chống khủng bố có vượt trên
nguyên tắc chủ quyền quốc gia, một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của pháp
luật quốc tế? Viộc M ỹ áp dụng pháp luật quốc tẽ1" nói chung và pháp luật quốc tế về
chống khủng bố nói riêng đã đúng chưa? Họ có lạm dụng pháp luật quốc tế về

chống khủng bố để phục vụ cho các mục đích chính trị không? Đâu là pháp luật
quốc tế chân chính chống khủng bố và đâu là sự lạm đụng pháp luât quốc tế về
chống khủng bố? Các câu hỏi này có thể được giải đáp phần nào qua việc nghiên
cứu khoa học các quy định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Đây là một lý
do để đề tài này được thực hiện.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỂ TÀI
ở Việt Nam, như ở mục 1 đã nêu, các nghiên cứu chuyên khảo về pháp luật quốc tế
chống khủng bố khá hiếm. Mới chỉ có một số nghiên cứu ban đầu về các công ước
‘ Đại sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania bị đánh bom vào năm 1998.
" Tàu khu trục ứss Cole bị đánh bom tại hải càng Yêmen năm 2000.
m Khi tiến công Áp-ga-nít-tan, Mỹ đã viện dẫn điểu 51 Hiến chương LHQ về quyền tự vệ chính đáng.
- 2 -
Pháp luật Quốc tê' về chống khủng bố, một số vấn đề lý luận và thực tiễn
chống khủng bố trong lĩnh vực hàng không, luật hình sự, một s ô ' bài viết hội thảo về
khủng bố V.V Hiện vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ một luận văn
về khung pháp luật quốc tế vể chống khủng bố, các nội dung của các điều ước quốc
tế, pháp luật trong nước về chống khủng bố quốc tế V.V
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM vụ NGHIÊN cứu CỦA ĐỀ TÀI
■ ' ■ I
Mục đích: trên cơ s ở làm sáng tỏ những nội dung của luật quốc tế về chống khủng
bố và một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng trong những năm qua, đề tài
hướng tới mục tiẽu lấp phần nào khoảng trống nghiên cứu, lỗ hổng thông tin về lĩnh
vực này ở Việt Nam. Đề tài cũng phải giải quyết một số câu hỏi về lý luận và thực
tiễn trong việc sử dụng pháp luật quốc tế về chống khủng bố trong tình hình hiện
nay để qua đó, góp phần nào đó trong việc hình thành một chính sách và thái dộ
khoa học khách quan trong hoạt động hợp tác chống khủng bố quốc tế, với pháp
luật quốc tế về chống khủng bố ở nước ta.
Nliiệm vụ: Đề tài tập trung làm sáng tỏ các vấn đề sau:
+ Khung pháp luật quốc tế về chống khủng bố, nội dung các điều ước quốc tế
chủ yếu về chống khủng bố: những ưu điểm và những thiếu sót.

+ Phương hướng phát triển của pháp luật quốc tế về chống khủng bố trong tình
hình mới, đặc biệt xoay quanh các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế
trong hoạt động chống khủng bố, vấn đề định nghĩa khủng bố và việc ký
kết một công ước toàn diện về chống khủng bố.
+ Những vấn đề đạt ra cho Việt Nam: xay dựng, gia nhâp và thực thi các điều
ước quốc tế về chống khủng bố, hoàn thiện khung pháp luật trong nước về
chống khủng bố.
4. GIỚI HẠN CỦA ĐỂ TÀI
Trong phạm vi một luận vãn thạc sỹ và tình hình nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam,
đề tài tập trung vào nghiên cứu những nội đung pháp lý cơ bản nhất của pháp luật
quốc tế vẻ chống khủng bố (khung pháp luật về chống khủng bố trong đó tập trung
vào các điều ước quốc tế phổ cập; thực trạng tình hình thực thi các điều ước v.v. và
có sự liên hệ với tình hình ở Việt Nam). Hướng phát triển của pháp luật quốc tế về
- 3 -
Pháp luật Quốc tô' về chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn
chống khủng bố trong mối tương quan với vấn đề chủ quyền quốc gia cũng nằm
trong phạm vi nghiên cứu của để tài.
Những vấn đề về chính trị - xã hội liên quan đến khủng bố, những công cụ chống
khủng bố khác, mối quan hệ giữa khủng bố và các tội phạm quốc tế, tội phạm
xuyên quốc gia, vấn đề tư pháp hình sự quốc tế v.v. không nằm trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu ĐỀ TÀI
Đỏi tượng nghiên cứu
Các quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố, tập trung chủ yếu trong các
điều ước quốc tế phổ cập về chống khủng bố, là đối tượng nghiên cứu chính. Bôn
cạnh đó, để bổ trợ cho việc nghiên cứu các quy phạm nêu trên, nhiều quy định khác
của pháp luật quốc tế có liên quan và pháp luật chống khủng bố của một số quốc
gia cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Phù hợp với giới hạn và đối tượng nghiên cứ nêu trên,
phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là các phương pháp phân tích-tổng

hợp, so sánh v.v. trong đó, phương pháp phân tích quy phạm là cơ bản. Nền tảng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật là kim
chỉ nam trong đề tài.
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THựC TIÊN CỦA ĐỂ TÀI
Đề tài là một nghiên cứu bước đầu về một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của đề tài sẽ là một tư liệu cho việc tham khảo khoa học trong nghiên
cứu pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc tế về chống khủng bố nói riêng.
Một sô' câu hỏi thực tiễn và lý luận về pháp luật quốc tế về chống khủng bố cũng
được đề cập trong đề tài. Đề tài cũng gợi mở những vấn đề lý luận cần tiếp tục
nghiên cứu và đi sâu thêm, về thực tiễn, đề tài sẽ đóng góp phần nào trong việc
thúc đẩy tiến trình Việt Nam gia nhập vào các điều ước quốc tế về chống khủng bố,
hình thành thái độ khoa học khách quan đối với hoạt động khủng bố và chống
khủng bố, hoạch định và hoàn thiện pháp luật trong nước về chống khủng bố V.V
-4-
Pháp luật Quốc tê' vé chống khủng bố, một số vấn đế lý luận và thực tlển
7. KẾT CẤU CỦA ĐỂ TÀI
Luận văn có cấu trúc gồm ba phẩn.
Phán thứ nhất trình bày những nội dung cơ bản về tính cấp thiết, mục đích, phạm vi,
phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Phán thứ hai trình bày những nội dung chính của để tài gồm ba chương:
- Chương I: Trình bày những vấn đề chung mang tính tổng quan về khủng bô'
quốc tế và pháp luật quốc tế về chống khủng bố: khái niệm, lịch
sử hình thành V.V
- Chương II: Tập hợp hoá các quy định cụ thể của pháp luật quốc tế về chống
khủng bô' trong tập quán pháp, trong các điều ước quốc tế. Nghiên
cứu nội dung khung pháp luật quốc tế về chống khủng bố, thực
tiễn áp dụng chúng, những thành tựu và khiếm khuyết có thể có,
hướng phát triển V.V Trên cơ sở nghiên cứu những nội (lung như
vậy, đề tài đi sâu phân tích tính pháp lý của các vấn đề thực tiễn
hiộn nay như hành động khủng bô' ngày 11/9/2001, các hành động

trả đũa, cuộc chiến chống khủng bô' của Mỹ V.V
-Chương III: Tìm hiểu quá trình Việt Nam gia nhập và thực thi các điều ước
quốc tế về chống khủng bố và thái độ của ta trước các vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp lý về khủng bố quốc tế và chống khủng bô'
quốc tế.
Phán thứ ba là kết luân với những đề xuất để hoàn thiện pháp luật quốc tế cũng như
pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực chống khủng bố quốc tế.
Cuối luận văn là các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
-5-
Pháp luật Quốc tế vế chống khủng bố, một số vấn đề lý luận và thực tỉển
PHẦN THỨ HAI
Chương 1
KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG Bố VÀ
PHÁP LUẬT QUồC TẾ VỂ CHÔNG KHỦNG Bố
1.1. TỔNG QUAN VỀ KHỦNG BỐ
1.1.1. KHÁI NIỆM KHỦNG BỐ
1.1.1.1. Định nghĩa
Đ i đến một định nghĩa chung về khủng bố đã, đang và vẫn là một vấn đề lý luận và
thực tiễn đối với tất cả các quốc gia từ khi có khủng bô' đến nay. Vụ khủng bố 11/9
chỉ xới lại một vấn đề tưởng chừng như đã bị chìm đi trong cơn lốc toàn cầu hoá
kinh tế. Khi các vụ khủng bố này xảy ra, nhân loại đã bừng tỉnh khi nhân ra cùng
với toàn cầu hoá vể kinh tế, bạo lực (trong đó có khủng bố) cũng được toàn cầu hoá.
Hiện có tới 12 điều ước phổ cập và 7 điểu ước khu vực trực tiếp liên quan đến
khủng bô' nhưng không có văn kiện nào đưa ra được một định nghĩa thống nhất vé
khủng bố. Việc cộng đồng quốc tế chưa thể đi đến một điều ước quốc tế toàn điện
về chống khủng bố một mặt phản ánh sự khó khăn của việc định nghĩa nhưng mặt
khác quan trọng hơn, phản ánh nhu cầu cần phải có một định nghĩa thống nhất để
chống khủng bố có hiệu quả hơn.
Mọi người đều biết khủng bố tồn tại, nhưng ít ai có thể đi đến thống nhất nó là cái gì.
Bộ sách mới đây viết về những nỗ lực của L H Q và các tổ chức quốc tế khác gồm 3

tập, 1866 trang cũng không đi đến một kết luận chắc chắn nào [42, 1]. Và người Mỹ
nói "không có một định nghĩa nào về khủng bố được thừa nhận rộng rãi" [51, 13].
Nhìn chung các học giả nghiên cứu về định nghĩa khủng bố chia ra thành hai
khuynh hướng: khuynh hướng không cẩn định nghĩa và khuynh hướng định nghĩa
theo mục đích.
Nhiều nhà nghiên cứu đều tin rằng không bao giờ đạt được một định nghĩa khách
quan và được quốc tế chấp nhạn về khủng bố. Khủng bô' đối với một người nhưng
lại là chiến sỹ đấu tranh vì tự do với một người khác. Việc sử dụng từ khủng bô' có
-6-
Pháp luật Quốc tô' vể chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiền
chủ ý chính trị nhằm biến kẻ thù, địch thủ của mình thành những kẻ bất lương đã
được người ta sử đụng rộng rãi. "Gán cho phe đối lập hay địch thủ là khủng bô' là
một tiểu xảo đã được thử nghiệm để biến họ thành những kẻ bất hợp pháp hoặc
thành những con quỷ" [26, 13]. Với những người theo trường phái này, vấn đề ai là
khủng bô' hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người sử dụng. Theo
quan điểm của trường phái này, chỉ cần cái gì nhìn trông giống như khủng hố, nghe
thấy giống như khủng bố và hành động giống như khủng bố thì là khủng bố.
Xét về bản chất, quan điểm này không đóng góp gì cho việc tìm hiểu một vấn đề vốn
đã rất khó. Trong mọi trường hợp, một quan điểm như vậy hoàn toàn không cần thiết
đối với cuộc tấn công chống khủng bố quốc tế. Và việc họ phân chia khủng bố thành
khủng bố "tốt" và "xấu", khủng bố trong nước và khủng bố quốc tế, khủng bố có thể
khoan đung và khủng bố không thể khoan dung cũng vậy. Tất cả sự phan chia này đều
phản ánh quan điểm chủ quan của người phân chia và chỉ thuần tuý là sự phân chia
chủ quan. Nó không giúp gl cho chúng ta trong viộc xác định đâu là khủng bố thật sự.
Đổng thời, có những người khác cho rằng cẩn phải có một định nghĩa về khủng bố,
nhưng định nghĩa đó phải phục vụ cho mục đích chính trị của riêng họ. Các quốc
gia bảo trợ các nhóm vũ trang đang cố gắng thuyết phục cộng đồng quốc tế đưa ra
định nghĩa theo hướng loại bỏ những nhóm cụ thể mà họ bảo trợ ra khỏi phạm vi
định nghĩa và như vậy sẽ miễn trách nhiệm cho họ trong việc ủng hộ cho khủng bố.
Các quốc gia như M ỹ, Anh, Syria, Lybia và Iran đang vận động cho một định nghĩa

theo đó, "những chiến sĩ đấu tranh cho tự do" sẽ được phép toàn quyền hành động
để thực hiện bất kỳ hình thức tấn công nào họ muốn bởi vì người ta có thể theo đuổi
một mục tiêu chính nghĩa bằng bất kỳ phương tiện gì.
Sau đây một số định nghĩa về khủng bố sẽ được đưa ra phân tích để minh chứng.
Định nghĩa của giới học giả
Nhiều học giả khắp thế giới cũng có nhiều trăn trở với vấn đề định nghĩa khủng bố
và đã đưa ra nhiéu định nghĩa khoa học vổ khủng bố.
Al-Tawhid, một học giả Hổi giáo đã định nghĩa "Khủng bố là hành động được thực
hiện nhằm đạt được mục tiêu vô nhân đạo và đồi bại, đe đoạ an ninh dưới bất kỳ
hình thức nào, xâm phạm các quyền được loài người và tôn giáo công nhận" [3. 7].
-7-
Pháp luật Quốc tế Vể chống khùng bố, một số vấn để lý luân và thực tiễn
Hộp 1: Một số định nghĩa vể khủng bố
Định nghĩa thông thường-, khủng bô' là bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo lực
nhằm gây ra sự sợ hãi hoặc thay đổi.
Định nghĩa pháp lý: khủng bố là tội phạm hình sự vi phạm các đạo luật và bị
nhà nước trìmg trị bằng hình phạt.
Định nghĩa phân tích: các yếu tố xã hội và chính trị ẩn dằng sau các hành vi
khủng bố.
Định nghĩa khủng bố nhà nước: là sức mạnh nhà nước sử dụng để khùng bố
nhân dAn phải khuất phục. [25, I]
Khủng bô' là sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực để đạt được sự thay đổi về
chính trị.
Brian Jenkins
Khủng bố là sử dụng vũ lực bất hợp pháp nhằm vào những người dân vô tội
để nhằm đạt được những mục tiêu chính trị.
Walter Laqueur
Khủng bố là thực hiện hoặc đe doạ thực hiện một cách có chủ ý, có tính toán
và có hệ thống việc giết hoãc làm bị thương những người dân vô tội nhằm
tạo ra sự sợ hãi và kinh sợ để giành được nhũng lợi ích chiến thuật hay lợi

ích chính trị và luôn nhằm gây ảnh hưởng đến công chúng chứng kiến.
Jame M. Poland
Khủng bô' là việc sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực đối với con người hoăc
tài sản nhằm đạt được các mục tiêu chính trị hay xã hội. Ý đồ của khủng hố
luôn là nhằm đe doạ và ép buộc chính quyển, các các nhân hoặc nhằm làm
thay đổi chính sách hay thái độ của các chủ thể đó.
Vice-President's Task Force, 1986
Khủng bố là viộc sử dụng vũ lực bất hợp pháp hoặc bạo lực nhằm vào con
người hoặc tài sản nhằm gây khiếp sợ hoặc ép buộc chính quyền, dan
thường hoặc một trong những mục đích đó để thúc đẩy những mục tiêu
chính trị hoặc xã hội.
Định nghĩa cùa FBI [34, 1 ]
Trong định nghĩa này, ông sử dụng từ "loài người" thay cho từ "quốc tế" với mục
đích đạt được sự đồng thuận hơn và để nhấn mạnh tính chất chung của loài người
trong định nghĩa. Tính từ "đồi bại" được bổ sung cho mục tiêu vô nhâp đạo, nghĩa
là, việc lây lan sự đồi bại trên trái đất và bao hàm yêu cầu ngăn ngừa những mục
tiêu như vậy. Các loại khủng bố khác nhau được thể hiộn trong đoạn "đe doạ an
ninh dưới bất kỳ hình thức nào". Hai tiêu chuẩn tôn giáo và loài người được ông đề
-8-
Pháp luật Quốc tô' vổ chống khủng bố, một số vấn đế lý luân và thực tlăn
cập đến. Tiêu chuẩn tôn giáo thể hiện sự kiên định với tín ngưỡng đạo Hồi và tiêu
chuẩn loài người thể hiện sự phổ quát hoá. Ông cũng lưu ý là một chiến dịch ác liệt
không phải là một tiêu chuẩn để đánh giá nó là một hành động khủng bố.
Định nghĩa của ông chưa đủ để phân biột đâu là khủng bố và đâu không phải là
khủng bô' nên ông đã phải liệt kê các hành động không thuộc phạm vi định nghĩa:
a. các hành vi của lực lượng kháng chiến quốc gia được thực hiện chống lại lực
lượng chiếm đóng, thực dân và phiến loạn cướp chính quyền.
b. sự kháng cự của dân chúng chống lại các phe cánh thiết lập sự thống trị bằng
vũ lực và vQ khí.
c. chống chế độ chuyên chế độc quyền và các hình thức chuyên chế khác, cũng

như những nỗ lực nhằm lật đổ chế độ đó.
d. kháng chiến chống phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử và những cuộc tấn
công vào thành trì của phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử.
e. Trả đũa bất kỳ cuộc xâm lược nào nếu như không còn con đường nào khác.
Ông cũng đưa ra loạt danh sách các trường hợp thuộc phạm vi định nghĩa gồm:
a. hành vi cướp trên đất liền trên biển cũng như trên không;
b. mọi chiến dịch thực dân bao gồm chiến tranh và chiến dịch quân sự;
c. mọi hành độc tài chống lại nhân dân và mọi hình thức bảo vệ chế độ độc tài,
bất kể đến những ách áp đặt trên các dân tộc;
d. mọi biện pháp quân sự đi ngược lại nhân tính, chẳng hạn như việc sử dụng
vũ khí hoá học, bắn pháo vào các khu vực có cư dân sinh sống, phá nhà dân,
chiếm đóng những vị trí dân sự.
e. mọi hình thức làm ô nhiễm môi trường văn hoá, địa lý và thông tin. Trên
thực tế, khủng bô' tri thức đang là loại khủng bố nguy hiểm nhất;
f. mọi biện pháp làm suy yếu gây tác động bất lợi cho điều kiện kinh tế quốc tế
hoặc quốc gia, tác động bất lợi tới người nghèo và túng quẫn, đào sâu hố
ngăn cách giữa các dân tộc bằng những rào cản kinh tế xã hội và trói buộc
các dân tộc bằng những món nợ quá đáng;
g. mọi hành vi lén lút nhằm cản trở con đường độc lập tự do của các quốc gia
và áp đặt những điều ước bất bình đẳng;
Cách định nghĩa này mang nặng tính chủ quan và mang tính chính trị rõ nét. Định
nghĩa mở rộng khái niệm khủng bố sang cả hành động xâm lược, thực dân v.v. vốn
- 9 -
Pháp luật Quốc tê vể chống khủng bố, một 3ố vấn để lý luận và thực tiễn
từ lâu đầ bị nhân loại coi là tội ác chiến tranh, xâm lược, tội diệt chủng V.V., những
tội ác còn đáng lên án hơn cả khủng bố. Từ góc độ pháp luật, việc gọi các tội ác này
ià khủng bố vô hình chung đã giảm nhẹ tính chất nghiêm trọng của chúng.
Trong cuốn sách “Political terrorism” (Chủ nghĩa khủng b ố chính trị) (1983), Alex
Schmid đã khíảo hơn 100 học giả và chuyên gia trong lĩnh vực này đổ tìm đến một
định nghĩa về khủng bố. Phân tích của ông đã tìm ra 2 đặc trưng lớn của định nghĩa:

thứ nhất, làm cho ai đó bị khiếp sợ và thứ hai, việc xác định một hành vi khủng bố
căn cứ vào mục tiêu và nạn nhân của nó. Phân tích của ông đã đi đến kết luận về
những điểm chung trong hơn 100 định nghĩa được khảo. Các điểm chung đó là:
- Khủng bô' là một khái niệm trừu tượng và không thực tế.
- Một định nghĩa duy nhất không thể phù hợp cho tất cả các tình huống sử
dụng của thuật ngữ này.
- Nhiều định nghĩa khác nhau có chung nhiều yếu tố.
- Viộc xác định khủng bố thường dựa vào nạn nhân bị tấn công.
[24, 1].
Trong cuốn sách mới đây "Inside terrorism” (Bên trong khủng bố) (1998), Bruce
Hoffman cho rằng khủng bố về cơ bản là bạo lực có ý thức, chuẩn bị sử đụng hoặc
sử dụng bạo lực để đạt mục đích của mình. Ông cũng phân biệt khủng bố với các
loại tội phạm khác. “Chúng ta có thể đánh giá khủng bố là:
bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo lực
- với mục tiêu và động cơ chính trị
- được dàn dựng để đạt đến những tác động tâm lý sâu rộng không chỉ đối
với những nạn nhân trực tiếp của cuộc tấn công
- do một tổ chức với mạng lưới thống nhất điều khiển hoặc cấu trúc mạng
bí mật (thành viên không sử dụng đồng phục hay các dấu hiệu nhân
dạng) tiến hành; và được thực hiện bởi một nhóm phi quốc gia hoặc một
thực thể phi quốc gia.
[24,1]
Định nghĩa này đã nêu được những tính chất cơ bản của khủng bô' và gần như tưưng
tự với định nghĩa của Boaz Ganor, Giám đốc Viện chính sách quốc tế về chống
khủng bố, “khủng bố là sự sử dụng có chủ ý hay đe đoạ sử dụng bạo lực chống lại
thường dân hoặc những mục tiêu dAn sự nhằm đạt được mục đích chính trị” [8].
- 10-
Pháp luật Quốc tê' vể chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tlển
Định nghĩa của Anh vổ Liên minh châu Âu
Luật Tái bảo hiểm 1993 của Anh định nghĩa: "khủng bô' là bất kỳ hành vi nào do

bất kỳ ai thực hiện nhân danh hay có liên quan tới bất kỳ tổ chức nào với các hoạt
động nhằm lật đổ hoặc gây ảnh hường với chính quyền de jure (hợp pháp) hay de
facto (thực tế) bằng cách sử dụng vũ lực hay bạo lực" [19, 1], Tiếp theo, Luật chống
khủng bố năm 2000 của Anh định nghĩa khủng bố "là việc sử dụng hay đe doạ sử
dụng: (a) bạo lực nhầm vào con người hay gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản
hay gây nguy hiểm đối với tính mạng của người khác ngoài người thực hiên hành
động đó hay gây nguy hại đối với sức khoẻ hay an toàn của công chúng hoặc một
bộ phận công chúng hay nhằm gây trở ngại hoặc phá huỷ hệ thống điện; và (b) sử
dụng hoặc đe doạ sử dụng nhằm gây ảnh hưởng với một chính quyền hay để hăm
doạ công chúng hoặc một bộ phận công chúng; và (c) sử dụng hoặc đe doạ sử dụng
nhằm mục đích thúc đẩy mục tiêu tư tưởng, tôn giáo hay chính trị" [19, 1], [36, 10].
Điều 2 Sắc lệnh sô' 3365 nãm 2001 của Anh định nghĩa khủng bố là việc tấn công
hoặc đe doạ tấn công nhằm gây ảnh hưởng tới chính quyền hoặc đe đoạ công chúng
hoặc một bộ phận công chúng nhằm hướng vì những lý do tôn giáo, chính trị hoặc
lý tưởng. Những cuộc tấn công như vây bị coi là khủng bố nếu gây ra bạo lực
nghiêm trọng đối với một người hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản
hoặc gây nguy hiểm cho sinh mạng người khác, gây ra mối nguy hiểm lớn đối với
sức khoẻ, an toàn của công chúng hoặc một bộ phận công chúng hoặc nhằm gây trở
ngại lớn hoặc gây sự cố cắt đứt hệ thống điộn [37, 3] .
Định nghĩa luôn đi kèm với một danh sách các tổ chức khủng bố được cập nhật
thường xuyên bằng các đạo luật.
Hiộn danh sách của Anh có 21 nhóm tổ chức khủng bô' quốc tế. Thành viên của các
tổ chức này là bất hợp pháp theo luật Anh. Trong đó có 6 nhóm hồi giáo, 4 nhóm
chống Israel, 8 nhóm ly khai và 3 nhóm đối lập. Danh sách này bao gồm cả
Hizbullah, một chính đảng hợp pháp ở Lebanon, có đảng viên được bầu vào Quốc
hội Lebanon.
Nhìn vào danh mục các tổ chức ly khai trong danh sách của người Anh, Đảng Công
nhân người Cuốc hoạt động ở Thổ Nhĩ K ỳ bị nêu tên nhưng Đảng KD P (hay PƯK,
-11 -
Pháp luật Quốc tô' vể chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn

là các tổ chức của người Cuốc hoạt động ở Iraq) lại không bị nêu tên mặc dù tôn chỉ
mục, đích hoạt động của 2 đảng này không khác nhau. Trong số các nhóm đối lập,
Đảng Nhân dân Mujahedeen Iran có tên trong khi Đảng Nhân dân Mujahedeen ở
Iraq lại không có tên. Trên thực tế, đảng này còn được nhận tài trợ của Mỹ [33; 3].
Việc ban hành những danh sách như vậy ít nhất cũng làm nổi bật lên sự không bình
thường và không nhất quán ẩn sau các đạo luật chống khủng bố của Anh. Nó cũng
làm người ta nghĩ tới một định nghĩa đem giản hom và có lẽ thành thực hơn: khủng
bô' là bạo lực do những kẻ nước Anh không tán thành thực hiện. Định nghĩa và sự
giải thích, áp đụng nó phản ánh bản chất chính sách hai tiêu chuẩn của của người
Anh. Định nghĩa và sự giải thích áp dụng tính thiếu tính khách quan như vậy không
mang tính khoa học và không đóng góp được gì nhiểu cho công cuộc chống khủng
bố trên toàn thế giới, ngược lại nó còn có thể gây những tác động trái ngược làm
tình hình khủng bô' thêm phức tạp và trầm trọng.
Một định nghĩa có tính chất khách quan hơn một chút được các doanh nghiệp bảo
hiểm Anh đưa ra trong điều khoản loại trừ bảo hiểm khủng bố NM A2920: " các
hành vi - không chỉ giới hạn trong việc sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực - của bất
kỳ cá nhân, hay các nhóm thực hiện đơn lẻ hay nhân danh hoặc có liên hệ với bất
kỳ tổ chức hay chính quyền nào, được thực hiện vì các mục đích chính trị, tôn giáo,
ý thức hệ hay những mục đích tương tự với ý đồ gây ảnh hưởng tới bất kỳ chính phủ
hay đạt công chúng hoặc một bộ phận công chúng vào tình trạng hoảng sợ" [19, 1 ].
Định nghĩa do các Bộ trưởng tư pháp Liên minh châu Âu đưa ra tháng 12/2001 đã
mô tả khủng bố là các hành vi "nhằm gây mất ổn định hoặc phá hoại nền tảng xã
hội, kinh tế, hiến pháp hay chính trị cơ bản của quốc gia" [32]. Định nghĩa này rõ
ràng là quá đơn giản, mang nhiều tính chính trị. Nó khó có thể được chấp nhận rộng
rãi vì nó chứa đựng nhiều khả năng đánh đồng chiến tranh du kích với khủng bố.
Một số thành viên Liên minh châu Âu cũng chưa hoàn toàn nhất trí với điều này.
Định nghĩa của M ỹ
Với lập luận “không có định nghĩa khủng bô' nào nhận được sự thừa nhận rộng rãi”
[23, xvi], Bộ Ngoại giao Mỹ đã lấy định nghĩa trong Mục 22 Bộ luật Liên bang
-1 2 -

Pháp luật Quốc tế vé chống khủng bố, một *ô' vấn để lý luận và thực tiỗn
đoạn 2656f(d) về khủng bô như sau: "là hành vi bạo lực có chủ ý và mục đích chính
trị nhằm vào các mục tiêu không tham chiến* do một nhóm vô chính phủ/tiểu quốc
gia hoặc các tổ chức bí mật tiến hành và luôn nhằm mục đích gây ảnh hưởng tới
những người chứng kiến" "khủng bố quốc tế là khủng bô' nhằm vào công dân hoặc
lãnh thổ từ hai quốc gia trở lên". Nhóm khủng bố được định nghĩa là nhóm thực
hiện hoặc có những nhóm nhỏ quan trọng thực hiện hành động khủng bố” [23, xvi].
Định nghĩa về khủng bố này của Mỹ còn có nhiều khiếm khuyết và một mưu đồ
chính trị. Khiếm khuyết lớn nhất là nó chỉ định nghĩa khủng bố là các nhóm và loại
hẳn viêc khủng bô' do cá nhân đơn lẻ tiến hành. Mưu đồ chính trị lớn nhất là nó mở
rộng phạm vi khái niệm khủng bố tới mức tối đa, bao trùm lên cả các hoạt động
chiến tranh du kích. Khi đưa ra định nghĩa khủng bô' là các hành vi bạo lực có chủ ý
nhằm vào các mục tiêu không tham chiến (non-combatant), chính phủ Mỹ đã gộp
cả các hành vi tấn công vào các quan chức quân sự và an ninh ngoài thời gian thực
hiện công vụ, các mục tiêu phục vụ cho quân đội nhưng hiện trong trạng thái không
trực tiếp phục vụ cho quân đội là khủng bố. Và người Mỹ nêu VI dụ là vụ tấn công
vào tàu quân sự uss Cole tại cảng Aden, Yemen được coi là một vụ khủng bố cho
dù tàu này là tàu quân sự [23, xvi]. Trong khi đó, theo Điều 2 C Ư Rome 1988, tàu
chiến và các tàu phục vụ quân đội không thuộc phạm vi áp dụng của Công ước này.
Định nghĩa kiểu người Mỹ này không có tác dụng thực tế vì nó coi các cuộc tấn
công vào mục tiêu, nhân viên quân sự nhưng không tham chiến là khủng bố. Chúng
ta thông cảm với khuynh hướng tự nhiên của những người dễ bị tổn hại do khủng
bố, đã thông qua một định nghĩa rộng như vậy. Nhưng các tổ chức đấu tranh giải
phóng và những người bảo trợ họ có thể tuyên bố một cách đúng đắn rằng họ không
thể chỉ tấn công những nhân viên quân sự có vũ trang và sẵn sàng tấn công. Nếu họ
phải theo những tiêu chuẩn như vậy, họ sẽ bị mất đi yếu tố bất ngờ và sẽ nhanh
chóng bị đánh bại. Khi mở rộng định nghĩa khủng bố không chỉ bao gồm các cuộc
A Tài liệu chú giải “không tham chiến bao gổm dân thường, quân nhan không có vũ trang và/hoăc không
phải là dang ỉhin nhiệm vụ khi xảy ra sự kiện khủng bố” [22, xvi[0]]. Trong Chù nghĩa khùng bô: Đánh giá
mối đe doạ, biện pháp và chính sách đối phố, Tạp chí diện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, I I 1200Ị từ "non-

combatant" được người ta dịch là "dân sự". Cách dịch này chưa phản ánh chính xác được nội dung cùa từ đó.
Chúng tôi dịch là "không tham chiến" để thể hiện đúng với ý đổ của nguyên bản.
- 13-
Pháp luật Quốc tô’ Vể chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tlỗn
tấn Công CÓ chủ ý nhằm vào các mục tiêu dân sự, thực chất Mỹ đã đưa ra tiôu chuán
cường quyén vé cuộc "đánh nhau quân tử" giữa quân đội quốc gia và du kích, giữa
quân đội xAm lược, chiếm đóng và lực lượng kháng chiến. Đfly là điểu mà nhftn loại
tiến bộ không thể đổng thuận được. Ngay cả một số học giả M ỹ cũng không đồng ý
với định nghĩa kiểu này (xin xem Hộp 1). Định nghĩa này cũng phản ánh bản chất
hai mặt trong chính sách kiểu Mỹ vẻ khủng bố. Chúng ta vẫn còn nhớ "tháng Hai
2000, 119 thành viên quốc gia không liên kết hậu thuẫn cho một hội nghị quốc tế
mới để chống chủ nghĩa khủng bố. Mỹ từ chối, cho nó chẳng có "lợi ích thực tiễn"
[74, 25] chỉ vì hội nghị này có khả năng sẽ bàn đến việc phân biêt giữa chiến đấu
giải phóng và khủng bố, phân biệt giữa chủ nghĩa khủng bố nhà nước, xâm lược,
can thiệp vũ trang v.v. với tự vộ chính đáng, và quan trọng hơn hội nghị có thể bàn
đến các vụ không kích của Mỹ, Anh vào Iraq từ sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh
1991, của NA TO vào Nam Tư và của Israel vào người Palestine. Và chẳng bao lâu
sau, vụ 11/9 xảy đến. Chúng ta và nhân loại tiến bộ không đồng tình với cuộc tấn
công đó nhưng nhận thức rõ ràng được rằng, đó là kết quả tất yếu của một chính
sách cường quyền hai mặt của chính Mỹ, cường quốc sô' một nhưng không phải là
duy nhất sau thời chiến tranh lạnh.
Định nghĩa của các quốc gia Hồi giáo
Công ước Ouagandu 1999 chống khủng bố quốc tế của Tổ chức Hội nghị Hổi giáo
đã có một định nghĩa về khủng bố [Điều 1(2)], "bất kỳ hành động bạo lực hoặc đe
doạ sử dụng bạo lực bất kể với mục đích gì, hoặc có ỷ định chuẩn bị để tiến hành kế
hoạch cá nhân hay nhóm tội phạm có tổ chức nhầm gây hoảng loạn cho công chúng
hoặc đe doạ gây thiệt hại hoặc gây nguy hiểm cho sinh mạng, danh dự, tự do, an
toàn, quyền lợi, hoặc gây nguy hiểm cho môi trường hay bất kỳ thiết bị hoặc tài sàn
công cộng hoặc của cá nhân, gây nguy hiểm hoặc chiếm giữ hoặc cướp đoạt các đối
tượng đó, gây nguy hiểm cho các nguồn tài nguyên quốc gia hay cớ sỏ vật chất quốc

tể hoặc đe doạ sự ổn định, toàn vẹn lãnh thổ, sự thống nhất chính trị hoặc chủ
quyền độc lập của các quốc gia". Định nghĩa này chưa đủ để xác định đâu là khủng
bố, đâu là tội phạm khác nên các quốc gia ký kết nó đã đưa ra một danh mục các
hành vi cũng bị coi là khủng bố (gồm các hành vi được quy định trong 12 CƯ phổ
- 14-
Pháp luật Quốc tê' Vể chống khủng bố, một sô' vấn để lý luận và thực tiễn
cập, các hành vi xâm lược, các hành vi chống lại các quốc vương, hoàng gia, đại sứ,
phá huỷ, cướp phá tài sản, phương tiện giao thông vận tải V.V.). Như vậy, theo định
nghĩa, các hành vi xâm lược, tấn công quân sự v.v. cũng có thể bị coi là khủng hố.
Bên cạnh đó, định nghĩa cũng chưa phân biệt được khủng bố với các chiến dịch đấu
tranh giải phóng dân tộc nên các quốc gia ký kết cũng lại phải khẳng định trong CƯ
rằng các chiến dịch chống ngoại xâm, chiếm đóng, thực dân và bá quyền nhằm giải
phóng đân tộc và thực hiện quyén tự quyết dân tộc phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ
không bị coi là khủng bố. Rõ ràng, định nghĩa mang nhiều tính chất chính trị và
chưa phản ánh được bản chất của khủng bố. Chính vì vậy, nó chưa được sự đồng
thuận của tất cả các quốc gia Hổi giáo cũng như các quốc gia khác trong cộng đồng
quốc tế. Cho đến nay, mới chỉ có 6 nước ký, 3 nước phê chuẩn CƯ này trong khi nó
cần tới 7 nước phê chuẩn mới có hiệu lực.
Trong một nỗ lực mới nhất, ngày 02/4/2002, một hội nghị 57 quốc gia Tổ chức Hội
nghị Hồi giáo tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia, cũng không đi đến được thống
nhất về một định nghĩa khủng bố nhưng họ tuyên bố không chấp nhân việc coi cuộc
kháng chiến của người Palestine là khủng bố [20].
Định nghĩa của LHQ về khủng bô'
Xét về mặt pháp lý, LH Q là cơ quan có khả năng đưa ra được một định nghĩa khách
quan về khủng bô' hơn bất kỳ chủ thể nào khác. Nhưng Tổng thư kỷ LH Q cũng đã
phải thừa nhận việc đưa ra một định nghĩa về khủng bô' là một trong những vấn đề
khó khăn nhất đối với tổ chức quốc tế này nhưng đó là một khó khăn bắt buộc nó
phải vượt qua. Trước khi nhận giải Nobel về hoà bình, Tổng thư ký LH Q Kofi
Annan đã nói "Tôi hiểu và công nhận cần phải có sự rõ ràng về mặt pháp lý" [11,
1], Thực tế, trong suốt hơn 30 năm qua, LH Q cũng đã có nhiều nỗ lực để có được

một định nghĩa chung về khủng bố nhưng cũng chưa mang lại kết quả khả quan
nào. Trong tất cả các văn kiện pháp lý hiện hành của mình, LH Q chưa đưa ra được
một định nghĩa về khủng bố đo sự bất đổng chính trị giữa các quốc gia về việc phân
biệt giữa khủng bố và các phong trào giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, qua các văn
kiện pháp luật quốc tế về khủng bố, ta có thể tìm thấy những định nghĩa theo kiểu
ngầm định hay định nghĩa thực tế. Trong Công ước NewYork 1999, người ta đã gần
- 15-
Pháp luật Quấc tô' Vể chống khủng bố, một số vấn đổ lý luận và thực tiển
đi đến một khái niêm chung vé khủng bô' nhưng nó được thể hiện không chính thức
như một phẩn trong nội dung của hành vi tài trợ cho khủng bố. Theo điều 2 CƯ
NewYork 1999, việc tài trợ cho các hành vi sau sẽ bị coi là tội phạm:
'! - được quy định trong các CƯ Lahay 1970, CƯ Montreal 1971, CƯ
NevvYork 1973, C Ư NewYork 1979, C Ư Viên 1980, N Đ T Montreal
1988, CƯ Rome 1988, N Đ T Rome 1988, CƯ NewYork 1997, hoặc
- bất kỳ hành vi nào khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm
trọng đến thân thể thường dân hoặc bất kỳ người nào khác không tham
gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của
hành vi này là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc chính phủ hoặc tổ
chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành vi nào.
Gần đây, Báo cáo của Nhóm hoạch định chính sách của Liên hợp quốc về khủng bô'
đưa ra một định nghĩa khá chung về khủng bố “khủng bố là thực hiện hoặc có ý đồ
thực hiện hành vi xâm phạm các nguyên tắc pháp luật, trật tự, quyển con người và
nguyên tắc hoà bình giải quyết các tranh chấp quốc tế vốn là nền tảng tạo lập lên
thế giới" [26, 4]. Cách định nghĩa này xuất phát từ góc độ coi khủng bô' ià là mối
hiểm hoạ đe doạ tấn công vào các nguyên tắc nền tảng và sứ mệnh chính của Liên
hợp quốc. Tuy nhiên, chính những người đưa ra định nghĩa này cũng công nhận là
họ "không cố gắng đi đến một định nghĩa toàn điện về khủng bố" [26, 5].
Gần đây nhất, trong nỗ lực đi đến một công ước toàn diện về chống khủng bố, một
định nghĩa khủng bố đã được đưa ra thảo luận trong phiên họp thứ 6 và 7 của Uỷ
ban đặc biệt (thành lập theo Nghị quyết 51/210 của Đ H Đ LH Q phụ trách việc hài

hoà hoá pháp luật quốc tế về chống khủng bố) và trong các phiên họp thứ 57 của Uỷ
ban thứ Sáu (phụ trách về luật pháp). Định nghĩa này vốn nằm trong dự thảo Công
ước toàn diện về chống khủng bố do Ấn Độ đưa ra. Theo định nghĩa, khủng bố là tội
phạm do "bất kỳ người nào thực hiện một cách cô' ý và bất hợp pháp bằng bất kỳ
phương pháp nào, gây ra:
(a) tổn thất sinh mạng, gây thương tích nghiêm trọng cho bất kỳ người nào; hoặc
(b) gây thiệt hại nghiêm trọng tới tài sản của cá nhân, tập thể, bao gồm các địơ
- 16-
Pháp luật Quốc tế Vể chống khủng bố, một 8ố vấn để lý luận và thực tlẫn
điểm công cộng, các trang thiết bị cùa nhà nước hoặc chính phủ, hệ thống
giao thông công cộng, cơ sở hạ tầng hoặc môi trường; hoặc
(c) gây thiệt hại cho tài sản, các địa điểm, phương tiện hoặc các hệ thống được
nêu tại điểm (b) trên đây dẫn tới hoặc cố thể dẫn tới những thiệt hợi nghiêm
trọng về kinh tế
với mục đích hành động, được thể hiện ra trong bản chất hoặc trong hoàn cảnh
của hành động đó, là nhằm đe doạ công chúng hoặc buộc chính phủ hoặc tổ
chức quốc tế phải thực hiện lioặc không được thực hiện hành vi nàn dô' [27; 6].
Định nghĩa này đã nêu được những biểu hiện cơ bản của khủng bố là: gây thiệt hại
hoặc đe doạ gây thiệt hại về người và tài sản, với mục đích chính trị là nhằm đe doạ
công chúng hoặc ép buộc chính phủ hoãc tổ chức quốc tế phải thực hiôn hoặc
không được thực hiện hành vi nào đó. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa được sự đổng
thuận của các quốc gia. Nó chưa đủ cụ thể để phân biệt giữa khủng bố và các cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc vì đối tượng bị tấn công được nêu khá rộng " bất kỳ
người nào". Như vậy, các cuộc tấn công của đu kích vào lực lượng quan sự và
ngược lại cũng có thể bị coi là khủng bố.
Qua những phân tích trên, ta thể nhận thấy một thực tế là: mặc dù đã có rất nhiều
hội nghị, nhiều nỗ lực ở nhiều cấp độ từ quốc gia, khu vực tới quốc tế nhằm định
nghĩa khủng bô' nhưng nói chung đều không thành công vì những lý do sau:
- chưa cãn cứ vào những lợi ích chung của nhân loại mà thường trước tiên
căn cứ vào những lợi ích, đánh giá mang tính chính trị hẹp hòi;

- chưa xem xét tới môi trường làm phát sinh khủng bố cũng như động cơ
thực sự của khủng bố.
- chưa phân định rõ giữa các góc độ tiếp cận với khủng bố cụ thể. Từ những
góc độ tiếp cận khác nhau, cách hiểu khủng bố có thể rất khác nhau. Viộc
tiếp cận khủng bố từ góc độ pháp luật quốc tế về chống khủng bô' đòi hỏi
sự tách bạch với các góc tiếp cận khác, đặc biệt là với chính trị.
- Sự giải thích các nội đung của định nghĩa và áp dụng trên thực tế rất khác
nhau do sự khác nhau về mục đích chính trị.
Các khuynh hướng nêu trên đều sai lầm và làm cho cuộc chiến chống khủng bố
V
Pháp luật Quốc tô'-vổ chống khủng bố, một số vấn để lý luận và thực tiễn
không thể có hiệu quả. Một định nghĩa khách quan về khủng bố không những nằm
trong khả năng mà còn là cái khổng thể thiếu trong bất kỳ một nỏ lực nghiêm chỉnh
nào tấn công khủng bố. Không có một định nghĩa chung như vậy, người ta sẽ không
thể tiến hành phối hợp tấn công khủng bô' quốc tế ở bất kỳ nơi nào một cách thực
sự. Không có một định nghĩa thống nhất người ta khó có thể xây dựng được các
điểu luật về chống khủng bố. Vậy đâu là một định nghĩa pháp lý đúng đắn, khách
quan về khủng bố? Chắc chắn một định nghĩa khách quan về khủng bố phải là một
định nghĩa khoa học và độc lập với các định nghĩa của những người liên quan đến
khủng bố và cả những người liên quan đến chống khủng bố.
Chúng ta đi ngược thời gian về thời điểm lần đầu nhân loại sử dụng từ khủng bố.
Sự sử dụng từ "khủng bố", "kẻ khủng bố" được ghi nhận lại lần đầu tiên là vào năm
1795, liên quan đến Chính quyền Terreur (giai đoạn cách mạng Pháp diễn ra từ
tháng 9/1793 đến tháng 7/1794). Để tấn công thù trong giặc ngoài, chính quyền
Pháp do Ưỷ ban An ninh Công cộng lãnh đạo đã thiết lập một chế độ độc tài (rất
nhiều người đã bị toà án cách mạng kết án tử hình) và tiến hành các biện pháp kinh
tế hà khắc [45]. Tất nhiên, phái Gia-cô-banh, phái lãnh đạo chính quyển Pháp lúc
đó cũng là những nhà cách mạng nhưng họ lựa chọn một chính sách tàn bạo để cai
trị với các công cụ bắt giam, tra tấn, tịch thu tài sản, hành quyết v.v. để trấn áp và
kiểm soát xã hội. V à từ "terreur" (khủng bố) được người ta sử dụng để chỉ các hoạt

động bạo lực cách mạng nói chung. Việc sử đựng từ "kẻ khủng bố" theo nghĩa là kẻ
chống chính quyền chỉ được sử dụng từ năm 1878 -1881 bắt đầu từ nước Nga Sa
hoàng rồi lan ra châu Âu và Mỹ. Khái niệm này được người ta dùng để chỉ những
kẻ khủng bô' chống chính quyền với triết lý và lý tưởng vô chính phủ, phủ nhận nhà
nước, các đạo luật do nhà nước ban hành và tài sản của công dân. Các hành vi bạo
lực hoặc đe doạ như ám sát nguyên thủ quốc gia, các bộ trưởng hay các quan chức
chính phủ khác và các nhân vật chính trị hay thương nhân đanh tiếng, đánh bom,
phá hoại, cướp v.v. được các cá nhân, các nhóm sử dụng để đạt đến mục đích chính
trị bằng cách làm cho nhà nước và công chúng hoảng loạn, khiếp đảm.
Trong tiếng Việt, từ khủng bố cũng xuất hiện tương đối muộn, nó chỉ xuất hiện vào
những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 gắn với chế độ Pháp thuộc và chế độ M ỹ -
- 18-
Pháp luật Quốc tô' vế chống khủng bố, một số vấn đé lý luân và thực tlển
Nguỵ. Các cuộc đàn áp và càn quét của chính quyền thực dân và Mỹ Nguy nhằm
hãm doạ nhân dân ta đã bị lên án và bị coi là "ruồng bố" "khủng bố cách mạng"'.
Như vậy, ban đầu, từ khủng bố được nhân loại nói chung sử dụng để chỉ hành vi đàn
áp của chính quyển, của chế độ thực dAn hay xâm lược. Sau này, người ta sử dụng
nó để chỉ cả các hành vi của các nhóm đối lập chống chính quyền.
Theo từ điển Webster's Collegiate Dictionary, khủng bố là "việc sử dụng các biện
pháp gây khiếp đảm để cai trị hoăc để chống lại sự cai trị" [74, 24]. Theo Từ điển
tiếng Việt, khủng bố là "dùng biộn pháp tàn bạo làm cho khiếp sợ để hòng khuất
phục." [62] Các định nghĩa này đơn giản, khách quan nhưng nếu dùng trong ngôn
ngữ pháp luật quốc tế thì lại quá rộng vì nó đã định nghĩa toàn bộ những hành vi sử
dụng bạo lực ngoài khuôn khổ pháp luật. Nó đánh đổng tất cả những hành vi xâm
lược, thực dân, sử dụng vũ lực cường quyền, diệt chủng, tội ác chiến tranh, hành
động bạo lực cực đoan V.V Trong khi đ ó , từ góc đ ộ pháp lý, các hành động này có
mức độ khác nhau và cần được tách riêng để phân biệt về mức độ nguy hiểm đối với
nhân loại. Nếu coi hành vi diột chủng, xâm lược, tội ác chiến tranh v.v. là khủng bố,
tức là chúng ta đã giảm nhẹ mức độ nguy hiểm cho chúng. Các hành vi này cần
phải bị lên án mạnh mẽ hơn cả khủng bố vì nó vượt lên trên khủng bố về tính dã

man, vô nhân đạo và mức độ nguy hiểm. Cách hiểu khủng bố rộng như vậy có thể
chấp nhận trong ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ thường nhật nhưng không sử dụng
được trong ngôn ngữ pháp lý, đặc biệt là trong ngôn ngữ pháp luật quốc tế.
Để có một định nghĩa đúng và khách quan về khủng bố từ góc độ pháp lý ta có thể
căn cứ vào pháp luật quốc tế và các nguyên tắc quốc tế về cách ứng xử cho phép
trong tập quán chiến tranh giữa các quốc gia. Các quy định được đưa vào trong các
Công ước Hague và Geneva lần lượt căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản là các hành
vi gây hại cố ý của các binh lính trong thời gian chiến tranh là cái ác không tránh
khỏi và do vậy có thể được phép, nhưng ngược lại, việc tấn cồng các mục tiêu dân
sự bị cấm chỉ hoàn toàn. Các Công ước này phân biệt giữa các binh lính tấn công
các kẻ thù với tội phạm chiến tranh là kẻ thực hiên những cuộc tấn công vào các
mục tiêu dân sự. Theo Điều 13 (2) Nghị định thư II (1977) về bảo vệ nạn nhân trong
1 Xin xem Phụ lục 2.
- 19-

×