Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Các quy định của pháp luật về thừa kế có liên quan đến thủ tục công chứng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 89 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất cứ công trình
nghiên cứu nào khác. Những nội dung trong luận văn có
sử dụng tài liệu tham khảo đều trích dẫn nguồn đầy đủ.

Học viên Vũ Huy Thành


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG

BLDS

Bộ luật dân sự

LCC

Luật công chứng

UBND

Ủy ban nhân dân



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG I: MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỪA KẾ VỚI THỦ TỤC CÔNG CHỨNG ............................................... 6
1.1 Pháp luật về thừa kế .............................................................................. 6
1.1.1 Thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam...................................... 6
1.1.2 Các thủ tục, văn bản liên quan đến thừa kế......................................... 13
1.2 Pháp luật về công chứng...................................................................... 16
1.2.1 Những nội dung chung nhất về công chứng ......................................... 16
1.2.2 Giá trị pháp lý của văn bản công chứng............................................. 20
1.3 Thừa kế - công chứng: mối quan hệ giữa pháp luật nội dung và pháp
luật hình thức................................................................................................. 23
1.3.1 Mối quan hệ chung............................................................................... 23
1.3.2 Nội dung và hình thức trong quan hệ giữa thừa kế và công chứng.... 25
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC NỘI DUNG
LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ ..................................................................... 28
2.1 Thủ tục chung khi công chứng các giao dịch về thừa kế.................... 28
2.2 Di chúc và vấn đề công chứng di chúc ................................................ 32
2.2.1 Quy định của pháp luật về di chúc ....................................................... 32
2.2.2 Việc công chứng di chúc....................................................................... 39
2.2.3 Những hạn chế của pháp luật về di chúc và việc công chứng di chúc 40
2.3 Từ chối nhận di sản và công chứng văn bản từ chối nhận di sản ..... 44
2.3.1 Việc từ chối nhận di sản ........................................................................ 44
2.3.2 Việc công chứng văn bản từ chối nhận di sản....................................... 47
2.3.3 Những hạn chế, vướng mắc của pháp luật về từ chối nhận di sản và thủ
tục công chứng văn bản này............................................................................ 51
2.4 Khai nhận, phân chia di sản và việc công chứng những nội dung
này................................................................................................................... 53



2.4.1 Quy định của pháp luật về khai nhận, phân chia di sản ................... 53
2.4.2 Việc công chứng văn bản khai nhận, phân chia di sản ..................... 56
2.4.3 Những hạn chế còn tồn tại................................................................. 61
2.5 Công chứng các nội dung khác liên quan đến thừa kế ...................... 65
CHƢƠNG III: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA
KẾ VÀ CÔNG CHỨNG............................................................................ 68
3.1 Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về thừa
kế và công chứng ....................................................................................... 68
3.2 Kiến nghị hoàn thiện các quy định về thừa kế có liên quan với thủ tục
công chứng.................................................................................................. 69
3.2.1 Kiến nghị về hình thức lập di chúc và văn bản từ chối nhận di
sản..............................................................................................................69
3.2.2 Quy định cụ thể về hiệu lực của di chúc chung vợ chồng khi BLDS
2015 được áp dụng ......................................................................................71
3.2.3 Hướng dẫn cụ thể hơn những trường hợp thừa kế đặc biệt............ 73
3.2.4 Ghi nhận những hạn chế vào giấy tờ, văn bản về đăng ký sở hữu,
sử dụng tài sản, liên quan tới tài sản theo thừa kế ..................................... 74
3.3 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về công chứng các giao dịch về
thừa kế ....................................................................................................... 75
3.3.1 Bổ sung các hình thức giao dịch khác ngoài tặng cho phần di sản
trong việc phân chia di sản........................................................................ 75
3.3.2 Chuẩn hóa hơn thủ tục niêm yết thông báo thừa kế ........................ 77
3.3.3 Có cơ chế đơn giản hóa về giấy tờ cần chứng minh với những
trường hợp thừa kế có độ tuổi lớn.............................................................. 78
3.3.4 Khai nhận theo di chúc với những trường hợp khó có giấy tờ
chứng minh.................................................................................................. 79
3.3.5 Cơ chế hỗ trợ xác minh thông tin...................................................... 80
3.3.6 Các khóa bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ ........................................ 81
KẾT LUẬN ............................................................................................... 83



1

PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình xây dựng và phát triển pháp luật Việt Nam nói chung

và pháp luật dân sự nói riêng, các quy định về thừa kế luôn chiếm một vị trí
quan trọng. Hệ thống những quy định này đã luật hóa những phong tục, tập
quán, quan niệm của nhân dân để tạo thành những cơ sở lý luận, tạo tiền đề
cho việc xác lập, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân về vấn đề này.
Cùng với đó, nếu như pháp luật về thừa kế là điều kiện cần thì pháp
luật quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình công dân thực hiện các nội
dung về thừa kế này chính là điều kiện đủ để mục đích, kết quả của việc thừa
kế được thực hiện và hoàn thiện. Xét về phạm vi, những trình tự, thủ tục trong
vấn đề thừa kế có thể được xem xét trên bình diện rộng, bao gồm rất nhiều thủ
tục có thể kể tên như việc: đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp giấy báo tử,
giấy chứng tử, ghi nhận việc cá nhân nào đã chết, tại địa điểm cư trú cuối
cùng nào hay việc đề nghị cấp các giấy khai sinh, chứng minh mối quan hệ
ruột thịt, là căn cứ xét về hàng và diện thừa kế…Những thủ tục, trình tự này
mang tính nhỏ lẻ về hành chính. Nội dung người viết muốn đề cập ở đây là
một trình tự, thủ tục có tính phức tạp và liên quan mật thiết tới vấn đề thừa kế,
cả những vấn đề chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo
pháp luật. Đó chính là thủ tục công chứng - Một thủ tục khá đặc biệt.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa những quy định về thừa kế
và thủ tục công chứng, để thấy được sự liên quan, ràng buộc, tác động lẫn
nhau của hai nội dung pháp luật này cũng như để thấy được những hạn chế

còn tồn tại của mỗi vấn đề để từ đó có thể đề xuất những giải pháp, những
kiến nghị nhằm thay đổi, nâng cao, làm tốt hơn những ý nghĩa xã hội, lịch sử,
văn hóa của mối quan hệ giữa thừa kế và công chứng, người viết đã chọn đề


2

tài “Các quy định của pháp luật về thừa kế có liên quan đến thủ tục công
chứng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để qua tìm hiểu, phân tích có thể
cơ bản giải quyết được những nội dung trên.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới chế định về thừa kế và công chứng, tính đến thời điểm

hiện tại đã có nhiều công trình, đề tài tìm hiểu, nghiên cứu, công bố về những
lĩnh vực này.
Tính riêng về chế định thừa kế, có thể kể đến luận văn Người hưởng di
sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn (năm 2016) của tác giả Nguyễn Thị Mai Linh; luận văn Hàng
thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2014) của tác giả Nguyễn Thị
Vân Trang; bài viết Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về chế định
thừa kế và một số kiến nghị (năm 2015) của tác giả Nguyễn Hải An đăng trên
tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Sửa đổi, bổ sung BLDS hay bài
viết Những quy định mới về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (năm
2016) của tác giả Phùng Trung Tập đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Viện nghiên cứu lập pháp, Số 9…
Bên cạnh đó, cũng đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu các quy
định về thủ tục công chứng như luận văn Quản lý nhà nước đối với hoạt động
công chứng (năm 2014) của tác giả Nguyễn Hoàng Việt; luận văn Giá trị của

công chứng đối với hiệu lực của giao dịch dân sự (năm 2012) của tác giả
Hoàng Khánh Phương; bài viết Nên công chứng các việc thừa kế như thế nào
của tác giả Nguyễn Phương Hoa đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 10
(năm 1999), bài viết Xác định người thừa kế trong hoạt động công chứng của
tác giả Đặng Trung Kiên, Trần Phương Anh đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số chuyên đề 5 (năm 2014)…


3

Như vậy, có thể thấy, chưa có công trình nào đi sâu, nghiên cứu toàn
diện và tổng hợp mối quan hệ giữa các quy định của pháp luật về thừa kế với
thủ tục công chứng. Có thể khẳng định: “Các quy định về thừa kế có liên
quan đến thủ tục công chứng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là đề tài
đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế có liên
quan đến thủ tục công chứng. Cùng với đó là việc tìm hiểu về trình tự, thủ tục
công chứng các giao dịch về thừa kế theo quy định của pháp luật, sự quy
định, tương quan giữa pháp luật về thừa kế và công chứng.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, trên cơ sở của BLDS 2005, có so sánh, đối chiếu
với BLDS 2015, LCC 2014 và các văn bản pháp luật về dân sự, thừa kế, công
chứng có liên quan khác, người viết tìm hiểu về những quy định mang tính lý
luận cũng như những vấn đề, kết quả đã thực hiện trong thực tiễn của pháp
luật về thừa kế như việc lập di chúc; văn bản từ chối nhận di sản; văn bản

khai nhận, phân chia di sản và sự liên quan tới thủ tục công chứng.
4.

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận

về thừa kế và công chứng. Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về
thừa kế, hoạt động công chứng, sự liên quan giữa hai quan hệ pháp luật này
nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao những quy định về thừa kế cũng như
hiệu quả của hoạt động công chứng.


4

5.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá, kiến nghị, luận văn trả lời cho

những câu hỏi sau:
-

Thừa kế được hiểu như thế nào ? Các nội dung, các vấn đề cần thực

hiện của thừa kế là gì ?
-

Công chứng là gì ? Thủ tục công chứng được thực hiện trong những

trường hợp nào ?

-

Các nội dung trong vấn đề thừa kế thường được công chứng gồm

những gì ? Quy trình, thủ tục công chứng những trường hợp như vậy ?
-

Những quy định còn hạn chế về lý luận, gây ra nhiều quan điểm

thực hiện trái chiều cả về thừa kế và công chứng ?
-

Những kiến nghị nào được đưa ra để hoàn thiện hơn các quy định

về thừa kế và việc công chứng những nội dung này ?
6.

Các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với

tính chất và yêu cầu của đề tài như: phương pháp lịch sử; phương pháp hệ
thống; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh,… kết hợp lý
luận với thực tiễn để đưa ra những kết luận, đánh giá nhằm giải quyết những
nhiệm vụ đặt ra.
Những thông tin, kết quả có được trong quá trình người viết thực tế
tìm hiểu các nội dung cụ thể về vấn đề thừa kế, việc thực hiện công chứng
những vấn đề này đã đóng góp nhiều thông tin cho bài viết.
7.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về thừa kế, đặc biệt

là những nội dung có liên quan đến hoạt động công chứng, những yêu cầu, tác
động từ thực tế thực hiện những nội dung về thừa kế tại các tổ chức hành
nghề công chứng này, người viết hướng tới việc:


5

-

Làm rõ hơn những quy định của pháp luật về thừa kế, những quy

định về thủ tục công chứng.
-

Thông qua đánh giá thực tiễn của hoạt động công chứng liên quan

đến thừa kế, đưa ra những đề xuất cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu của
của hoạt động công chứng đối với lĩnh vực thừa kế trong thời gian tiếp theo.
Những vấn đề được làm sáng tỏ trong luận văn có thể đóng góp cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về thừa kế cũng như công chứng ở Việt Nam.
-

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tìm hiểu, nghiên

cứu về thừa kế, về hoạt động công chứng nói chung và việc công chứng các giao
dịch về thừa kế nói riêng.
8.


Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung của luận văn gồm 3 chương, gồm:
Chương I: Lý luận chung về pháp luật thừa kế và công chứng
Chương II: Thực trạng và sự liên quan giữa các quy định về thừa kế với
thủ tục công chứng
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật thừa kế - công chứng


6

CHƢƠNG I
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ VỚI THỦ TỤC CÔNG CHỨNG
1.1

Pháp luật về thừa kế

1.1.1

Thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam

1.1.1.1

Những nội dung chung nhất về thừa kế

Như một sự tất yếu, con người sinh ra, tồn tại luôn cần những giá trị vật
chất để đáp ứng những nhu cầu tối thiểu đến cao hơn của mình. Để đáp ứng
nhu cầu đó, đòi hỏi con người cần lao động để tạo ra của cải vật chất cho mình

cũng như cho xã hội. Nếu như tài sản mang sự tồn tại bền vững, có chăng là sự
biến đổi từ dạng này sang dạng khác, thì với con người điều đó là không thể.
Khi chết đi, con người không thể mang theo của cải vật chất đã tạo lập được.
Do vậy, việc “xử lý” tài sản của người chết là một yêu cầu khách quan của xã
hội. Vấn đề này, được xác định là thừa kế1.
Theo đó, thừa kế được hiểu chung nhất là việc chuyển dịch tài sản thuộc
sở hữu của người chết cho người còn sống nếu thỏa mãn đủ điều kiện của pháp
luật. Nội dung này có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của
xã hội loài người. Vào thời kỳ này, việc thừa kế được tiến hành dựa trên những
quy định về quan hệ huyết thống, những phong tục, tập quán riêng của những
đơn vị dân cư thời kỳ đó quyết định.
Cụ thể hơn, theo Đại từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin phát hành năm 1998 thì thừa kế là việc “Được hưởng tài sản, của cải do
người chết để lại cho”. Dưới góc nhìn pháp lý, theo Từ điển luật học do Nhà
xuất bản Từ điển Bách Khoa - Nhà xuất bản Tư Pháp ấn hành năm 2006 thì
thừa kế là “Sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Hay
1

Lê Đình Nghị (chủ biên, 2009) Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập một, Nxb giáo dục Việt Nam, tr 237


7

nếu tham khảo thêm Sổ tay Thuật ngữ pháp lý thông dụng do nhà xuất bản giáo
dục phát hành năm 1996 thì thừa kế là “việc chuyển di sản của người đã chết
cho những người còn sống”2.
Có thể thấy thừa kế là một loại quan hệ xã hội gắn liền với quan hệ sở
hữu tài sản. Trong mối quan hệ này, nếu như sở hữu là yếu tố đầu tiên để làm
phát sinh quan hệ thừa kế thì ở chiều ngược lại thừa kế chính là cách, phương
tiện để duy trì và củng cố quan hệ sở hữu, tất nhiên là có sự thay đổi về chủ thể

sở hữu. Ví dụ, ông Nguyễn Văn A sở hữu một chiếc xe ô tô. Trước khi chết,
ông có lập di chúc để lại chiếc xe này cho con trai là Nguyễn Văn B. Khi di
chúc phát sinh hiệu lực, ông Nguyễn Văn B thực hiện các thủ tục luật định để
thừa hưởng chiếc xe này. Rõ ràng từ quan hệ sở hữu chiếc xe, chủ sở hữu đã có
sự thay đổi theo hình thức thừa kế.
Trên cơ sở nghiên cứu nội dung pháp luật thừa kế ở Việt Nam, các quy
định về thừa kế có thể được xác định thành các nhóm như sau:
Nhóm các quy định chung nhất về thừa kế như: quyền thừa kế, thời
điểm, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế, quyền và nghĩa vụ chung…
Nhóm các quy định về thừa kế theo di chúc. Nhóm này gồm các quy
định về di chúc, điều kiện có hiệu lực của di chúc, hình thức di chúc, diện
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc…
Nhóm các quy định về thừa kế theo pháp luật. Quy định chung của
nhóm này hướng đến xác định các trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và
hàng thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế cha dượng,mẹ kế với con riêng của
người kia.

2

Tuấn Đạo Thanh (2014), Sổ tay công chứng viên - Một số vấn đề cần lưu ý khi công chứng các văn bản liên quan tới
chế định thừa kế, Nxb Tư Pháp, tr 11


8

Nhóm các quy định về thủ tục đảm bảo thực hiện quyền thừa kế của
công dân bao gồm các quy phạm về thời hiệu yêu cầu các quyền về thừa kế,
các thủ tục liên quan: phân chia, từ chối nhận di sản…
Có thể hiểu rằng, pháp luật về thừa kế là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết sang cá nhân, tổ chức

khác theo những điều kiện, trình tự và thủ tục chung, thống nhất. Đồng thời,
nó còn là cơ sở để bảo đảm quyền, nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan
khác trong mối quan hệ này.
Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam được cấu thành bởi nhiều quy phạm,
trong nhiều văn bản khác nhau. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
về thừa kế ở Việt Nam có sự biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng và có sự
phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ. Các quy
định về thừa kế ở nước ta luôn bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể
hiện ý chí của mình và kết hợp hài hoà với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Không ngừng củng cố, mở rộng phù hợp với đời sống thực tế, nhằm bảo vệ có
hiệu quả hơn quyền thừa kế công dân.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, người thừa kế được hưởng di
sản từ thừa kế theo pháp luật hoặc thừa kế theo di chúc. Tùy theo những điều
kiện của pháp luật, quan hệ thừa kế nào sẽ chi phối và được thực hiện. Thông
thường trong sự việc cần giải quyết, thực hiện về thừa kế, thường chỉ có một
hình thức được áp dụng. Song cũng do nhiều lý do khác nhau, việc thừa kế sẽ
phát sinh song song cả hai hình thức trong cùng một vụ việc. Đó chính là
những vấn đề đã và đang xảy ra trong thực tiễn.
1.1.1.2

Thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo di chúc là một trong hai hình thức thừa kế được pháp luật
quy định. Nội dung này được hiểu theo cách chung nhất là việc chuyển dịch
tài sản từ người sở hữu sang người khác sau khi người đó chết thông qua di


9

chúc - hình thức thể hiện rõ ý chí của người để lại tài sản, là sự chủ động của

họ trong vấn đề thừa kế. Người khác được hưởng thừa kế ở đây có thể là cá
nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức nào đó. Thừa kế theo di chúc là việc chuyển
tài sản của người đã chết cho những người thừa kế theo ý chí tự nguyện của
người để lại di sản thể hiện trong di chúc3.
Thừa kế theo di chúc bắt đầu bằng sự kiện chủ sở hữu tài sản, thông
qua tự do ý chí trên cơ sở của pháp luật, quyết định việc lập di chúc, định đoạt
một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình cho một cá nhân, nhóm
cá nhân hoặc tổ chức nào đó được thừa hưởng. Hình thức của di chúc được
lựa chọn trước hết theo ý chí của người có ý định lập. Tuy nhiên, pháp luật
bên cạnh sự quy định, hướng dẫn cũng có những sự định hướng nhất định về
hình thức, cách thức lập để đảm bảo tính có hiệu lực, áp dụng sau này của bản
di chúc.
Trong di chúc, ngoài việc khẳng định để lại tài sản cho ai, người lập di
chúc còn có thể ghi nhận thêm những nội dung khác như điều kiện hưởng,
thời điểm hưởng, quyền lợi cũng như trách nhiệm của những người liên quan.
Tuy cũng là một dạng của giao dịch dân sự, song do đặc thù từ đời sống văn
hóa, nên di chúc ít nhiều mang những hơi hướng cách thể hiện khá đặc trưng,
không lẫn với bất kỳ một giao dịch nào khác.
Có thể khẳng định rằng di chúc vừa chứa đựng những nét đẹp văn hóa
bên cạnh những giá trị pháp lý. Thông qua di chúc, cùng với việc khẳng định
để lại tài sản là gì, cho những ai, thường là những người lớn tuổi trong gia
đình sẽ dặn dò con cháu, thực hiện nếp sống “tốt đời đẹp đạo”, có hiếu, hòa
thuận, san sẻ, đùm bọc lẫn nhau. Đôi khi, có những điều trăn trở, mà người ta
chỉ có thể ghi lại, chép lại rồi dặn dò con cháu. Khi đó, bản di chúc đã vượt

3

Lê Đình Nghị (Chủ biên, 2009) Giáo trình luật Dân sự Việt Nam tập một, Nxb giáo dục Việt Nam, tr 252



10

qua những giá trị pháp lý đơn thuần, mà trở thành những hoài niệm, lưu giữ
những dòng cảm xúc sâu lắng.
Di chúc chính là tiền đề trong hình thức thừa kế này. Khi di chúc có đủ
điều kiện để phát sinh hiệu lực, người thừa kế căn cứ vào di chúc, tuân theo
những lời dặn dò được ghi ghép trong di chúc tiến hành những quy trình, thủ
tục theo quy định để có thể thừa hưởng những tài sản mà người chết để lại.
Thừa kế theo di chúc thể hiện một cách trực tiếp, rõ ràng việc người có quyền
sở hữu tài sản muốn để lại tài sản của mình cho ai. Pháp luật ít có sự “xen
ngang” vào ý chí của người lập di chúc trừ việc pháp luật Việt Nam hiện hành
vẫn quy định diện được thừa hưởng một phần di sản mà không phụ thuộc vào
nội dung di chúc. Tuy tôn trọng ý chí của người lập di chúc, song dựa trên
truyền thống văn hóa, điều kiện kinh tế, đời sống xã hội, việc “can thiệp” của
pháp luật trong trường hợp này nhìn chung cũng là sự hợp lý. Nó vừa hài hòa
về mặt tình cảm cũng như giá trị pháp lý của di chúc.
Thừa kế theo di chúc, tựu chung lại chính là quá trình chuyển dịch tài
sản từ người sở hữu sang những chủ thể khác mà người đó mong muốn sau
khi chết. Hình thức thừa kế này đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội. Việc
tôn trọng ý chí riêng tư của người lập di chúc vừa đảm bảo tính khách quan,
dân chủ vừa thể hiện sự thượng tôn của pháp luật. Hệ thống pháp luật nói
chung và những quy phạm pháp luật điều chỉnh về hình thức thừa kế này đã
góp phần tạo nên sự ổn định trong đời sống xã hội về các giao dịch dân sự nói
chung và các giao dịch về thừa kế nói riêng. Cùng với thừa kế theo pháp luật,
thừa kế theo di chúc chính là một phần của bức tranh toàn cảnh, ở đó quyền,
và nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan được ghi nhận và thực thi một
cách rõ rệt nhất.


11


1.1.1.3

Thừa kế theo pháp luật

Nếu thừa kế theo di chúc, như sự điểm xuyết trên, đó là văn bản ghi
nhận, thừa nhận ý kiến, quyết định riêng của người sở hữu tài sản, họ có
mong muốn ai là người được hưởng, người đó sẽ được hưởng với những ràng
buộc gì thì thừa kế theo pháp luật lại thuộc phương diện khác, đó là, được
hưởng thừa kế theo sự quy định của nhà nước, đã được ghi nhận dưới hình
thức pháp luật.
Thừa kế theo pháp luật được ghi nhận trong BLDS 2005 và BLDS 2015
được thực thi khi xảy ra một trong các trường hợp: người sở hữu tài sản khi
chết không để lại di chúc, di chúc không hợp lệ toàn bộ hoặc một phần hay bị
Tòa án tuyên vô hiệu hoặc người thừa kế theo di chúc chết trước người để lại
di sản, không được hưởng di sản; thậm chí họ, những người được chỉ định
hưởng di sản đã từ chối việc hưởng di sản này…
Khác với thừa kế theo di chúc, khi mà người được hưởng di sản đã
được khẳng định rõ trong văn bản, có chăng, ở góc độ đặc biệt hơn là diện
hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc (theo quy định tại điều
669 BLDS 2005, điều 644 BLDS 2015) thì với thừa kế theo pháp luật, người
được quyền hưởng di sản được chia thành diện, hàng thừa kế khác nhau, xét
theo tiêu chí, mức độ thân cận giảm dần của nhà làm luật.
Pháp luật hiện hành quy định việc thừa kế theo pháp luật được chia làm
ba hàng thừa kế. Hàng thừa kế thứ nhất, đó là toàn bộ những người theo tập
quán, thực tiễn sống thân cận nhất với người để lại di sản, có sự chia sẻ, gắn
bó ở mức độ gần nhất với người để lại di sản. Những người thuộc diện này
gồm: bố, mẹ; vợ, chồng; con cái của người để lại di sản. Có thể nói xét từ quy
định của pháp luật, cũng như thực tiễn cuộc sống, việc quy định gói gọn trong
diện được hưởng này là phù hợp. Họ, những người thường trực san sẻ, chăm

sóc lẫn nhau trong gia đình, được quyền hưởng trước hết với di sản của người


12

chết để lại. Ngoài việc chứa đựng, bao hàm tình cảm thân thuộc, nó được xem
như sự báo đáp tương xứng với những gì họ đã để lại cho cuộc sống. Ở hàng
kế tiếp, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của
người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại sẽ được hưởng toàn bộ di sản, nếu đảm bảo các điều kiện liên
quan. Đây là mức độ giảm dần về sự thân cận đối với người chết. So với diện
thừa kế trong hàng thừa kế thứ nhất, thường gói gọn trong phạm vi một gia
đình nhỏ thì ở hàng thừa kế này, theo tập quán, nhu cầu cuộc sống, thường có
sự chia tách làm nhiều gia đình nhỏ hơn: ông bà sống với nhau, con cháu tách
ra sống riêng, đi xa làm ăn... Cuối cùng, nếu không đáp ứng được các điều
kiện luật định, hàng thừa kế thứ hai này cũng không được quyền hưởng thừa
kế của người đã chết mà thay vào đó là hàng thừa kế cuối cùng, hàng thứ ba.
Ở hàng thừa kế này, dễ dàng thấy được là sự mở rộng về số lượng người được
quyền hưởng thừa kế, đó là: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Do mở rộng cả hai bên họ nội và họ
ngoại, lại chia theo các nhánh nhỏ nên thực sự hàng thừa kế thứ ba ghi nhận
diện được hưởng lớn nhất trong các hàng thừa kế. Cũng dễ hiểu, chính vì số
lượng nhiều, khả năng bao quát lớn nên pháp luật cũng chỉ dừng ở hàng thừa
kế này mà không quy định thêm hàng, diện mới. Giả thiết có quy định hàng
tiếp sau, khả năng thực thi trên thực tế cũng bỏ ngỏ?
Cùng với việc phân định diện và hàng thừa kế, pháp luật cũng chỉ rõ
việc những người cùng hàng thừa kế, được hưởng phần di sản bằng nhau. Tuy
nhiên cũng ghi nhận việc trong thực tế phân chia di sản, họ có thể xác lập

những thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật, không trái đạo đức xã hội như
trao, tặng nhau, quy đổi giá trị…Bên cạnh đó, để rõ ràng hơn về tuần tự, thứ


13

bậc hưởng di sản, quy định cũng chỉ rõ tại Điều 676 BLDS 2005 và Điều 651
BLDS 2015:“Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu
không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản,
bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”. Đây cũng là cơ sở, để
những người thừa kế, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền liên quan, căn cứ, phân
địch nhằm xác định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan.
1.1.2

Các thủ tục, văn bản liên quan đến thừa kế
Thừa kế tiếp cận ở góc nhìn gần nhất đó là sự bao hàm các điều kiện,

cơ sở, quyền, nghĩa vụ của những chủ thể liên quan. Trên cơ sở của pháp luật,
tùy vào vị trí, vai trò mỗi chủ thể có cách tham gia, thể hiện khác nhau trong
việc thừa hưởng di sản này. Đi cùng với đó, mỗi chủ thể có những yêu cầu,
nhu cầu thực hiện những thủ tục, quy trình khác nhau để thực thi quyền lợi,
nghĩa vụ của mình. Bên cạnh trình tự, thủ tục thực hiện, các chủ thể còn cần
tham gia xây dựng, bàn luận, ký kết các văn bản, giấy tờ cần thiết và nhờ vậy,
quan hệ thừa kế nói một cách chung nhất hoặc quyền lợi, nghĩa vụ của những
chủ thể này mới được bảo đảm một cách hợp pháp nhất.
1.1.2.1

Thủ tục của người để lại di sản

Thủ tục, được hiểu là các công việc, hành vi cần thực hiện để hoàn

thành một công việc, nhu cầu nào đó, thường xem xét dưới góc độ hành
chính, pháp lý. Trong nội dung về thừa kế này, với việc phân chia thành thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, với những đặc tính riêng của các
dạng thừa kế này, tính thủ tục nghiêng nhiều về thừa kế theo di chúc hơn.
Khi có ý định để lại di sản cho người khác, người sở hữu tài sản có
nhiều lựa chọn: lập di chúc khẳng định rõ để lại di sản cho ai, truất quyền
hưởng di sản của ai, hoặc sửa đổi, bổ sung di chúc đó sau này hoặc thậm chí
là hủy bỏ bản di chúc đó. Xét về thủ tục lập di chúc, người để lại di sản
thường chỉ cần quan tâm khi có nhu cầu lập di chúc tại UBND phường, xã


14

hay cơ quan công chứng. Những tổ chức này, với đặc thù công việc hành
chính thường có những quy định riêng về thời gian, địa điểm thực hiện, hồ sơ
giấy tờ cần cung cấp liên quan đến việc lập di chúc.
Với diện thừa kế theo pháp luật, người để lại di sản thường không cần
thực hiện nhiều các thủ tục trực tiếp tới việc thừa kế, thông thường, có chăng
người đó chuẩn bị các thủ tục liên quan khác, ví dụ hỗ trợ những người thừa
kế “tiềm năng” của mình chuẩn bị sẵn các giấy tờ về nhân thân, hộ tịch có
liên quan, để những chủ thể này dễ dàng hơn trong khâu nhận di sản sau này.
Tuy nhiên, từ thực tiễn có thể thấy nhóm những thủ tục này không nhiều. Vấn
đề này có thể được hiểu từ các góc độ: người dân chưa tìm hiểu kỹ về các nội
dung có liên quan, phát sinh; nghĩ rằng chưa cần thiết phải thực hiện hoặc chỉ
đơn giản là “không muốn” đến cửa quan, thực hiện các thủ tục mà thường
ngày họ thấy “khó thoải mái”.
1.1.2.2

Thủ tục của người được nhận di sản


Khác với thủ tục của người để lại di sản, do đặc thù từ việc thừa kế, các
thủ tục thường chỉ nghiêng về dạng thừa kế theo di chúc. Đối với người nhận,
hưởng di sản, thủ tục này nhìn chung có sự ngang bằng hơn.
Các thủ tục chung đối với người hưởng di sản, xét trong cả hai dạng
thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật thường là: chuẩn bị hồ sơ,
văn bản, giấy tờ để chứng minh việc thừa hưởng, xác lập quan hệ sở hữu của
họ đối với di sản của người đã chết để lại là hoàn toàn có căn cứ; từ chối
hưởng di sản nếu không muốn nhận, khi đảm bảo các yêu cầu luật định; quản
lý di sản; khai nhận hoặc phân chia di sản; thanh toán các khoản nợ tài chính
của người để lại di sản…
Ngoài các dạng văn bản mang tính trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ trong quan hệ thừa kế này thì trong thực tiễn còn khá nhiều


15

thủ tục mà những người thừa kế có thể hoặc có nhu cầu thực hiện như việc ủy
quyền lẫn nhau thực hiện các nội dung về thừa kế, họp gia đình...
1.1.2.3

Thủ tục của các chủ thể khác

Chủ thể khác trong quan hệ thừa kế có thể được kể đến như: người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến tài sản, người đang có quyền chi phối di sản
trong một phạm vi nhất định…Chẳng hạn việc một người sở hữu tài sản đang
thế chấp tài sản tại một Ngân hàng để vay vốn bỗng nhiên qua đời, thì Ngân
hàng trong trường hợp này chính là người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Quyền ở đây chính là việc thu hồi, yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tín dụng của
người chết để lại và song song với đó, Ngân hàng cũng có nghĩa vụ đưa ra ý
kiến, thông báo, xác nhận các nội dung liên quan đến vấn đề thừa kế như xác

nhận, cung cấp về bản chính hồ sơ giấy tờ theo đề nghị của các tổ chức có
trách nhiệm, quyền hạn liên quan.
1.1.2.4

Thủ tục đặc biệt

Như đã phân tích ở trên, mỗi chủ thể, với những cơ sở tiếp cận khác
nhau sẽ có những cách thức thể hiện, thực hiện khác nhau. Song, chung quy
lại, đó đều là những yêu cầu về thủ tục mà họ cần thực hiện, dù dưới hình
thức nào đi chăng nữa. Trong tổng thể các thủ tục ấy, có một nội dung khá
đặc biệt: đó chính là thủ tục công chứng các giao dịch. Trong nội dung về
thừa kế, có rất nhiều dạng giao dịch cần hoặc có thể thực hiện thủ tục này.
Trước khi đi sâu vào tìm hiểu các quy định về thừa kế hay việc công chứng
các giao dịch về nội dung này, ở phần tiếp sau, người viết sẽ có sự điểm qua
về công chứng - một thủ tục đặc biệt.


16

1.2

Pháp luật về công chứng

1.2.1

Những nội dung chung nhất về công chứng

1.2.1.1

Khái niệm về công chứng

Trong Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng là hoạt động của công

chứng viên… Công chứng viên, theo tiếng Latinh là “Notarius”. “Notarius”
trong Luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy
tờ khác, người làm chứng. Trong Luật La Mã, là người ghi chép, thư ký, tốc ký,
người ghi chép các hoạt động trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo
lời người khác đọc, người soạn các di chúc và giấy chuyển nhượng sở hữu.
Theo cách giải thích này, công chứng là nghề sớm xuất hiện trong lịch sử loài
người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và làm
chứng.
Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, trên thế giới có ba hệ
thống công chứng: Hệ thống công chứng Latinh tương ứng với hệ thống luật La
Mã (còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law); hệ thống công chứng
Ănglo - Saxon tương ứng với hệ thống pháp luật Ănglo - Saxon (Common Law)
và hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tương ứng với hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique)4.
Khởi nguồn, hoạt động công chứng là hoạt động của xã hội, với vai
trò làm chứng của quần chúng nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch,
khách quan của các khế ước, văn tự được lập, đề phòng sự tranh chấp, lật
lọng. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của lịch sử công chứng, công chứng chính là
nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao
dịch chứ chưa phải nhu cầu của quản lý nhà nước.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 LCC 2014 thì “Công chứng là việc
công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác
4

ngày truy cập 20/7/2016


17


thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây
gọi là hợp đồng, giao dịch)… mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”
Hiểu một cách đơn giản nhất, công chứng chính là việc “công quyền
đứng ra làm chứng”. Thay vì để cá nhân, tổ chức bình thường tự thực hiện vai
trò người làm chứng trong các giao dịch dân sự, kinh tế thì nhà nước bằng
việc đào tạo, bổ nhiệm đã trao cho một số cá nhân một số quyền năng để
những người này thay mặt Nhà nước đứng ra làm chứng cho việc giao kết các
giao dịch dân sự, kinh tế5.
1.2.1.2

Đối tượng của hoạt động công chứng

Có thể thấy, đối tượng của hoạt động công chứng chính là việc xác
nhận tính hợp pháp của các hợp đồng (dân sự, thương mại…) hoặc các giao
dịch dân sự khác, dưới dạng văn bản. Việc chứng nhận này được coi là hợp
pháp, có giá trị pháp lý với các bên liên quan đòi hỏi nhiều điều kiện yếu tố từ
nghiệp vụ, chuyên môn, tư cách của người làm chứng - Công chứng viên tới
những người yêu cầu công chứng: tư cách chủ thể giao kết giao dịch, các văn
bản, giấy tờ thể hiện căn cứ, yêu cầu công chứng hoặc đơn giản hơn là địa
điểm, thời hạn công chứng… Tất cả những yếu tố, nội dung này đòi hỏi và
yêu cầu công chứng viên, cũng như các chủ thể liên quan cần thực hiện trên
cơ sở quy định của pháp luật, yêu cầu chính đáng các bên có liên quan trong
giao dịch. Ví dụ, trong việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì công chứng viên cần kiểm tra tính xác thực (có thật) bằng việc
xác định quyền sử dụng đất có những đặc điểm gì (hình dáng, kích thước, địa
điểm…) và chuyển nhượng hợp pháp (đã có giấy chứng nhận, không có tranh
chấp, không bị thu hồi…).


5

Tuấn Đạo Thanh (2012), Pháp luật công chứng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, tr 7


18

Theo quy định của pháp luật, trong nhiều trường hợp, việc công chứng
là bắt buộc, phải thông qua công chứng hợp đồng, giao dịch mới có hiệu lực
pháp luật, giá trị thực thi với các bên liên quan. Pháp luật hiện hành, không
ban hành, gộp các yêu cầu bắt buộc phải công chứng vào một văn bản chung,
thống nhất mà thường được ban hành tại các văn bản luật chuyên ngành. Luật
công chứng theo đó, chỉ có vai trò định hướng, nêu rõ quy trình công chứng
như thế nào.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, giao thương cùng sự nâng
cao về dân trí, hiểu biết pháp luật, cả số lượng và chất lượng các giao dịch
ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Nếu như trước đây, tổ chức, cá nhân phần đa
miễn cưỡng đi thực hiện thủ tục công chứng chỉ vì đây là yêu cầu không có sự
lựa chọn khác, chỉ có công chứng, họ mới thực hiện được các công việc tiếp
sau. Thì nay, có rất nhiều các giao dịch khác, tuy pháp luật không quy định,
chưa quy định cụ thể, song từ sự tìm hiểu, nhu cầu đặc thù, các tổ chức, cá
nhân vẫn có thể đề nghị công chứng. Với họ, việc chủ động đề nghị công
chứng này một mặt nhận được sự yên tâm đáng kể về mặt pháp lý, mặt khác
đó cũng là cách họ thể hiện sự chú tâm, chuyên nghiệp trong các giao dịch họ
thực hiện, ngay cả khi xét về giá trị giao dịch, chưa hẳn đây đã là con số lớn.
Thật vậy, việc tồn tại song song giữa yếu tố luật định và yếu tố tùy nghi
khi lựa chọn hình thức giao dịch, việc có hay không có công chứng, tổ chức
công chứng nào thực hiện đã tạo nền tảng, đảm bảo các yếu tố cơ bản cho sự
an toàn về mặt lý thuyết của các giao dịch dân sự. Bởi nói theo nhiều luật gia,
công chứng được coi như tòa án phòng ngừa cho những rủi ro, tranh chấp khi

thực hiện các giao dịch.
Nếu dành thời gian tìm hiểu các văn bản pháp luật, thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau thì cũng không khó khăn gì khi bắt gặp những quy định yêu
cầu việc công chứng là điều kiện này. Với việc xây dựng các quy phạm chứa


19

đựng yếu tố bắt buộc này, các nhà làm luật muốn hướng đến xây dựng nền
tảng pháp lý an toàn cho đời sống giao dịch, kinh tế, văn hóa xã hội.
Lý do của việc ban hành các quy định này nằm ở việc các quan hệ
pháp luật hết sức đa dạng, không phải chủ thể nào cũng có điều kiện tiếp cận,
nắm rõ, hiểu rõ để bảo vệ quyền lợi đương nhiên, hợp pháp của mình. Khi đó,
họ cần một người “trọng tài”, hoàn toàn khách quan, để phần nào bảo vệ họ.
Trong khi đó, các giao dịch thuộc diện bắt buộc này thường liên quan đến
những thủ tục quan trọng, có tính phức tạp hoặc tài sản trong giao dịch có giá
trị lớn… Không phải ngẫu nhiên mà trong các văn bản luật về nhà ở, đất đai,
kinh doanh bất động sản… thường quy định từ rất lâu và nối tiếp yêu cầu
công chứng bắt buộc này qua nhiều thời kỳ. Hay thuộc diện mới nhất, thỏa
thuận liên quan đến việc mang thai hộ cũng thuộc diện văn bản bắt buộc cần
công chứng, mới là tiền đề, có giá trị áp dụng.
Chỉ gần đây, khi kinh tế văn hóa, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật
được nâng cao, nhà nước mới có định hướng giảm dần các quy định bắt buộc
này. Nếu như trước đây, cho thuê nhà trên sáu tháng, cho mượn, cho ở nhờ
bắt buộc phải công chứng mới có giá trị pháp lý, thì hiện nó được quy định ở
diện lựa chọn theo yêu cầu của công dân.
Xét trong vấn đề thừa kế di sản, việc công chứng cũng được quy định
bắt buộc trong một số trường hợp liên quan đến việc khai nhận hoặc phân
chia di sản là quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc các tài sản có
đăng ký quyền sở hữu khác: tàu thuyền, phương tiện giao thông… Không

những vậy, quy trình, thủ tục cũng được pháp luật quy định khá tuần tự, nếu
các chủ thể liên quan không thể đáp ứng, thì rất khó để công chứng, và do
vậy, gián tiếp ảnh hưởng đến các nhu cầu phái sinh liên quan đến tài sản của
họ.


20

Khách quan mà nói, các quy định về công chứng bắt buộc trong thời
gian qua đã phần nào phát huy được vai trò đảm bảo điều kiện căn bản về yếu
tố hình thức trong các giao dịch này, tránh những hậu quả đáng tiếc nhất nếu
bị Tòa án tuyên vô hiệu chỉ xét về mặt hình thức đơn thuần. BLDS 2015 đã có
sự thay đổi lớn liên quan đến nguy cơ vô hiệu về mặt hình thức này theo
hướng an toàn, có lợi cho các bên hơn, song, khách quan nhận định thì đó
cũng chỉ là sự cứu cánh một cách không mong muốn của các bên, vì ít nhiều,
họ cũng đã gặp những rắc rối, phiền toái, có liên quan.
Trên cơ sở đó, với những nhu cầu liên quan đến thủ tục công chứng
khác, ngay cả phí pháp luật không có yêu cầu bắt buộc, song những người yêu
cầu công chứng là cá nhân hoặc tổ chức sẵn sàng thực hiện. Những văn bản
thông thường, gần gũi nhất thường được những chủ thể này tự nguyện đề nghị
công chứng như văn bản ủy quyền, hợp đồng mua bán động sản của tổ chức,
thế chấp những tài sản mà pháp luật không hạn chế về hình thức giao dịch.
Có nhiều ý kiến đã cho rằng, số lượng các giao dịch tự nguyện đề nghị
công chứng ngày càng tăng chính là minh chứng rõ nhất cho sự hiểu biết pháp
luật và trình độ dân trí, mặt bằng chung tri thức của xã hội được nâng cao
hơn. Chính những nhu cầu này đã giúp thúc đẩy, phát triển mạnh hơn của
hoạt động công chứng. Và nói theo một cách hoa mỹ, như hành động có đi có
lại, cũng chính nhờ đó, chất lượng công chứng sẽ ngày một tốt hơn, đáp ứng
tốt nhất nhu cầu công chứng của các tổ chức, cá nhân.
1.2.2


Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Theo quy định tại Điều 5 LCC 2014 thì khi hoàn thành thủ tục công

chứng, những người yêu cầu công chứng, người tham gia giao dịch đã thực
hiện tuần tự, đầy đủ việc đọc, ký văn bản, đã được công chứng viên ký, đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng thì văn bản thể hiện giao dịch các bên
thực hiện bắt đầu có hiệu lực pháp luật.


×