Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hoạt động tranh tụng của viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.35 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀNG QUÝ

HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TẠI
PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Gia Lâm

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Gia Lâm. Ngoài ra, trong luận văn còn sử
dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan
tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Các nội dung nghiên
cứu, số liệu trong đề tài này đảm bảo tính trung thực, đáng tin cậy.



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TT

Chữ cái viết tắt

Cụm từ đầy đủ

1

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

2

HĐXX

Hội đồng xét xử

3

KSV

Kiểm sát viên

4

VKS


Viện kiểm sát


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………….
CHƢƠNG 1. Một số vấn đề chung và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...
1.1. Một số vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự…
1.1.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự ………………………………………………………………………………….
1.1.2. Chủ thể của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự..
1.1.3. Nội dung hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự ..................................................................................................................................
1.1.4. Phạm vi hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự …………………………………………………………………..............................
1.1.5. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự …………………………………………………………………………………
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hoạt động tranh tụng của
VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự …………………………………….
1.2.1. Hoạt động tranh tụng của KSV khi xét hỏi………………………………………
1.2.2. Hoạt động tranh tụng của KSV khi tranh luận…………………………………..
Kết luận Chƣơng 1 ……………………………………………………………………..
CHƢƠNG 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt
động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ……………..
2.1. Thực trạng thực hiện hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự ……………………………………………………………………
2.1.1. Những kết quả đạt được ………………………………………………………..
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt động tranh tụng của KSV
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ……………………………..........................
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc…………………………………....

2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả thực hiện hoạt động
tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ………...................
2.2.1. Giải pháp lập pháp………………………………………………………………..
2.2.2. Các giải pháp khác ……………………………………………………………..
Kết luận chƣơng 2…………………………………………………………….............
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………….

1
8
8
8
13
15
16
17
19
19
23
29
30
30
30
35
44
61
61
71
80
81



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong những năm
vừa qua đã đạt được những thành tựu to lớn. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã
hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong hoạt động tư
pháp góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vẫn còn tình trạng để
xảy ra oan sai, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cải cách tư pháp nhằm xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hạn chế tình trạng oan, sai đồng
thời hiện thực hóa các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Với chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong những năm qua,
ngành Kiểm sát đã làm tốt nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật. Vai trò, vị trí của
Viện kiểm sát (VKS) trong hoạt động tố tụng hình sự ngày càng được nhấn
mạnh qua các quy định của Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và
các văn bản pháp luật khác.
Để công cuộc cải cách tư pháp đạt kết quả, Đảng đã ban hành nhiều nghị
quyết làm cơ sở và định hướng lớn cho công cuộc cải cách này. Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: "Nâng cao chất lượng công
tố của KSV tại phiên tòa bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp đến, Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 tiếp tục khẳng định: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các


2


phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp". Đây là một
yêu cầu và đòi hỏi mang tính khách quan và là một biện pháp đảm bảo cho
việc xét xử tại các phiên tòa được dân chủ, khách quan, toàn diện; để việc
phán quyết của Hội đồng xét xử (HĐXX) được đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ là sự
đánh giá kết quả hoạt động của các giai đoạn điều tra, truy tố mà còn có tác
dụng to lớn đối với chính giai đoạn xét xử. Kiểm sát viên (KSV) đại diện cho
VKS giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một chủ thể
chính của bên buộc tội tham gia vào hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
Thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ, tình tiết về vụ án
được kiểm tra, xác minh thông qua việc xét hỏi và tranh luận giữa các bên
giúp cho HĐXX xác định đúng đắn toàn diện sự thật khách quan của vụ án,
làm cơ sở để ra bản án hoặc quyết định bảo đảm đúng pháp luật, tránh oan sai
hoặc bỏ lọt tội phạm. Chính vì vậy, trong những năm qua, hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa luôn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu pháp
luật, ngoài ra còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng
pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm còn nhiều vướng mắc, hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu
quả của hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, không đảm bảo yêu cầu
nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của công cuộc cải cách tư pháp.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ hoạt động tranh tụng của VKS thông qua
chức năng, nhiệm vụ của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để tìm ra những
hạn chế, bất cập và đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục, nâng cao
chất lượng hoạt động tranh tụng của KSV có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi


3


vậy, học viên đã chọn đề tài: "Hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự đã được nhiều nhà khoa học pháp lý và cán bộ thực tiễn
quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau như Luận văn thạc
sĩ luật học “Vấn đề tranh tụng trong Tố tụng hình sự” của Nguyễn Đức Mai
(1996); Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm” của Nguyễn Hải Ninh (2003);“Tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm” (2007) của TS. Dương Thanh Biểu; Luận văn thạc sĩ luật học “Chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm” của Hà Minh Hải (2007); Luận văn thạc sĩ luật học “Tranh tụng tại
phiên tòa theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của Bùi Thị Hà
(2010);“Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 liên
quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - cơ sở lý luận và thực tiễn”, Đề
tài khoa học cấp cơ sở TANDTC (2011), Chủ nhiệm - TS. Nguyễn Đức Mai;
Luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục tranh luận tại phiên toà hình sự”của Đặng
Thị Giao (2011); Luận văn thạc sĩ luật học“Thực hành quyền công tố trong
điều kiện mở rộng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp Nhìn nhận từ thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân” của Nguyễn Thị Hoàng
Minh (2013); Luận văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về tranh luận tại phiên tòa” của Lý Bích Hường (2015)…
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành về các
vấn đề có liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa hình sự như:“Đặc điểm mô
hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình Tố tụng hình sự
ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Đức Mai (2009), Tạp chí TAND, (23-24);


4


“Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về phạm vi
tranh luận và chủ thể tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của ThS. Hồ
Đức Anh (2007), Tạp chí Kiểm sát,(20); “Cần nhận thức đúng đắn về tranh
tụng và tranh luận để nâng cao kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại các
phiên tòa hình sự” của ThS. Nguyễn Hữu Hậu (2006), Tạp chí Kiểm sát, (8);
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự” của Th.s Phạm Quang Định (2009), Tạp chí Kiểm
sát, (2); “Kỹ năng và văn hóa tranh luận tại phiên tòa” của LS Lê Đức Tiết
(2005), Tạp chí Kiểm sát, (12); “Một số vấn đề về văn hóa ứng xử của Kiểm
sát viên tại phiên tòa” của TS Đinh Xuân Nam (2006), Tạp chí Kiểm sát,
(8);…
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên thấy rằng, nhìn chung các tác giả
thường nghiên cứu về vấn đề tranh tụng chung trong tố tụng, có ít các công
trình nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm. Vì vậy, đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách
hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Làm sáng tỏ vấn đề này cả về mặt lý luận cũng
như thực tiễn tạo sẽ cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đáp ứng yêu cầu
của cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
* Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ:
- Một số vấn đề chung về hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động tranh tụng của VKS tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;


5


- Thực trạng hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự những năm gần đây và những bất cập, vướng mắc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của
KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu luận văn được giới hạn trong nội dung về hoạt động
tranh tụng của VKS thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Bao gồm một số vấn chung về tranh tụng trong tố tụng
hình sự như khái niệm, ý nghĩa, nội dung… tranh tụng; quy định của
BLTTHS hiện hành về chức năng, nhiệm vụ của KSV trong tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tranh tụng của
VKS thông qua hoạt động của KSV những năm gần đây. Trên cơ sở đó đưa ra
giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về tranh tụng của KSV và
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động
tranh tụng của VKS thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, thực trạng tranh tụng cũng như các bất cập của quy định
pháp luật hiện hành để từ đó làm cơ sở kiến nghị một số giải pháp nâng cao
chất lượng tranh tụng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn tập trung trả lời các câu
hỏi sau:
- Nghiên cứu một số cơ sở lý luận của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm từ đó làm rõ hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét


6

xử sơ thẩm về hình sự là gì? BLTTHS quy định KSV có những nhiệm vụ,

quyền hạn gì trong tranh tụng tại xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
- Thực trạng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
hiện nay như thế nào? Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành có những quy định
bất cập, hạn chế gì về hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm. Phân tích, đánh giá những bất cập, hạn chế của pháp luật tố tụng hình
sự cũng như thực trạng hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa để từ đó
đề xuất phương hướng và các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương
pháp khảo sát thực tiễn tranh tụng tại những phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Góp phần phát triển cơ sở lý luận về hoạt động tranh tụng nói chung và
hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự;
- Nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về tranh
tụng.


7

- Phân tích, làm rõ hoạt động, chức năng và vai trò của VKS trong tranh
tụng tại phiên tòa theo BLTTHS năm 2003;
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, phương hướng nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở
các cơ sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự; các cán bộ công tác thực tiễn, nhất là những người tiến hành và
tham gia tố tụng của ngành Kiểm sát nói chung cũng như những bạn đọc khác
quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Một số vấn đề chung và quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Chƣơng 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.


8

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề chung về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.
1.1.1. Khái niệm hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Để làm rõ khái niệm hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (hình sự sơ thẩm), trước hết cần làm rõ các

khái niệm: tranh tụng; tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Theo nghĩa tiếng Việt thông dụng, tranh tụng có nghĩa là “Thưa kiện lên
Tòa án để phân xử phải trái” 1. Tranh tụng thường được hiểu theo nghĩa là
một hệ thống tố tụng. Trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu
là: tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Tố tụng tranh tụng là thủ tục tố
tụng được áp dụng rộng rãi ở các nước theo hệ thống luật án lệ Common Law
còn tố tụng thẩm vấn được sử dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống luật
Civil Law. Cụ thể:
Thứ nhất, về hệ thống tố tụng tranh tụng, có thể khái quát về một số đặc
điểm của hệ thống Tố tụng tranh tụng như sau:

. Vũ Xuân Thái (1999), Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin,

1

tr.895.


9

- Trong hệ tố tụng tranh tụng, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức
và chủ yếu. Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét
xử và tiến hành tố tụng chính, sự tập trung nhất của hệ thống tố tụng. Các
hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là
những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi
Luật tố tụng hình sự 2. Các chứng cứ trong vụ án đều do các bên trực tiếp đưa
ra trong quá trình tranh tụng giữa công tố viên và bị cáo, Luật sư.
- Trong tố tụng tranh tụng, thẩm phán giữ vai trò trung lập, là người
trọng tài trong việc tranh tụng. Thẩm phán không có trách nhiệm làm rõ bị
cáo phạm tội hay không phạm tội mà các chứng cứ đều do các bên đưa ra

trong quá trình tranh tụng. Tại phiên toà, thẩm phán làm nhiệm vụ điều khiển
phiên toà, không tham gia thẩm vấn, điều tra hoặc chỉ tham gia một cách hạn
chế để đảm bảo sự khách quan trong giải quyết vụ án.
- Trong tố tụng tranh tụng, các bên chủ thể hoàn toàn bình đẳng nhau, họ
được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra
độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Trách nhiệm
đưa ra chứng cứ buộc tội thuộc về công tố viên, và bên bào chữa có trách
nhiệm chứng minh là mình vô tội. Họ phải tự tìm kiếm, trình bày chứng cứ và
tranh luận một cách thuyết phục nhất trước Tòa án.
- Trong tố tụng tranh tụng có những quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt
động tố tụng như quy tắc tố tụng (Rule of procedure), quy tắc về chứng cứ
(Rule of Evidence) và quy tắc điều chỉnh đạo đức luật sư (Rule of ethics).
Trong đó, Quy tắc về chứng cứ bảo đảm sự thống nhất của các yếu tố trong
hệ tranh tụng. Nó ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy
. Phạm Hồng Hải (2004), "Tiến tới xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo kiểu tố tụng
tranh tụng", trong cuốn chuyên khảo: Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, tr. 256.
2


10

có thể làm Toà án đưa ra phán quyết dựa trên những thông tin sai lệch. Nó
cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không
công bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng. Quy tắc về chứng cứ cũng
tạo điều kiện ràng buộc luật sư để họ biết được những chứng cứ nào sẽ được
chấp thuận tại Toà sau này; đồng thời là cơ sở để xác định thẩm quyền của
thẩm phán chủ toạ phải điều hành diễn biến, thủ tục phiên toà: ông ta không
có quyền chọn chứng cứ mà ông ta thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các
quy tắc chứng cứ đã được xác định trước 3.

- Ngoài ra, trong tố tụng tranh tụng còn có yếu tố thú tội và mặc cả nhận
tội. Trong nhiều trường hợp bên buộc tội nhiều khi không thể tìm ra đủ chứng
cứ để buộc tội một cách rõ ràng, thuyết phục đối với bị cáo. Bởi vậy luật pháp
có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ
quan công tố thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin
về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số
tội hoặc giảm hình phạt….
Đây là cơ chế tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất
kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì toàn bộ thủ tục tố tụng đối với vụ
án sẽ được thay đổi theo hướng không còn tranh tụng nữa và lúc đó Thẩm
phán sẽ kiểm tra lại hồ sơ vụ án và quyết định hình phạt.
Thứ hai, hệ tố tụng thẩm vấn. Tòa án trong tố tụng thẩm vấn có vai trò
chủ động trong việc tìm ra sự thật của vụ án hơn rất nhiều so với tố tụng tranh
tụng bằng cách có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. Quá trình xét
xử tại phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là cuộc tranh tụng giữa
các bên buộc tội và gỡ tội, mà thực chất vẫn là sự tiếp tục của việc điều tra,

. Nguyễn Hải Ninh, Nguyễn Hà Thanh (2009), “Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trong
tư pháp hình sự thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (11), tr. 72-79.
3


11

thẩm định chứng cứ, tìm chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Các
cơ quan tố tụng đều làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội đối với vụ bị cáo.
Trong tố tụng thẩm vấn, Viện công tố (Viện kiểm sát) có những quyền
hạn lớn hơn trong quá trình điều tra và truy tố so với trong tố tụng tranh tụng.
Viện công tố có thẩm quyền phê chuẩn khởi tố vụ án, trực tiếp điều tra và chỉ
đạo hoạt động điều tra của cảnh sát điều tra.

Tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay thường được xem là kiểu tố tụng
thẩm vấn những có kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng.
Trước đây, về mặt lý luận tranh tụng không được thừa nhận và thuật ngữ
"tranh tụng" không được dùng trong các văn bản pháp luật của nước ta. Trước
yêu cầu cải cách tư pháp,Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian
tới (Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002) đưa ra yêu cầu:
“Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia
tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của KSV, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn… để ra những bản án quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục trong thời hạn do luật định.”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2006) tiếp tục xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải
cách tư pháp là “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp,
chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp”.


12

Hiện nay còn đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tranh
tụng tại phiên tòa; phạm vi, phương pháp và nội dung tranh tụng; thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc của tranh tụng tại phiên tòa. Theo Hiến pháp
2013, tranh tụng là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Nhưng tranh tụng
cũng thể được nhìn nhận là hoạt động của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Có quan điểm đồng nhất tranh tụng tại phiên tòa với

tranh luận. Có quan điểm lại cho rằng "Không nên hiểu tranh tụng đơn thuần
là việc tranh luận một cách đầy đủ tại phiên tòa, mà cần phải hiểu bản chất
của tranh tụng là một phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án" 4.
Từ điển Luật học đưa ra khái niệm về tranh tụng như sau:
“ Tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng
với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm
và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành
tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng nhằm bảo vệ ý kiến,
luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia dưới
sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian trọng tài” 5.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết người viết đồng tình với
các định nghĩa đó về khái niệm tranh tụng và tranh tụng tại phiên tòa và cho
rằng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng
được tiến hành giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
về hình sự để bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận
điểm của phía bên kia dưới sự điều khiển của Tòa án nhằm tìm ra sự thật
. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố
tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, tr. 592.
5
. Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807 – 808.
4


13

khách quan của vụ án. Theo đó, tranh tụng tại phiên tòa không chỉ có phần
tranh luận tại phiên tòa mà còn bao gồm cả phần khác của quá trình xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.

Từ những khái niệm nói trên về tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa, hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, ta có thể đưa ra khái niệm về hoạt động
tranh tụng của VKS tại phiên tòa xét xử sơ thẩm về hình sự như sau: Hoạt
động tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là toàn bộ những
hành vi mà KSV thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm từ khi bắt đầu xét hỏi
cho đến khi kết thúc phần tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, bảo vệ quan điểm truy tố của VKS, bác bỏ quan điểm của bên gỡ
tội, giúp cho HĐXX ra một bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
1.1.2. Chủ thể của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự ở các nước trên thế giới nói chung và pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam nói chung xác định có các nhóm chủ thể tham gia
vào quá trình tranh tụng tại phiên tòa là: Các chủ thể thực hiện chức năng
buộc tội (bên buộc tội); Các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội, bào chữa
(bên gỡ tội) và Tòa án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử, đóng vai trò
trung gian, điều khiển hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Ba nhóm chủ thể
này thực hiện các chức năng của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội, gỡ tội,
xét xử.
Các bên chủ thể tranh tụng sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng
như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, các quy định của
pháp luật hiện hành để bảo vệ quan điểm, luận cứ và luận chứng của mình
đưa ra. HĐXX có vai trò trọng tài, trung gian đứng giữa hai bên xem xét tất


14

cả chứng cứ do bên buộc tội, bên gỡ tội đưa ra và những lý lẽ để luận tội và
bào chữa. Để tranh tụng tại phiên tòa đạt được kết quả, Thẩm phán Chủ tọa
phiên tòa có quyền điều khiển phiên tòa theo đúng tiến trình tranh tụng.

Trong quá trình tranh tụng, HĐXX luôn thể hiện sự khách quan, tập trung
lắng nghe việc tranh tụng của các bên để thấy thấy những tình tiết chứng cứ
nào còn chưa rõ và những vấn đề còn mâu thuẫn, Chủ tọa phiên tòa cho hai
bên tranh luận rõ hơn, chất vấn nhau nhiều hơn để làm sáng tỏ vấn đề, đồng
thời dựa trên sự đánh giá khách quan toàn diện những chứng cứ, tình tiết, quá
trình tranh luận trên mà HĐXX sau đó có phán quyết công bằng.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, KSV đại diện
cho VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa là chủ thể chính của bên buộc tội.
Thực hành quyền công tố tại phiên tòa là chức năng của VKS được quy định
trong tố tụng hình sự. Trên cơ sở chức năng này, khi thực hành quyền công tố
tại phiên tòa hình sự, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy
định trong BLTTHS. Việc tranh tụng tại phiên tòa không chỉ là quyền mà còn
là nghĩa vụ của KSV được quy định trong BLTTHS. Ngoài KSV, người bị hại
cũng có thể là chủ thể buộc tội trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại.
Chủ thể chính của bên gỡ tội là bị cáo, người bào chữa hoặc người đại
diện hợp pháp của bị cáo. Bên gỡ tội sử dụng những lập luận, lý lẽ, chứng cứ
của mình đưa ra nhằm bào chữa, bác bỏ quan điểm buộc tội của VKS đối với
bị cáo, hoặc để thay đổi sang tội danh khác nhẹ hơn để bị cáo không phải chịu
trách nhiệm hình sự hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, những người tham gia tố tụng khác như nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại


15

diện hợp pháp của họ cũng có thể tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Chức năng làm trọng tài, điều khiển hoạt động tranh tụng giữa các bên
và ra phán quyết về vụ án thuộc về Tòa án mà ở đây là thông qua hoạt động

của HĐXX. Trong các thành viên của HĐXX thì chỉ có Chủ tọa phiên tòa
mới tham gia vào quá trình tranh tụng. Chủ tọa phiên tòa là người điều khiển
hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên tập trung vào các vấn đề cần giải
quyết trong vụ án, đảm bảo các nội dung tranh luận được đối đáp đầy đủ.
1.1.3. Nội dung hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ nhất, hoạt động tranh tụng của VKS tại phiên tòa được thực hiện
thông qua hành vi của KSV nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
KSV khi tham gia phiên tòa là đại diện cho VKS thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX. Do vậy, việc tranh tụng
của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là nhằm mục đích đại diện Nhà nước
thực hành quyền công tố tại phiên tòa, đọc cáo trạng hoặc quyết định truy tố
của VKS, tham gia xét hỏi để làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án nhằm
bảo vệ cáo trạng, quyết định truy tố, đưa ra các chứng cứ, thực hiện việc luận
tội và thực hiện việc đối đáp đối với từng vấn đề cần giải quyết mà bên gỡ tội
và những người tham gia tố tụng khác đặt ra khi tranh luận. Hoạt động đưa ra
các lập luận, chứng cứ buộc tội bị cáo, bảo vệ quan điểm truy tố là hoạt động
tranh tụng đặc thù, về cơ bản chỉ có ở KSV đại diện cho VKS.
Thông qua hoạt động tranh tụng KSV thuyết phục HĐXX ra các quyết
định theo ý kiến đề nghị của mình, bác bỏ ý kiến đề nghị có tính chất đối lập
của bên gỡ tội, đồng thời KSV phải có trách nhiệm bảo vệ công lý, cùng


16

HĐXX làm rõ mọi tình tiết của vụ án, áp dụng đúng pháp luật để giải quyết
vụ án một cách khách quan, công bằng, nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm
không làm oan người vô tội. Phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý

kiến của KSV, của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác.
Thứ hai, KSV phải áp dụng những quy định của pháp luật khi thực hiện
hoạt động tranh luận.s
Để phục vụ cho quá trình tranh tụng tại phiên tòa, KSV phải chuẩn bị
những tài liệu chứng cứ cần thiết để bảo vệ lý lẽ của mình như cáo trạng, dự
thảo luận tội, dự thảo đề cương xét hỏi... Trong quá trình đó KSV cần phải
vận dụng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Đó là quá trình
dựa vào chứng cứ đã được thu thập, căn cứ vào các điều khoản được quy định
trong pháp luật hình sự và các văn bản khác để đối chiếu so sánh tìm ra
những tình tiết buộc tội để truy tố với những chứng cứ chặt chẽ nhất nhằm
không bỏ lọt tội phạm. Tại phiên tòa, KSV phải trình bày sao cho có sức
thuyết phục nhất trước HĐXX. Khi tiến hành đối đáp, tranh luận, KSV đưa ra
những chứng cứ, lập luận, quy định pháp luật để chứng minh cho luận điểm
của mình và bác bỏ luận điểm của bên gỡ tội.
1.1.4. Phạm vi hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phạm vi tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm được xác định
bởi thời điểm bắt đầu từ khi khai mạc phiên tòa và kết thúc sau khi Tòa án
công bố phán quyết nhưng phạm vi hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên
toà xét xử hình sự sơ thẩm được tiến hành từ giai đoạn xét hỏi đến khi kết
thúc giai đoạn tranh luận. Vì theo người viết, trong những giai đoạn khác của


17

phiên tòa hình sự, KSV không thực hành quyền công tố (trong đó có hoạt
động tranh tụng) mà thực hiện hoạt động kiểm sát việc xét xử, vì vậy, KSV
không thực hiện tranh tụng trong các giai đoạn này.
Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn đầu tiên của quá trình tranh tụng của

KSV tại phiên tòa, bao gồm các hoạt động đọc bản cáo trạng và tiến hành xét
hỏi. Hoạt động tranh tụng được bắt đầu từ giai đoạn xét hỏi vì đây là giai
đoạn KSV nêu ra quan điểm buộc tội của VKS (đọc bản cáo trạng) đối với bị
cáo và trình bày ý kiến bổ sung trước khi xét hỏi. Hoạt động tranh tụng của
KSV tại phiên tòa kết thúc khi kết thúc tranh luận. Khi HĐXX nghị án và
tuyên án, KSV thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
các hoạt động, quyết định, bản án của HĐXX chứ không thực hiện hoạt động
tranh tụng.
1.1.5. Ý nghĩa của hoạt động tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Việc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và
tranh tụng của Viện kiểm sát nói riêng là nội dung có ý nghĩa quan trọng cả
về mặt chính trị - xã hội và về mặt pháp lý.
Về mặt chính trị - xã hội, việc đảm bảo và nâng cao chất lượng hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thể hiện đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền, cải
cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2006. Đó là nâng cao chất lượng công tố
của KSV tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ. Nâng cao chất lượng hoạt
động tranh tụng tại phiên tòa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm
xây dựng một nền tư pháp dân chủ, nghiêm minh, tăng cường pháp chế; giữ
vững bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta và


18

bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức và công dân.
Về mặt pháp lý, tranh tụng của VKS tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một
trong những nội dung có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo

đảm bình đẳng, dân chủ, xác định sự thật khách quan của vụ án; kịp thời phát
hiện và khắc phục các vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Tố tụng hình sự Việt Nam là mô hình
tố tụng thẩm vấn kết hợp với những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng
tranh tụng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta
đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Đây cũng chính là mục đích xuyên
suốt của tố tụng hình sự nước ta. Vì vậy, VKS với chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, thực hiện
hoạt động tranh tụng cũng không nhằm điều gì khác ngoài xác định sự thật
khách quan của vụ án.
Tranh tụng tại phiên tòa là tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án hình
sự, là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất bản chất của tranh tụng trong tố tụng hình
sự là cuộc đấu tranh trực diện công khai giữa hai bên buộc tội và gỡ tội để tìm
ra công lý. Tranh tụng tại phiên tòa là trọng tâm và có vai trò rất quan trọng
đối với việc giải quyết, xét xử vụ án. Tại phiên tòa, VKS thực hiện việc buộc
tội và và bị cáo, người bào chữa thực hiện việc bào chữa, gỡ tội dưới sự điều
khiển của Chủ tọa phiên tòa. Các bên đưa ra các chứng cứ, quan điểm, lập
luận của mình trong việc giải quyết vụ án. Việc đối đáp, tranh tụng giữa
VKSvà những người tham gia tố tụng khác sẽ bảo đảm căn cứ, cơ sở cho
HĐXX kiểm tra, đánh giá chứng cứ đưa ra kết luận khách quan, toàn diện về
vụ án, bảo đảm và tăng cường dân chủ trong xét xử. Giúp HĐXX có thể xác
định được đầy đủ và toàn diện các tình tiết khách quan của vụ án và đưa ra


19

phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua đó, tránh được việc
quá phụ thuộc hồ sơ vụ án để đưa ra phán quyết, xóa bỏ tư tưởng án tại hồ sơ,
hạn chế oan sai, bỏ lọt tội phạm.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về hoạt động

tranh tụng của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
VKS thực hiện việc tranh tụng thông qua hoạt động của KSV tại phiên tòa.
Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013, Khoản 1 Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy
định VKS có chức năng thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết
định việc truy tố người phạm tội ra trước tòa án. Trên cơ sở thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố của VKS, khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm, KSV phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể có liên quan đến hoạt động
tranh tụng được quy định tại Khoản 1 Điều 37 BLTTHS năm 2003:
“ Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của VKS liên quan
đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội;
phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên toà”
1.2.1. Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên khi xét hỏi.
Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tranh tụng của
KSV tại phiên tòa. Giai đoạn xét hỏi được quy định tại Chương XX BLTTHS
năm 2003, bao gồm hoạt động đọc bản cáo trạng (quyết định truy tố) và tiến
hành xét hỏi, thẩm tra và thu thập chứng cứ mới tại phiên tòa. Hoạt động tranh
tụng của KSV bao gồm những hành vi cụ thể sau:
Thứ nhất, đọc bản cáo trạng (quyết định truy tố bị can) tại phiên tòa. Đọc
bản cáo trạng là hoạt động đầu tiên của KSV khi tiến hành tranh tụng tại phiên
tòa. Theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2003 thì trước khi tiến hành xét


20

hỏi KSV đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Những ý kiến
bổ sung nhằm làm rõ nội dung của bản cáo trạng đã truy tố như vấn đề về chứng
cứ, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự… Tuy nhiên,để bảo đảm quyền lợi của
người bị buộc tội, KSV không được trình bày những ý kiến bổ sung về tội danh
hay bổ sung thêm người phạm tội chưa được đề cập tại bản cáo trạng. Nội dung

của bản cáo trạng phải căn cứ vào kết quả điều tra và quá trình nghiên cứu hồ sơ
vụ án, phải thể hiện đầy đủ hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, hậu quả và các
tình tiết quan trọng khác, người đã thực hiện hành vi phạm tội đã phạm vào điều
khoản nào của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị can cũng là căn cứ để giới
hạn việc xét xử của Tòa án và là căn cứ để thực hiện quyền bào chữa của bị cáo.
Ta có thể hiểu: "Bản cáo trạng là văn bản áp dụng pháp luật, trong đó VKS
quyết định truy tố một (hoặc nhiều) bị can, về một tội (hoặc nhiều) hành vi
phạm tội mà có căn cứ cho rằng bị can (hoặc nhiều bị can) đó đã thực hiện ra
trước Tòa án để xét xử" 6.
Thứ hai, KSV tham gia xét hỏi tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm truy tố
của VKS. Khi xét hỏi, KSV tiến hành xét hỏi những người tham gia tố tụng,
xuất trình tài liệu, chứng cứ nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của VKS. Theo quy
định tại Điều 207 BLTTHS năm 2003 về trình tự xét hỏi, thì KSV tham gia xét
hỏi sau khi Chủ tọa phiên tòa, các Hội thẩm đã hỏi xong. Sở dĩ pháp luật tố tụng
quy định về trình tự xét hỏi bởi vì xuất phát từ trách nhiệm chứng minh, xác
định sự thật khách quan của vụ án là thuộc về HĐXX. Do vậy HĐXX phải hỏi
trước để thẩm tra khái quát các thông tin về các tình tiết của vụ án để xác định
hướng xét hỏi cho các chủ thể tham gia tranh tụng. KSV là chủ thể buộc tội sẽ
thực hiện quyền công tố của VKS thông qua việc xét hỏi để làm rõ hơn và kiểm
chứng một cách công khai các chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được
. Trần Đại Thắng (2003), "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát,
(Số chuyên đề), tr. 339.
6


21

trong quá trình điều tra vụ án. Việc xét hỏi của KSV cũng để bảo vệ cáo trạng
mà VKS đã truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử, đồng thời cũng làm cơ sở
để đánh giá lại một cách khách quan, toàn diện các chứng cứ mà VKS đã dùng

để buộc tội bị can thông qua việc hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng
khác. Thông qua việc xét hỏi, KSV sẽ có căn cứ để đề xuất mức hình phạt và
các biện pháp xử lý khác đối với vụ án trong việc luận tội bị cáo tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm.
Trước khi tham gia phiên toà, KSV phải dự thảo đề cương tham gia xét hỏi
và những nội dung cần làm sáng tỏ, dự kiến các tình huống khác có thể phát sinh
tại phiên toà để tham gia xét hỏi nhằm xác định sự thật của vụ án và các tình tiết
khác có liên quan đến việc định tội và đề xuất hình phạt. Chú ý các mâu thuẫn
và cách xét hỏi để giải quyết các mâu thuẫn, để bác bỏ những lời chối tội không
có cơ sở; dự kiến nội dung bào chữa và chuẩn bị các câu hỏi để làm sáng tỏ vấn
đề mà người bào chữa quan tâm. 7
Trong quá trình xét hỏi, KSV có thể công bố lời khai của người được xét
hỏi tại Cơ quan điều tra, VKS (nếu có) trong những trường hợp nhất định. Cụ
thể, Khoản 2 Điều 208 BLTTHS năm 2003 quy định KSV có thể công bố lời
khai của người được xét hỏi trong những trường hợp sau:
“a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với
lời khai của họ tại Cơ quan điều tra;
b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa;
c) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.”

7

. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ – VKSTC ngày 17/9/2007
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao), Hà Nội, khoản 1 Điều 22.


×