Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

đánh giá công tác giao đất trên địa bàn huyện Phổ Yên Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.24 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay đất đai luôn là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của tất cả
các quốc gia, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của con người và
các sinh vật, đây cũng là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế.
Đất đai còn gắn liền với chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia mỗi dân tộc, vì
vậy quản lý đất đai luôn là yêu cầu và nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia trong
bất cứ giai đoạn lịch sự phát triển nào.
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa ngày càng diễn ra mạnh mẽ, dân số gia tăng, nhu cầu sử dụng đất làm nơi cư
trú, làm tư liệu sản xuất ngày càng lớn thì áp lực đối với vấn đề quản lý đất đai lại
càng đè nặng và sát sao. Yêu cầu quản lý để sử dụng đất đai một cách tiết kiệm,
hiệu quả là vô cùng cần thiết ( Nguyễn Thị Lợi, 2007).
Ở nước ta sự ra đời của hiến pháp 1992 là một dấu mốc đầu tiên vô cùng quan
trọng, đưa việc quản lý quỹ đất thực hiện theo đúng quy định của nhà nước, Luật
Đất đai và những văn bản pháp lý có tính liên quan . Việt Nam có tổng diện tích
32.924.061 ha, xếp thứ 59 trong tổng số 200 nước trên thế giới, nhưng dân số lại
rất đông vào khoảng gần 90 triệu dân, đứng thứ 13 trên thế giới. Vì vậy, kéo theo
đó bình quân diện tích tự nhiên trên đầu người ở nước ta là rất thấp, chỉ bằng 1/7
mức bình quân của thế giới. Mặt khác 3/4 diện tích ở nước ta là đồi núi và đất dốc,
vì vậy việc sử dụng đất đai hiệu quả, kết hợp với những biện pháp cải tạo, bảo vệ
đất đai đã trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nước ta.
Thực tế đã cho thấy những sai lầm của chúng ta trong quá trình sử dụng đất
đã nẩy sinh nhiều mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường ngày càng gay gắt, đang
làm hủy hoại tài nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên đất đai nói riêng.
Nước ta đang trong tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới trong điều kiện toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, một trong các nguồn lực
để phát triển kinh tế xã hội, đất đai luôn đặc biệt được quan tâm.
Thị xã Phổ Yên là một đơn vị hành chính cấp huyện trung du miền núi của
tỉnh Thái Nguyên, là cửa ngõ phía nam của tỉnh. Quá trình công nghiệp hóa và đô


thị hóa của Phổ Yên diễn ra ngày càng mạnh mẽ, nên nhu cầu sử dụng đất cũng
như vấn đề sử dụng và quản lý đất đai đã và đang đặt ra cho cho nghành Tài
Nguyên và Môi Trường của thị xã nhiều khó khăn và thách thức cần được thực
hiện và giải quyết. Xuất phát từ yêu cầu yêu cầu của thực tiễn, được sự đồng ý của


khoa Sau Đai Học , trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn
của thầy giáo TS. Dư Ngọc Thành, tôi tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài
“Đánh giá công tác quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất chuyển mục
đích sử dụng đất”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được tình hình công tác việc quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất tại thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên trong
giai đoạn 2014 – 2016.
Xác định những hạn chế, khó khăn còn tồn tại trong công tác quản lý từ đó
định hướng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý
việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất trong giai
đoạn tiếp theo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Điều tra, phân tích về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của thị xã Phổ Yên.
Đánh giá tình hình công tác quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất tại địa phương
Xác định những khó khăn và hạn chế còn tồn tại.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý việc
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất tại thị xã Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn mới.
3. Yêu cầu của đề tài
Số liệu thu thập được có độ khách quan, chính xác cao.
Từ kết quả nghiên cứu phải đưa ra được những nguyên nhân của những tồn

tại, yếu kém để từ đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi và phụ hợp với điều
kiện của địa phương
4. Ý nghĩa của đề tài
Tìm hiểu, nắm chắc kiến thức về công tác quản lý về giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất nói chung , có được những kinh nghiệm
thực tế, củng cố và hoàn thiện thêm kiến thức của bản thân, áp dụng kiến thức đã
học vào thực tế trong quá trình làm việc công tác.
Đánh giá được tình hình quản lý quản lý về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích sử dụng đất tại địa phương, tiến hành nghiên cứu, xác định được
những tồn tại chủ yếu, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và
các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về đất đai. Đất đai là tài
nguyên thiên nhiên, là sản phẩm của quá trình đấu tranh và lao động của nhân dân
ta, trong lực lượng sản xuất “lao động là cha, đất là mẹ sinh ra của cải vật chất cho
xã hội”. Do đất đai giữ một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội như vậy nên
theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác-xít thì đất đai đóng một vai trò kinh tế
và chính trị to lớn trong quá trình phát triển của xã hội.
Toàn bộ đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản
lý là một định hướng chính trị cơ bản đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 để
xác lập mối quan hệ sở hữu, quản lý và sử dụng đối với đất đai trong giai đoạn
cách mạng hiện nay ở nước ta. Luật đất đai năm 2003 còn xác định rõ, cụ thể nội
hàm của sở hữu toàn dân về đất đai, đó là: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu” ( Luật đất đai 2003). Từ nhận thức trên, Đảng và Nhà
nước ta đã thường xuyên và luôn luôn quan tâm đến vấn đề đất đai. Trong mỗi giai
đoạn cách mạng đã ban hành những đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật

đất đai cho phù hợp, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng đã
đề ra. Vì lẽ đó trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
X Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Hoàn thiện luật pháp,
cơ chế, chính sách về sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện đối với đất đai, tài
nguyên, vốn và các tài sản công để các nguồn lực này được quản lý, sử dụng có
hiệu quả” (Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn,2008). Cương lĩnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam (bổ sung, phát triển năm 2011) đã ghi: “… Quản lý, bảo vệ, tái
tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia” (Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn,2008).
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục tiêu
bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án.
Các dự án đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường. Thực hiện
nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện hệ thống


luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý các
hành vi vi phạm. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái,
nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương trình trồng rừng, ngăn chặn
có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên.
Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các
nguồn tài nguyên thiên nhiên khác…”(Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn,2008). Trong Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ
XVIII cũng đã nêu: “Sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên đất phục vụ cho công nghiệp…” (Đảng Cộng sản
Việt Nam,2011).
Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVIII, nhiệm
kỳ 2010-2015 đã ghi: Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, công tác

quy hoạch, quản lý quy hoạch, bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hút đầu tư, huy
động vốn và các nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tăng cường công tác
quản lý và bảo vệ môi trường: Thực hiện tốt Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc
gia. Gắn nhiệm vụ bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên với quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tăng cường công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của từng cá nhân và toàn xã hội về
sự cần thiết phải bảo vệ môi trường đối với yêu cầu phát triển bền vững. Nâng cao
hiệu quả hoạt động của cơ quan chuyên trách bảo vệ môi trường, kiên quyết xử lý
những tổ chức, các nhân vi phạm Luật Bảo vệ môi trường (Đảng bộ tỉnh Thái
Nguyên, 2011). Và cũng tại Điều 15 Luật đất đai 2003 quy định: như lấn, chiếm
đất đai; không sử dụng, sử dụng đất không đúng mục đích; vi phạm quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được công bố; huỷ hoại đất; không thực hiện đúng quy định
của pháp luật khi sử dụng các quyền của người sử dụng đất; không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của người sử dụng đất. Nhà nước
nghiêm cấm hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu
trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái các quy định về quản lý đất đai.
1.1.2. Cơ sở pháp lý của đề tài
Cở sở pháp lý:
Từ bao đời nay, trong sử dụng đất, ông cha ta đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm. Hiện nay, những kinh nghiệm này đã được ánh sáng của khoa học và công
nghệ làm sáng tỏ. Sự hoà quyện giữa những kinh nghiệm truyền thống với khoa
học, công nghệ hiện đại đã tạo ra những giá trị mới trong sử dụng đất.


Thật vậy, nói tới sử dụng đất hợp lý, nhất thiết phải đi đôi với bảo vệ và bồi
dưỡng đất, xong muốn bảo vệ đất một cách cơ bản không thể chỉ áp dụng một biện
pháp duy nhất. Nếu chỉ áp dụng biện pháp đơn độc, thiếu tính tổng hợp thì biện
pháp đó sẽ mang lại hiệu quả thấp và không ít trường hợp một số mặt yếu của biện
pháp đó sẽ nhanh chóng bộc lộ và ngay tức khắc bị các mục tiêu chung phủ định.

Khi xã hội phát triển ở trình độ cao, việc sử dụng đất luôn hướng tới mục tiêu kinh
tế nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên một đơn vị diện tích đất nhất định như xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, trang trại sản xuất quy mô lớn….
Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ sử dụng để phục vụ nhu cầu
sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của con người như xây dựng
nhà ở, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể dục thể thao, văn hóa xã hội,
mở mang phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn…. Tuy nhiên, trong quá trình
sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu trên luôn nảy sinh mâu thuẫn làm cho
mối quan hệ giữa con người và đất đai ngày càng căng thẳng. Những sai lầm liên
tục của con người trong quá trình sử dụng đất (sai lầm có ý thức hoặc vô ý thức)
dẫn đến hủy hoại môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng (lũ lụt, hạn
hán, cháy rừng, trượt lở đất…) liên tục xảy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ
này càng nghiêm trọng làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi. Để thỏa mãn
nhu cầu của con người cả về 3 lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường nhất thiết phải
giải quyết các xung đột này để sử dụng đất có hiệu quả. Việc sử dụng đất như một
thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo ra hiệu quả sử
dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường và
nâng cao chất lượng môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hòa được các
mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường.
Chính vì vậy, cần phải hiểu rõ được tầm quan trọng của tài nguyên đất, từ đó
đưa ra những kế hoạch quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này một cách hợp lý
nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cho nhu cầu của hiện tại nhưng không
làm ảnh hưởng đến lợi ích của thế hệ tương lai. Ngày nay, sử dụng đất bền vững,
tiết kiệm và có hiệu quả đã trở thành chiến lược quan trọng có tính toàn cầu. Nó
đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Nhằm quản lý và
bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai một cách hợp lý phục vụ mục tiêu phát triển bền
vững cho nhu cầu của hiện tại những không làm ảnh hưởng đến lợi ích của thế hệ
tương lai, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã tập trung tháo gỡ những
khó khăn, mà bước đột phá đầu tiên là Luật Đất đai năm 1993, sửa đổi năm 1998,
Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua. Bên



cạnh đó, nhiều bộ luật liên quan khác cũng đã được ban hành, như Luật Bảo vệ và
phát triển rừng; Luật Bảo vệ môi trường;... và các nghị định, thông tư, văn bản
hướng dẫn thi hành Luật do Chính phủ, các bộ, ngành, UBND tỉnh Thái Nguyên
ban hành. Sau đây là những cơ sở pháp lý được nghiên cứu để thực hiện đề tài.
* Các văn bản của nhà nước:
Hiến pháp năm 1992;
Luật đất đai 1993;
Luật Đất đai 2003;
Luật đất đai 2013;
Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật đất
đai 2013;
Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất;
Nghị định 45/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền sử dụng đất (có hiệu lực từ
ngày 01/07/2014);
Nghị định 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất;
Thông tư 23/2014/TT-BTNMT về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất;
Thông tư 24/2014/TT-BTNMT về hồ sơ địa chính;
Thông tư 26/2014/TT-BTNMT về quy trình và định mức kinh tế - kỹ thuật
xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường ban hành;
Thông tư 29/2014/TT-BTNMT về Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
Thông tư 30/2014/TT-BTNMT về Quy định quy định về hồ sơ giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất;
Thông tư 34/2014/TT-BTNMT quy định về xây dựng, quản lý, khai thác hệ

thống thông tin đất đai;
Thông tư 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương án định giá đất, xây
dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
Thông tư 76/2014/TT-BTC hướng dẫn nghị định 45 về thu tiền sử dụng đất;
Thông tư 77/2014/TT-BTC hướng dẫn nghị định 46 về thu tiền thuê đất, thuê
mặt nước;


Thông tư 37/2014/TT-BTNMT quy định Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
* Các văn bản của UBND tỉnh Thái Nguyên:
Quyết định số 38/2014/QĐ-UBND ngày 8/9/2014 của UBND tỉnh Thái
Nguyên ban hành quy định về hạn mức đất ở khi giao đất và hạn mức công nhận
đất ở đối với trường hợp thửa đất có vườn, ao khi cấp GCN QSD đất cho mỗi hộ
gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 326/2006/QĐ- UB ngày 27/2/2006 của uỷ ban nhân dân tỉnh
Thái Nguyên về việc ban hành quy trình về thu hồi đất, quản lý quỹ đất đã thu hồi,
trình tự thủ tục xin giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSD đất trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên;
Quyết định số 1597/2007/QĐ-UBND ngày 10 tháng 8 năm 2007 của UBND
tỉnh Thái Nguyên về việc điều chỉnh cấp đổi GCN QSD đất, GCN quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với thửa đất có vườn, ao đã cấp vượt hạn mức
đất ở theo quy định do không tách diện tích đất ở và đất vườn, ao trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên;
Quyết định số 12 /2011/QĐ-UBND về việc ban hành Quy định về cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất; Đăng ký biến động về sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất, trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên;
Quyết định 36/2013/QĐ-UBND Phê duyệt giá các loại đất trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên năm 2014;

Quyết định 57/2014/QĐ-UBND về Bảng giá đất trong giai đoạn 2015 - 2019
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
Quyết định 31/2014/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
1.2. Tình hình sử dụng đất trên Thế giới và trong nước
1.2.1. Tình hình sử đất trên Thế giới
Trong những bước đi ban đầu của công nghiệp hóa, chính nông thôn vừa là
nguồn cung cấp lao động, vừa là thị trường của công nghiệp. Nhưng càng vào giai
đoạn cuối của công nghiệp hóa và đô thị hóa, vai trò của nông nghiệp ngày càng
giảm sút. Trước tác động của quy luật thị trường, nhiều nước đã cố gắng phát triển
nông nghiệp, nhưng vẫn không giữ được an ninh lương thực, nên ngày càng phải lệ
thuộc vào thị trường bên ngoài. Điều đó đặc biệt nguy hiểm đối với những nước
đông dân. Một số nước đến lúc công nghiệp đã đạt trình độ phát triển cao, thì chính


phủ lại phải hỗ trợ nông nghiệp rất nhiều. Việc bảo hộ nông nghiệp đã trở nên cần
thiết tới mức các nước giàu khó lòng cắt bỏ được và đây cũng chính là vấn đề gây
nhiều tranh cãi trong các vòng đàm phán của WTO (Tổ chức Thương mại Thế
Giới), mà 5 năm gần đây thế giới đã chứng kiến những thất bại liên tiếp trong các
vòng đàm phán Đô-ha. Ở các nước Đông Á, trong thời kỳ công nghiệp hóa do có ít
đất (đất nông nghiệp chỉ còn dưới ngưỡng 400 m2 /người) nên phải nhập thức ăn
ngày càng nhiều. Ở Nhật Bản có dự báo rằng, trong 10 năm tới sẽ không còn nông
nghiệp nữa, vì hiện nay chỉ có người già làm ruộng. Nông dân Hàn Quốc đang gặp
nhiều khó khăn trong điều kiện toàn cầu hóa, nên họ đang đấu tranh chống lại quá
trình này rất mãnh liệt. Chỉ có Đài Loan chú ý đến nông nghiệp hơn cả, nhưng đến
nay cũng đã phải nhập thức ăn ngày càng nhiều. Trung Quốc đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề trong nông nghiệp, vì sản xuất lương thực có xu hướng giảm dần và
đang lo thiếu lương thực vì việc cung cấp cho hơn 1,3 tỉ người.
Theo tài liệu của Tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO) thì diện tích của phần
đất liền của các lục địa là 13.400 triệu ha, với 1.527 triệu ha đất đóng băng và

13.251 triệu ha đất không phủ băng. Trong đó có 1.500 triệu ha (11%) là đất canh
tác, 3.200 triệu ha (24%) là đồng cỏ chăn nuôi gia súc, 4.100 triệu ha (31%) là diện
tích rừng và đất rừng; 4.400 triệu ha (34%) còn lại là diện tích đất dùng vào các
việc khác (dân cư, đầm lầy, đất ngập mặn...). Diện tích đất có thể dùng cho canh
tác được đánh giá vào khoảng 3.200 triệu ha, hiện mới khai thác khoảng 1.500
triệu ha. Tại các vùng khác nhau, các nước khác nhau, tỉ lệ đất đã sử dụng canh tác
so với đất có tiềm năng canh tác cũng khác nhau. Đáng chú ý là khu vực Châu Á, tỉ
lệ này rất cao, đạt đến 92%; trái lại, ở Châu Mỹ Latinh con số này chỉ đạt 15%, các
nước phát triển là 70%, các nước đang phát triển là 36%. Trong diện tích đất canh
tác, đất cho năng suất cao chiếm 14 %, năng suất trung bình là 28% và năng suất
thấp là 58%.
Hàng năm trên thế giới diện tích đất canh tác bị thu hẹp, kinh tế nông nghiệp
trở nên khó khăn hơn. Hoang mạc hoá hiện đang đe doạ 1/3 diện tích trái đất, ảnh
hưởng đời sống ít nhất 850 triệu người. Một diện tích lớn đất canh tác bị nhiễm
mặn không canh tác được một phần cũng do tác động gián tiếp của sự gia tăng dân
số. Ở Việt Nam từ năm 1978 đến nay, 130.000 ha bị lấy cho thủy lợi, 63.000 ha
cho phát triển giao thông, 21 ha cho các khu công nghiệp. Theo số liệu của Viện
Tài nguyên Thế giới, năm 1993 quỹ đất của toàn thế giới khoảng 13 tỉ ha, mật độ
dân số 43 người/km2 . Một số nước có quỹ đất hạn hẹp như Hà Lan, Mỹ, Nhật,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Singapore (chỉ 0,3ha/người). Diện tích nước ta là trên 33 triệu


ha diện tích bình quân đầu người khoảng 0,4 ha. Quỹ đất trồng trọt tăng không
đáng kể trong khi dân số tăng nhanh nên diện tích đất trên đầu người ngày càng
giảm.
Đất ngày bị sa mạc hóa, bạc màu… do sự khai thác của con người. Khoảng
2/3 diện tích đất nông nghiệp trên thế giới đã bị suy thoái nghiêm trọng trong 50
năm qua do xói mòn rửa trôi, sa mạc hoá, chua hoá, mặn hoá, ô nhiễm môi trường,
khủng hoảng hệ sinh thái đất. Khoảng 40% đất nông nghiệp đã bị suy thoái mạnh
hoặc rất mạnh, 10% bị sa mạc hoá do biến động khí hậu bất lợi và khai thác sử

dụng không hợp lý. Sa mạc Sahara mỗi năm mở rộng lấn mất 100.000 ha đất nông
nghiệp và đồng cỏ. Thoái hoá môi trường đất có nguy cơ làm giảm 10 - 20% sản
lượng lương thực thế giới trong 25 năm tới. Tỷ trọng đóng góp gây thoái đất trên
thế giới như sau: mất rừng 30%, khai thác rừng quá mức (chặt cây cối làm củi,...)
7%, chăn thả gia súc quá mức 35%, canh tác nông nghiệp không hợp lý 28%, công
nghiệp hoá gây ô nhiễm 1%. Vai trò của các nguyên nhân gây thoái hoá đất ở các
châu lục không giống nhau: ở Châu Âu, Châu Á, Nam Mỹ mất rừng là nguyên
nhân hàng đầu, Châu Đại Dương và Châu Phi chăn thả gia súc quá mức có vai trò
chính yếu nhất, Bắc và Trung Mỹ chủ yếu do hoạt động nông nghiệp. Xói mòn rửa
trôi: Mỗi năm rửa trôi xói mòn chiếm 15% nguyên nhân thoái hoá đất, trong đó
nước đóng góp 55,7% vai trò, gió đóng góp 28% vai trò, mất dinh dưỡng đóng góp
12% vai trò. Trung bình đất đai trên thế giới bị xói mòn 1,8 - 3,4 tấn/ha/năm. Tổng
lượng dinh dưỡng bị rửa trôi xói mòn hàng năm là 5,4 - 8,4 triệu tấn, tương đương
với khả năng sản sinh 30 - 50 triệu tấn lương thực. Hoang mạc hoá là quá trình tự
nhiên và xã hội. Khoảng 30% diện tích trái đất nằm trong vùng khô hạn và bán khô
hạn đang bị hoang mạc hoá đe doạ và hàng năm có khoảng 6 triệu ha đất bị hoang
mạc hoá, mất khả năng canh tác do những hoạt động của con người. Tính tổng diện
tích bề mặt của toàn thế giới thì đại dương chiếm 71%, còn lại là diện tích lục địa
chỉ chiếm 29%. Bắc bán cầu có diện tích lớn hơn nhiều so với Nam bán cầu. Diện
tích đất nông nghiệp trên thế giới được phân bố không đều: Châu Mỹ chiếm 35%,
Châu Á chiếm 26%, Châu Âu chiếm 13%, Châu Phi chiếm 6%. Bình quân đất
nông nghiệp trên thế giới là 12.000 m2 . Đất trồng trọt toàn thế giới mới đạt 1,5 tỷ
chiếm 10,8% tổng diện tích đất đai trong đó có 46% đất có khả năng sản xuất nông
nghiệp như vậy còn 54% đất có khả năng sản xuất nhưng chưa được khai thác.
Diện tích đất đang canh tác trên thế giới chỉ chiếm 10% tổng diện tích tự nhiên,
được đánh giá là: Đất có năng suất cao: 14% Đất có năng suất TB: 28% Đất có
năng suất thấp: 28% Nguồn tài nguyên đất trên thế giới hàng năm luôn bị giảm,


đặc biệt là đất nông nghiệp mất đi do chuyển sang mục đích khác. Mặt khác dân số

ngày càng tăng, theo ước tính mỗi năm dân số thế giới tăng từ 80 - 85 triệu người.
Như vậy, với mức tăng này mỗi người cần phải có 0,2 - 0,4 ha đất nông
nghiệp mới đủ lương thực, thực phẩm. Đứng trước những khó khăn rất lớn đó thì
việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất cũng như tình hình chuyển mục đích sử dụng
đất nông nghiệp là hết sức cần thiết. Dân số ngày một tăng cùng với những phát
hiện mới về thiên nhiên, con người đã nghĩ ra nhiều phương thức sản xuất mới,
nhiều ngành nghề khác nhau để kiếm sống. Và quá trình chuyển mục đích sử dụng
đất nông nghiệp đều xảy ra ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy nhiên, có sự khác
nhau về mức độ đô thị hóa cũng như diện tích đất được chuyển mục đích hàng
năm. Quá trình chuyển mục đích trên thế giới diễn ra sớm hơn, với tốc độ mạnh
mẽ hơn ở Việt Nam. Đặc biệt là ở một số nước phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp,
Đức, Italia, Nhật Bản v.v…thì tốc độ đô thị hóa nhanh đã làm quá trình chuyển
mục đích sử dụng đất trong đó có đất nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy
nhiên, chính quá trình đô thị hoá, chuyển mục đích sử dụng đất một cách hợp lý đã
giúp nền kinh tế của các nước này phát triển khá nhanh trong những năm qua. Để
đạt được những thành tựu đó thì công tác quản lý đất đai ở các quốc gia này được
thực hiện khá tốt.
Một trong những nước điển hình về công tác quản lý nhà nước về đất đai đó
là nước Pháp. Pháp là quốc gia phát triển thuộc hệ thống quốc gia tư bản chủ
nghĩa, tuy thể chế chính trị khác nhau, nhưng nước ta chịu ảnh hưởng của phương
pháp tổ chức quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai khá rõ của Cộng hòa Pháp.
Vấn đề này dễ lý giải vì Nhà nước Việt Nam hiện đang khai thác khá hiệu quả
những tài liệu quản lý đất đai do chế độ thực dân để lại, đồng thời ảnh hưởng của
hệ thống quản lý đất đai thực dân còn khá rõ nét trong ý thức một bộ phận công
dân Việt Nam hiện nay. Quản lý đất đai của Nước Cộng hòa Pháp có một số đặc
điểm đặc trưng sau: Về chế độ sở hữu tài sản là bất khả xâm phạm và thiêng liêng,
không ai có quyền buộc người khác phải nhường quyền sở hữu của mình. Ở Pháp
hiện nay tồn tại hai hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu tư nhân về đất đai và sở hữu
nhà nước (đối với đất đai và công trình xây dựng công cộng). Tài sản công cộng
(bao gồm cả đất đai công cộng) có đặc điểm là không được mua và bán. Trong

trường hợp cần sử dụng đất cho các mục đích công cộng, Nhà nước có quyền yêu
cầu sở hữu đất đai tư nhân nhường quyền sở hữu thông qua chính sách bồi thường
thiệt hại một cách công bằng. Về công tác quy hoạch đô thị: Do đa số đất đai thuộc
sở hữu tư nhân, vì vậy để phát triển đô thị, ở Pháp công tác quy hoạch đô thị được


quan tâm chú ý từ rất sớm và thực hiện rất nghiêm ngặt. Ngay từ năm 1919, ở Pháp
đã ban hành Đạo luật về kế hoạch đô thị hóa cho các thành phố có từ 10.000 dân
trở lên. Năm 1973 và năm 1977, Nhà nước đã ban hành các Nghị định quy định
các quy tắc về phát triển đô thị, là cơ sở để ra đời Bộ Luật về phân cấp quản lý,
trong đó có sự xuất hiện của một tác nhân mới rất quan trọng trong công tác quản
lý của nhà nước về quy hoạch đó là cấp xã.
Cho đến nay, Luật Đô thị ở Pháp vẫn không ngừng phát triển, nó liên quan
đến cả quyền sở hữu tư nhân và sự can thiệp ngày càng sâu sắc hơn của nhà nước,
cũng như của các cộng đồng địa phương vào công tác quản lý đất đai, quản lý quy
hoạch đô thị. Nó mang ý nghĩa kinh tế rất lớn thông qua việc điều chỉnh mối quan
hệ giữa các ngành khác nhau như bất động sản, xây dựng và quy hoạch lãnh thổ…
Về công tác quản lý nhà nước đối với đất đai: Mặc dù là quốc gia duy trì chế
độ sở hữu tư nhân về đất đai, nhưng công tác quản lý nhà nước về đất đai của Pháp
được thực hiện rất chặt chẽ. Điều đó được thể hiện qua việc xây dựng hệ thống hồ
sơ địa chính. Hệ thống hồ sơ địa chính rất phát triển, rất quy củ và khoa học, mang
tính thời sự để quản lý tài nguyên đất đai và thông tin lãnh thổ, trong đó thông tin
về từng thửa đất được mô tả đầy đủ về kích thước, vị trí địa lý, thông tin về tài
nguyên và lợi ích liên quan đến thửa đất, thực trạng pháp lý của thửa đất. Hệ thống
này cung cấp đầy đủ thông tin về hiện trạng, phục vụ nhiệm vụ quy hoạch, quản lý
và sử dụng đất có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, đảm bảo cung cấp
thông tin cho hoạt động của ngân hàng và tạo cơ sở xây dựng hệ thống thuế đất và
bất động sản công bằng. Ngoài Pháp thì Mỹ cũng là một trong các quốc gia có hệ
thống pháp luật về đất đai rất phát triển có khả năng điều chỉnh được các quan hệ
xã hội đa dạng và phức tạp nhất. Luật Đất đai của Mỹ quy định công nhận và

khuyến khích quyền sở hữu tư nhân về đất đai, các quyền này được pháp luật bảo
hộ rất chặt chẽ như là một quyền cơ bản của công dân. Cho đến nay có thể thấy các
quy định này đang phát huy rất có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế đất nước,
vì nó phát huy được hiệu quả đầu tư để nâng cao giá trị của đất đai và làm tăng
đáng kể hiệu quả sử dụng đất trong phạm vi toàn xã hội. Tuy công nhận quyền sở
hữu tư nhân, nhưng Luật Đất đai của Mỹ vẫn khẳng định vai trò ngày càng lớn và
có vị trí quyết định của nhà nước trong quản lý đất đai. Các quyền định đoạt của
Nhà nước bao gồm: Quyền quyết định về quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất,
quyền quy định về quy hoạch kiến trúc đô thị và công trình xây dựng; quyền quy
định về mục đích sử dụng đất; quyền xử lý các tranh chấp về quyền sử dụng đất và
quyền ban hành các quy định về tài chính đất (thu thuế kinh doanh bất động sản;


quy định mức giá thuê đất hoặc thuê bất động sản…). Quyền thu hồi đất thuộc sở
hữu tư nhân để phục vụ các lợi ích công cộng trên cơ sở đền bù công bằng cho
người bị thu hồi… bản chất quyền sở hữu tư nhân về đất đai ở Mỹ tương đương
với quyền bất động sản ở Việt Nam.
Như vậy có thể nói, hầu hết các quốc gia trên thế giới (dù quy định chế độ sở
hữu đối với đất đai khác nhau), đều có xu hướng ngày càng tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước đối với đất đai. Xu thế này phù hợp với sự phát triển ngày
càng đa dạng của các quan hệ kinh tế, chính trị theo xu hướng toàn cầu hóa hiện
nay. Mục tiêu của mỗi quốc gia là nhằm quản lý chặt chẽ, hiệu quả tài nguyên
trong nước, tăng cường khả năng cạnh tranh, để phục vụ cao nhất cho quyền lợi
của quốc gia, đồng thời có những quy định phù hợp với xu thế mở cửa, phát triển,
tạo điều kiện để phát triển hợp tác đầu tư giữa các quốc gia thông qua các chế định
pháp luật thông thường, cởi mở nhưng vẫn giữ được ổn định về an ninh kinh tế và
an ninh quốc gia.
1.2.2. Tình hình sử dụng đất trong nước
Tình hình chung:
Tổng diện tích đất tự nhiên của nước ta là 33.168.855 ha, đứng thứ 59 trong

hơn 200 nước trên thế giới. Đất bằng ở Việt Nam có khoảng >7 triệu ha, đất dốc
>25 triệu ha, >50% diện tích đất đồng bằng và gần 70% diện tích đất đồi núi là đất
xấu và có độ phì nhiêu thấp, trong đó đất bạc màu gần 3 triệu ha, đất trơ sỏi đá
5,76 triệu ha, đất mặn 0,91 triệu ha, đất dốc trên 25% gần 12,4 triệu ha (Lê Văn
Khoa,2001). Theo mục đích sử dụng năm 2000, Việt Nam có tổng diện tích đất tự
nhiên 33.103,3 nghìn ha. Trong đó, đất nông nghiệp 16.406,1 nghìn ha, lâm nghiệp
11.575,4 nghìn ha, đất phi nông nghiệp 1.772,3 nghìn ha, đất chưa sử dụng
14.924,9 nghìn ha. Đất tiềm năng nông nghiệp hiện còn khoảng 4 triệu ha. Bình
quân diện tích đất tự nhiên ở Việt Nam là 0,4 ha/người. Bình quân diện tích đất
nông nghiệp theo đầu người thấp và giảm rất nhanh theo thời gian, năm 1940 có
0,2 ha, năm 1995 là 0,095 ha. Đây là một hạn chế rất lớn cho phát triển. Đầu tư và
hiệu quả khai thác tài nguyên đất ở Việt Nam chưa cao, thể hiện ở tỷ lệ đất thuỷ lợi
hoá thấp, hiệu quả dùng đất thấp, năng suất cây trồng thấp, riêng năng suất lúa, cà
phê và ngô đã đạt mức trung bình thế giới. Trong điều kiện mở mang đô thị như
hiện nay, đất sản xuất nông nghiệp ở nước ta sẽ còn mất thêm. Vấn đề đặt ra là cần
phải quy hoạch và bố trí sử dụng đất hợp lý trên cơ sở tiết kiệm đất đai, hạn chế
thấp nhất việc mất đất.


Theo mục đích sử dụng đất năm 2008, Việt Nam có tổng diện tích đất tự
33.115 nghìn ha, là nước có quy mô diện tích thuộc loại trung bình nhưng vì dân số
đông (xếp thứ 12 trên thế giới) nên diện tích đất bình quân theo đầu người vào loại
thấp: với mức 0,1 ha/người( bằng 1/6 mức bình quân của thế giới). Hiện nay, toàn
quốc đã đưa vào sử dụng cho nông nghiệp 24.997,2 nghìn ha (chiếm 75,5% tổng
diện tích đất tự nhiên). Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 9.420,3 nghìn ha
(chiếm 28,4% tổng diện tích đất tự nhiên), đất lâm nghiệp 14.816,6 nghìn ha
(chiếm 44,7% tổng diện tích đất tự nhiên), đất nuôi trồng thủy sản 728,6 nghìn ha
(chiếm 2,2% tổng diện tích đất tự nhiên), đất làm muối 13,7 nghìn ha (chiếm
0,04% tổng diện tích đất tự nhiên), đất nông nghiệp khác 18,1 nghìn ha (chiếm
0,05% tổng diện tích đất tự nhiên); đất phi nông nghiệp 3.385,8 nghìn ha, mặt

nước ven biển 42,5 nghìn ha còn lại là đất chưa sử dụng (Lê Thái Bạt,2007.
Đa số diện tích đất chưa sử dụng nằm ở vùng đất trống đồi núi trọc. Đây cũng
là đối tượng khai hoang mở rộng diện tích đất nông, lâm nghiệp ở nước ta. Trong
tổng số diện tích đất chưa sử dụng phần lớn diện tích có khả năng đưa vào sản xuất
cho lâm nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Ươc tính trong tương lai diện tích đất sản
xuất nông nghiệp tối đa có khoảng 12 triệu ha. Trong khi bình quân diện tích đất
nông nghiệp trên đầu người ở nước ta với tỷ lệ tăng dân số như hiện nay, thì vẫn
không vượt qua ngưỡng 1.300 m2 . Con số này thấp hơn nhiều so với tính toán của
tổ chức Nông lương Liên hiệp Quốc (FAO) là với trình độ sản xuất trung bình như
hiện nay trên thế giới mỗi đầu người cần có 4.000 m2 đất canh tác. Do điều kiện
thiên nhiên nhiệt đới ẩm của Việt Nam, cùng với sự gia tăng dân số mạnh và kỹ
thuật canh tác lạc hậu kéo dài và do hậu quả chiến tranh, đã làm trầm trọng hơn
nhiều vấn đề về môi trường đất. Cụ thể, từ những quan trắc trong nhiều năm qua
cho thấy thoái hóa đất là xu thế phổ biến đối với nhiều vùng rộng lớn, đặc biệt là
vùng đồi núi, nơi tập trung hơn 3/4 quỹ đất, nơi cân bằng sinh thái bị phá vỡ
nghiêm trọng. Các loại hình thoái hóa môi trường đất ở Việt Nam thể hiện rất phức
tạp và đa dạng:
Rửa trôi, xói mòn, suy kiệt dinh dưỡng đất, hoang hoá (Ninh Thuận, Bình
Thuận) và khô hạn, cơ cấu cây trồng nghèo nàn, đất mất khả năng sản xuất ở trung
du, miền núi (Tây Nguyên). Do lượng mưa tập trung lớn vào mùa mưa (đến 80%),
mất rừng, đốt nương làm rẫy, canh tác không hợp lý trên đất dốc.
Mặn hóa, phèn hoá: khoảng 3 triệu ha, tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông
Hồng, sông Cửu Long.


Bạc màu do di chuyển cát: khoảng 0,5 triệu ha ở đồng bằng ven biển miền
Trung.
Ngập úng, ngập lũ, lầy hóa có diện tích khoảng 1,4 triệu ha
Ô nhiễm môi trường đất, nước và bùn do nước thải xung quanh đô thị, các
khu công nghiệp và những nơi sử dụng thuốc trừ sâu diệt cỏ, những nơi bị rải chất

diệt cỏ, chất độc màu da cam trong chiến tranh.
Tình hình sử dụng đất cũng như quản lý đất đai của nước ta qua mỗi giai đoạn
lịch sử khác nhau thì lại có những điểm mới để phù hợp với quá trình phát triển
chung. Trong những năm gần đây đặc biệt là từ khi có Luật Đất đai năm 1987 thì
tình hình quản lý về đất đai đã được cải thiện. Đây là văn bản luật đầu tiên điều
chỉnh quan hệ đất đai, bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước, giao đất ổn định lâu dài.
Theo tinh thần của Luật này thì: Kinh tế nông hộ đã được khôi phục và phát triển.
Các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài, khuyến khích kinh tế
tư nhân trong lĩnh vực khai thác sử dụng đất v.v...Tuy nhiên Luật Đất đai 1987
được soạn thảo trong bối cảnh nước ta bắt đầu đổi mới, vừa tuyên bố xóa bỏ chế độ
quan liêu bao cấp nên còn mang nặng tính chất của cơ chế đó khi soạn luật. Do đó
đã bộc lộ một số tồn tại như: Việc tính thuế trong giao dịch đất đai rất khó khăn vì
Nhà nước chưa thừa nhận quyền sử dụng đất có giá trị, chưa quy định rõ những cơ
sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh về quan hệ đất đai trong quá trình chuyển sang
nền kinh tế thị trường, trong quá trình tích tụ tập trung sản xuất trong nông nghiệp
và phân công lại lao động trong nông thôn, chính sách tài chính đối với đất đai
chưa rõ nét, đặc biệt là giá đất, chưa có điều chỉnh thích đáng đối với những bất
hợp lý trong những chính sách cũ vv… Như vậy giai đoạn này, công tác quản lý
đất đai đã bắt đầu đi vào nề nếp và đặc biệt chú ý tới việc xác định, lập và quản lý
hồ sơ địa giới hành chính các cấp địa phương. Tuy nhiên, đất nông nghiệp đã giao
cho nông dân sử dụng lâu dài nhưng công tác quản lý chưa được chặt chẽ. Sau giai
đoạn đổi mới (từ năm 1986 – 1991), chúng ta vẫn còn thiếu nhiều quy định và
ngay cả hệ thống pháp luật đã ban hành cũng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng
được tình hình đổi mới của đất nước. Vì vậy, Hiến pháp 1992 ra đời đã khắc phục
được những hạn chế của Luật Đất đai 1987 và trên cơ sở của Hiến pháp 1992 thì
ngày 14 tháng 7 năm 1993 Luật Đất đai năm 1993 đã được Quốc hội khóa IX
thông qua. Luật Đất đai năm 1993 đã chế định cơ sở pháp lý cơ bản để quan hệ đất
đai ở nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật này đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng và
hoàn thiện hơn.



Trong quá trình chúng ta thực hiện Luật Đất đai 1993 đã đạt được khá nhiều
thành tựu đáng kể nhưng cùng với sự phát triển thì một số nội dung của Luật cần
được thay đổi và bổ sung thêm để đáp ứng kịp thời nhu cầu của đất nước đặt ra.
Ngày 26 tháng 12 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật
Đất đai mới – Luật Đất đai 2003. Và trong số các nội dung đổi mới mà Luật đề cập
có nội dung về chuyển mục đích sử dụng đất nói chung và chuyển mục đích sử
dụng đất nông nghiệp nói riêng. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tới việc
sử dụng đất đúng theo mục đích cũng như hạn chế việc tự ý chuyển đổi mục đích
đất nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Và cho đến nay chúng ta
vẫn đang thực hiện theo Luật Đất đai 2003 cùng với những văn bản dưới Luật để
quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai một cách tốt nhất. Quá trình chuyển
mục đích sử dụng đất luôn diễn ra ở mọi thời điểm. Trước kia khi chưa có Luật Đất
đai quy định về trình tự, thủ tục chuyển mục đích thì quá trình chuyển mục đích
vẫn luôn diễn ra. Sau khi chúng ta xây dựng luật để quản lý cũng như bảo vệ quỹ
đất nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói riêng thì vấn đề chuyển mục đích sử
dụng đất vẫn chưa được quan tâm. Cho đến lần sửa đổi thứ 2 (năm 2001) của Luật
Đất đai 1993 thì vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất mới được đưa ra và chính
thức được bổ sung vào các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai của Luật Đất đai
2003. Hiện nay cùng với quá trình đô thị hóa mạnh mẽ đã kéo theo việc chuyển
mục đích sử dụng các loại đất cũng như chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp
ngày càng tăng. Việc mở rộng không gian đô thị đang có nguy cơ làm giảm diện
tích đất nông nghiệp. Theo Hội nông dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng, các
khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, mỗi năm Việt Nam có gần 200 nghìn
ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tương ứng mỗi hộ có
khoảng 1,5 lao động mất việc làm (Bộ Xây dựng, 1995). Tốc độ đô thị hoá quá
nhanh cùng với sự gia tăng dân số đã làm ảnh hưởng tới nhiều vấn đề như: vấn đề
đói nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường vv… Đứng trước vấn đề đó ngày 23
tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “ Định hướng quy hoạch

tổng thể phát triển đô thị đến năm 2020” trong quyết định số 10/1998/QĐ-TTg,
trong đó xác định phương hướng xây dựng và phát triển đô thị trên địa bàn cả nước
và các vùng đặc trưng (Bộ Xây dựng, 1999).
Ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những công trình nghiên cứu, hội thảo về
quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng cũng
như các đề tài liên quan tới vấn đề này. Từ đó cung cấp những cơ sở khoa học cho
các cơ quan liên quan đến việc quy hoạch, định hướng cuộc sống và sử dụng quỹ


đất nông nghiệp sao cho hợp lý và hiệu quả nhất. Ngày 6 tháng 9 năm 2008, tại
thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra hội thảo “Công tác quy hoạch sử dụng đất nông
nghiệp và chính sách pháp luật về sử dụng đất trong tình hình hiện nay”. Hội thảo
do Văn phòng Quốc hội phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức nhằm
đóng góp những ý kiến giúp Chính phủ xây dựng dự án Luật Đất đai sửa đổi cho
phù hợp, góp phần đảm bảo hài hòa lợi ích phát triển kinh tế đất nước, đồng thời
đảm bảo ổn định xã hội và an ninh lương thực quốc gia (Lê Văn Khoa,2001). Ông Trần Thế Vượng - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng trong quá
trình thực hiện Luật Đất đai (năm 2003) đã bộc lộ nhiều vấn đề phức tạp cần điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá cũng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập như thu hồi đất nông
nghiệp, giá cả đền bù, tạo công ăn việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, tái định
cư...
Kết quả giám sát của Quốc hội cho thấy hơn 80% đơn khiếu nại tố cáo liên
quan về đất đai cần tiếp tục xem xét giải quyết. - Theo ông Nguyễn Hữu Nhơn,
Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp, thống kê của Bộ Tài nguyên
và Môi trường trong 7 năm qua (2001-2007) khẳng định: Có trên 500.000 ha diện
tích đất nông nghiệp đã thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp, chiếm 5% đất
nông nghiệp đang sử dụng; đặc biệt, đất nông nghiệp bị thu hồi chuyển sang mục
đích đô thị hóa và công nghiệp hóa năm sau luôn tăng hơn năm trước. Chỉ tính
trong năm 2007, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã giảm 125.000 ha. Riêng
tỉnh Đồng Tháp, công tác quy hoạch sử dụng đất từng lúc, từng nơi chưa theo kịp

yêu cầu phát triển; tình hình quy hoạch treo khá phổ biến, có những dự án kéo dài
5-7 năm không thực hiện... dẫn đến đời sống của người dân trong nhiều khu quy
hoạch chưa được đảm bảo.
Còn ông Trần Văn Kiệt - Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long cho rằng, một số
nơi không cần đất nông nghiệp hoặc sản xuất không hiệu quả cần được chuyển
mục đích thì không được quy hoạch. Nơi đất sản xuất nông nghiệp tốt thì lại quy
hoạch chuyển mục đích, không phải để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, cũng không phải mở rộng đô thị mà quy hoạch để làm sân golf dẫn đến
hàng vạn nông dân mất đất sản xuất, đời sống khó khăn phải đi tha phương cầu
thực, thậm chí đây là một trong những nguyên làm cho tình hình mất an ninh trật
tự, tệ nạn xã hội tăng lên. Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
báo động về việc đất nông nghiệp đang từng ngày bị chuyển đổi mục đích sử dụng
một cách thiếu quy hoạch và tùy tiện nên ngày càng bị thu hẹp một cách báo động.


Tổng diện tích đất lúa toàn quốc hiện nay là trên 4,1 hécta. Song từ năm 2000 2005, diện tích đất lúa đã giảm nghiêm trọng với hơn 302.000ha. Gần 9 năm qua,
đất lúa đã bị giảm trên 59.000 ha.
Riêng tại đồng bằng sông cửu long, tính toán sơ bộ cho thấy từ năm 2000 2007, đất lúa đã bị giảm 205.000ha (chiếm 57% đất lúa bị suy giảm toàn quốc). Tại
phía Bắc, Hải Dương là tỉnh có tỉ lệ đất lúa giảm lớn nhất, bình quân 1.569 ha/năm,
Hưng Yên 939 ha/năm, Hà Nội (cũ) là 653 ha/năm... Theo tính toán, năm 2020 dân
số cả nước sẽ xấp xỉ 100 triệu người, năm 2030 sẽ có khoảng 110 triệu người.
Tổng nhu cầu lúa cho năm 2015 là 32,1 triệu tấn, năm 2020 là 35,2 triệu tấn và
năm 2030 là 37,3 triệu tấn. Tuy nhiên, tình trạng ồ ạt chuyển đổi đất nông nghiệp
đã khiến sản lượng lúa suy giảm khá lớn qua mỗi năm, trung bình giảm từ 400.000
- 500.000 tấn/năm. Cục Trồng trọt báo động, với tốc độ đô thị hóa chóng mặt như
hiện nay thì sẽ không còn lúa gạo để xuất khẩu vào năm 2020. Một số liệu đáng
chú ý khác cho thấy, tại cả hai miền Nam và Bắc, số lượng các khu công nghiệp
lấy từ quỹ đất nông nghiệp đang bị bỏ hoang không ít và hiện chỉ lấp đầy khoảng
50%-70% số lượng doanh nghiệp hoạt động (Lao động, đất nông nghiệp bị thu
hẹp,2010).

Tình hình sử dụng đất của các tổ chức tại Việt Nam Tổng diện tích đất của các
tổ chức đang quản lý, sử dụng trên toàn quốc là 7.833.142,70 ha, trong đó chủ yếu
là diện tích đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp 6.687.695,59 ha (chiếm
85,38%), sử dụng mục đích phi nông nghiệp 845.727,62 ha (chiếm 10,80%), diện
tích đất chưa sử dụng 299.719,49 ha (chiếm 3,83%), đất mặt nước ven biển được
giao, cho thuê là 0,23%. Tổng số diện tích đất phi nông nghiệp của các tổ chức
đang quản lý, sử dụng là 845.727,62 ha, các loại hình tổ chức đều có diện tích đất
phi nông nghiệp, tập trung nhiều nhất là các tổ chức sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh (34,92%), tổ chức kinh tế (24,79%), nông, lâm trường (18,13%), ủy
ban nhân dân cấp xã (13,79%), tổ chức sự nghiệp công (6,62%)...
Diện tích đất chưa sử dụng của các tổ chức có 299.719,49 ha, chiếm 3,83%
diện tích đất của các tổ chức đang quản lý, sử dụng, phần lớn là diện tích đất đã
giao nhưng chưa đưa vào sử dụng hoặc đã sử dụng nhưng hiện còn để hoang hoá.
Diện tích đất chưa sử dụng tập trung chủ yếu ở nông, lâm trường (51,36%), tổ
chức sự nghiệp công (40,15%), các tổ chức kinh tế (6,88%), ủy ban nhân dân cấp
xã (0,87%). Kết quả kiểm kê quỹ đất năm 2008 của các tổ chức đang quản lý, sử
dụng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo Chỉ thị 31 của Thủ tướng Chính
phủ (Thu Phương, 2009): - Tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức, cả nước


có 141.812 tổ chức sử dụng đúng mục đích được giao, được thuê với diện tích
7.148.536,47 ha, chiếm 91,26%. 6 vùng có tỷ lệ đạt trên 90% là Tây Bắc, Đông
Bắc, đồng bằng sông Hồng, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên và đồng bằng
Cửu Long. 2 vùng đạt tỷ lệ thấp là Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ. Nhìn chung,
các tổ chức sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiệu quả trong sử dụng, tỷ lệ sử dụng
đúng mục đích trên tổng diện tích theo hình thức sử dụng của toàn quốc đạt trên
90%.
Tình trạng sử dụng vào mục đích khác hay còn gọi là sử dụng không đúng
mục đích được giao, được thuê xảy ra ở hầu hết các loại hình tổ chức, trong đó chủ
yếu là các tổ chức sử dụng đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp với 1.527 tổ

chức trên diện tích 21.499,68 ha, chiếm 84,02%. Có 1.828 tổ chức sử dụng làm
nhà ở với diện tích 4.088,24 ha, trong đó phần lớn là xây nhà cho cán bộ công nhân
viên.
Có 1.205 tổ chức sử dụng đất cho thuê trái phép với diện tích 2.918,65 ha, tập
trung lớn nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với 271 tổ chức trên diện tích
1.756,59 ha, sau đó tới vùng Đông Bắc, vùng Đông Nam Bộ. Cho thuê trái phép
xảy ra ít nhất ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên.
Có 1.647 tổ chức sử dụng đất để cho mượn với diện tích cho mượn 6.740,76
ha, tập trung lớn nhất ở vùng Đông Bắc với 653 tổ chức, rồi tới vùng đồng bằng
sông Cửu Long với 478 tổ chức, vùng Đông Nam Bộ 141 tổ chức. 188 tổ chức sử
dụng đất chuyển nhượng trái phép với 375,28 ha đất chuyển nhượng trái phép.
Trong đó tập trung chủ yếu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long với 43 tổ chức và
diện tích chuyển nhượng trái phép là 163,79 ha, tập trung nhiều nhất tại Long An
với diện tích 97,72 ha, Kiên Giang với diện tích 55,7 ha.
Tổng diện tích để bị lấn chiếm là 254.033,19 ha do 3.915 tổ chức đang quản
lý. Trong đó 397 tổ chức là cơ quan Nhà nước, 34 tổ chức chính trị, 22 tổ chức xã
hội, 25 tổ chức chính trị xã hội, 14 tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Đông nhất
phải kể tới 1.458 tổ chức sự nghiệp công, 965 tổ chức kinh tế, 712 UBND xã...
Theo Tổng cục Quản lý đất đai, diện tích đất bị lấn chiếm có nguyên nhân chủ
yếu là do tình trạng sử dụng không hiệu quả, sử dụng chưa hết diện tích được giao,
quản lý lỏng lẻo ở hầu hết các loại hình tổ chức, trong đó tập trung chủ yếu ở loại
hình tổ chức sự nghiệp công, UBND xã, tổ chức kinh tế, quốc phòng, an ninh,
nông, lâm trường. Thiếu kiểm tra thường xuyên, chưa quan tâm đến việc lập hồ sơ
và lưu giữ đầy đủ các giấy tờ để theo dõi, quản lý nên không quản lý được mốc


ranh khu đất đã được giao, chưa xây dựng tường rào hoặc cắm mốc giới để phân
định với đất của dân, của các tổ chức khác.
Mặt khác, thời gian giao đất trước đây đã quá lâu, thủ tục không đầy đủ, thay
đổi thủ trưởng đơn vị nhiều lần và không bàn giao cho người sau để tiếp tục quản

lý..., nên trong suốt quá trình sử dụng đất để cho người dân hoặc tổ chức lấn,
chiếm. Cá biệt có tổ chức không biết ranh giới đất của đơn vị mình, nên khi kiểm
kê hiện trạng rất khó khăn, phải mất nhiều thời gian mới xác định được diện tích
đất được giao.
Đất do các nông, lâm trường quản lý bị lấn chiếm, có nguyên nhân khách
quan là do diện tích lớn, lại thường ở khu vực vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn
trong khi lực lượng cán bộ công tác tại các nông lâm trường lại mỏng, trong địa
bàn quản lý có dân cư sinh sống xen kẽ. Về chủ quan, các cấp chính quyền địa
phương, Ban quản lý nông, lâm trường và cán bộ quản lý tại đây thiếu tính chủ
động, làm ngơ trước tình trạng lấn chiếm của người dân địa phương.
Đất của các tổ chức đang có tranh chấp, lấn chiếm cũng là vấn đề đáng quan
tâm bởi có diện tích không nhỏ, trên 313.969 ha, trong đó tranh chấp trên 34.200
ha và lấn chiếm trên 25.700 ha. Đất bị chiếm lên tới trên 254.000 ha với 3.915 tổ
chức, chủ yếu xảy ra ở tổ chức kinh tế, quốc phòng, an ninh, nông, lâm trường,
UBND xã, tổ chức sự nghiệp công. Nguyên nhân phải kể đến là khi thực hiện giao
đất cho các tổ chức, hồ sơ lập chưa đầy đủ, không chặt chẽ, mô tả ranh giới, mốc
giới không rõ ràng cụ thể. Một số khu đất đã có mốc giới nhưng quá trình xây
dựng các công trình đã làm thất lạc mốc hoặc dịch chuyển vị trí ngoài ý muốn.
Việc giải quyết khi có tranh chấp vì thế rất khó khăn.
Diện tích đất chưa đưa vào sử dụng của các tổ chức được giao, thuê cũng lên
tới trên 299.719 ha, trong đó diện tích còn để hoang hóa là trên 250.862 ha do
2.455 tổ chức quản lý. Diện tích đầu tư, xây dựng chậm cũng lên tới trên 48.888
ha, tập trung chủ yếu là các trường học và những dự án phát triển đô thị mới, dự án
xây dựng khu công nghiệp.
Diện tích đất chưa sử dụng tập trung chủ yếu tại Bắc Trung Bộ chiếm 56,1%
tổng diện tích đất chưa sử dụng (Nghệ An 73,23% diện tích của vùng); Tây
Nguyên chiếm 16,9% (Gia Lai 90,17%), duyên hải Nam Trung Bộ chiếm 15,8%
(Ninh Thuận chiếm 83,78%).
Hiện nay còn 3.311 tổ chức sử dụng không đúng mục đích được giao, được
thuê với diện tích 25.587,82 ha. Với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Bộ Tài

nguyên và Môi trường và các địa phương, sau một năm các cơ quan chức năng đã


thu hồi 4.731 ha đất vi phạm. Bên cạnh đó còn nhiều dự án “treo” trên khắp cả
nước, cụ thể vẫn còn hơn 20.000 ha đất trong dự án “treo”, trong đó không ít
những diện tích ở các vị trí đắc địa. Điều này đồng nghĩa với việc hàng trăm nghìn
tỷ đồng đang bị lãng phí.
1.2.3. Tình hình sử dụng đất tại tỉnh Thái Nguyên
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên là 353.171,60 ha gồm có :
Diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghiệp là rất lớn với diện tích 29.3378,12
ha chiếm 83,7% so với tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó: diện tích đất sản xuất
nông nghiệp là 109.277,74 ha chiếm 30,94% so với tổng diện tích đất tự nhiên,
diện tích đất lâm nghiệp là 179.813,30 ha chiếm 50,91% so với tổng diện tích đất
tự nhiên, diện tích đất nuôi trồng thủy sản 4.186,66 ha chiếm 1,19% so với tổng
diện tích đất tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp khác là 100,42 ha chiếm 0,03% so
với tổng diện tích đất tự nhiên; Diện tích đất phi nông nghiệp là 43.429,42 ha
chiếm 12,30% so với tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó: Diện tích đất ở
12.985,17 ha chiếm 3,68% so với tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích đất chuyên
dùng là 19.684.69 ha chiếm 5,57% so với tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích đất
tôn giáo, tín ngưỡng là 101,76 ha chiếm 0,03% so với tổng diện tích đất tự nhiên,
diện tích đất nghĩa trang, nghĩa địa 814,98 ha chiếm 0,23% so với tổng diện tích
đất tự nhiên, diện tích đất sông suối mặt nước chuyên dùng 9.794,50 ha chiếm
2,77% so với tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích đất phi nông nghiệp khác 48,32
ha chiếm 0,01% so với tổng diện tích đất tự nhiên; Diện tích đất chưa sử dụng
16.364,06 ha chiếm 4,63% so với tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó: diện tích
đất đất bằng chưa sử dụng 1.444,66 ha chiếm 0,41% so với tổng diện tích đất tự
nhiên, diện tích đồi núi chưa sử dụng 4.688,22 chiếm 0,33% so với tổng diện tích
đất tự nhiên, diện tích núi đá không có rừng cây 10.231,18 chiếm 2,90% so với
tổng diện tích đất tự nhiên.
Như vậy, tiềm năng đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng cho mục đích sản xuất

nông nghiệp, lâm nghiệp còn tương đối lớn. Trong thời gian tới Tỉnh cần quy
hoạch đưa phần diện tích này vào sử dụng, tránh để lãng phí nguồn tài nguyên quý
giá này.
Qua kết quả rà soát, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật đất đai trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên theo Chỉ thị số 134/2010/CT-TTg ngày 20/1/2010 của Thủ tướng
Chính Phủ cho thấy toàn tỉnh Thái Nguyên có 1.635 tổ chức được nhà nước giao
đất, cho thuê đất (không tính các đơn vị quân đội và công an trên địa bàn) với diện
tích 3.569,53ha. Trong đó, có 140 tổ chức vi phạm pháp luật đất đai chiếm 8,09%


so với tổng số tổ chức được nhà nước giao đất, cho thuê đất với diện tích vi phạm
117,22 ha chiếm 3,07% diện tích được nhà nước giao đất, cho thuê đất. Phân theo
loại hình tổ chức thì có 349 tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất, cho thuê đất
với diện tích 2.300,16 ha đã có tới 72 doanh nghiệp vi phạm pháp luật đất đai
chiếm 20,63% với diện tích vi phạm là 101,32 ha chiếm 4,275% so với diện tích đã
giao, thuê. Các hình thức vi phạm chủ yếu là: sử dụng đất không đúng mục đích,
để dự án “treo” chưa sử dụng, cho thuê, chuyển nhượng, cho mượn đất trái pháp
luật, để đất bị lấn chiếm và lấn chiếm đất…(Sở Tài nguyên và Môi trường,2011).
CHƯƠNG II: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Thời gian: Từ 10/2016 đến tháng 9/2017
Địa điểm thực hiện: Thị xã Phổ Yên.
Đối tượng nghiên cứu: Tình hình công tác quản lý việc giao đất, cho thuê đất,
thu hồ, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thị xã Phổ Yên
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Phổ Yên ảnh
hưởng đến sử dụng đất
Điều kiện tự nhiên:
+ Vị trí địa lý
+ Địa hình, địa mạo

+ Khí hậu
+ Tài nguyên đất
Điều kiện kinh tế
Điều kiện xã hội
2.2.2. Hiện trạng sử dụng đất và biến động sử dụng đất của thị xã Phổ
Yên giai đoạn 2014 – 2016
- Hiện trạng sử dụng đất.
- Biến động sử dụng đất.
2.2.3. Đánh giá thực trạng tình hình quản lý việc giao đất, cho thuê đất,
thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 2014 – 2016
Kết quả việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất trên
địa bàn thị xã Phổ Yên giai đoạn 2014 – 2016.


Phân tích đánh giá thực trạng tình hình quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu
hồi, chuyển mục đích sử dụng đất.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý việc giao đất, cho thuê
đất, thu hồi và chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thị xã Phổ Yên trong giai
đoạn 2014 – 2016.
2.2.4. Định hướng giải pháp nhằm nâng cao công tác quản lý việc giao
đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thị
xã Phổ Yên trong giai đoạn tiếp theo
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp logic
kết hợp với phương pháp kế thừa lịch sử, phương pháp điều tra, khảo sát thu thập
tài liệu kết hợp với phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phân tích và
phương pháp thống kê. Sau đây là một số phương pháp cụ thể được vận dụng để
nghiên cứu:
2.3.1. Thu thập số liệu thứ cấp

Là các số liệu từ các công trình nghiên cứu trước được lựa chọn sử dụng vào
mục đích phân tích, minh họa rõ nét về nội dung nghiên cứu. Nguồn gốc của các
tài liệu này đã được chú thích rõ trong phần “Tài liệu tham khảo”. Nguồn tài liệu
này bao gồm:
Các sách, báo, tạp chí, các văn kiện Nghị quyết, các chương trình nghiên cứu
đã được xuất bản, các kết quả nghiên cứu đã công bố của các cơ quan nghiên cứu,
các tài liệu trên internet...
Tài liệu, số liệu đã được công bố về tình hình kinh tế, xã hội nông thôn, kinh
tế của các ngành sản xuất nằm trong khu vực nghiên cứu… các số liệu này thu thập
từ phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Thống thị xã Phổ Yên, Sở Tài nguyên
Môi trường và các Sở, ban, ngành có liên quan. Trên cơ sở đó tiến hành tổng hợp
các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu.
2.3.2. Tài liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp là những số liệu phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Những số liệu này được thu thập từ việc điều tra các đơn vị, tổ chức, cá nhân được
nhà nước giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng.
Phương pháp phát phiếu điều tra trực tiếp
Để thu thập số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu, tôi đã điều tra các
đơn vị, tổ chức, cá nhân trên địa bàn thị xã Phổ Yên được nhà nước giao đất, cho
thu, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất bằng phương pháp phỏng vấn trực


tiếp những cá nhân hiểu biết về công tác quản lý, sử dụng đất đai của đơn vị, tổ
chức, cá nhân. Điều này đảm bảo lượng thông tin có tính đại diện và chính xác.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Để lấy thông tin theo chiều rộng, tránh cho
người bị phỏng vấn cảm thấy bị nhàm chán, bị ép buộc phải trả lời câu hỏi có sẵn,
tôi đã dùng các câu hỏi không có trong phiếu điều tra để hỏi đối tượng, những câu
hỏi phát sinh trong quá trình phỏng vấn. Phương pháp này nhằm mục đích lấy
thông tin rộng hơn, gợi mở hơn nhiều vấn đề mới quan trọng và thú vị. Mục đích
của điều tra: Nắm bắt một cách tương đối chi tiết về tình hình quản lý việc giao

đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thị xã Phổ
Yên.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp thu thập dựa trên cơ sở thu thập ý
kiến của các chuyên gia trong từng lĩnh vực, các nhà lãnh đạo, các cán bộ quản lý,
người sản xuất giỏi có kinh nghiệm, các cán bộ về kỹ thuật thông qua các tài liệu
hoặc trao đổi trực tiếp với họ để ta có kết luận chính xác.
Phương pháp quan sát trực tiếp: Đây là phương pháp rất sinh động và thực tế,
vì qua phương pháp này tất cả các giác quan của người phỏng vấn đều được sử
dụng: mắt nhìn, tai nghe... qua đó các thông tin được ghi lại trong trí nhớ, qua ghi
chép, chụp lại một cách cụ thể, thực tế, phong phú và khách quan.
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp thống kê: Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập được, tiến
hành tổng hợp xử lý trên máy tính bằng phần mềm Excel, phân nhóm phân tích
tương quan giữa các yếu tố về tình hình sử dụng đất, mối quan hệ và phụ thuộc lẫn
nhau giữa điều kiện tự nhiên, kinh tế
Xã hội và các vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên đất…
Phương pháp tiếp cận: Tiếp cận vĩ mô từ trên xuống, tiếp cận vi mô từ dưới
lên.
Phương pháp tổng hợp: Là phương pháp liên kết thống nhất toàn bộ các yếu
tố, các nhận xét mà khi ta sử dụng các phương pháp có được thành một kết luận
hoàn thiện, đầy đủ. Vạch ra mối liên hệ giữa chúng, khái quát hoá các vấn đề trong
nhận thức tổng hợp.
Phương pháp kế thừa: Phân tích các tài liệu đã có trên địa bàn thị xã Phổ Yên,
các tài liệu có liên quan đến việc sử dụng đất đai.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN


3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của thị xã Phổ Yên ảnh
hướng đển sử dụng đất
3.1.1. Điều kiện tự nhiên

3.1.1.1. Vị trí địa lý
3.1.1.2. Địa hình, địa mạo
3.1.1.3 Khí hậu, thủy văn
3.1.2. Điều kiện kinh tế và xã hội
3.1.2.1. Tăng trưởng kinh tế trong 3 năm qua (2014 - 2016)
3.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu
3.1.2.3. Thực trạng phát triển xã hội
3.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thị xã Phổ
Yên
3.2. Thực trạng sử dụng đất và biến động sử dụng đất của thị xã Phổ Yên
trong giai đoạn 2014 – 2016
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất và biến động sử dụng đất của thị xã Phổ
Yên giai đoạn 2014 – 2016
Mục đích sử dụng đất
Số TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
1.6
1.7
1.8
1.9
2
2.1
2.2
2.3


Tổng diện tích tự
nhiên
Đất nông nghiệp
Đất sản xuất nông
nghiệp
Đất trồng cây hằng năm
Đất trồng lúa
Đất cỏ dùng vào chăn
nuôi
Đất trồng cây hằng năm
khác
Đất trồng cây lâu năm
Đất lâm nghiệp
Đất nuôi trồng thủy sản
Đất nông nghiệp khác
Đất phi nông nghiệp
Đất ở
Đất ở nông thôn
Đất ở đô thị

2014

Năm
2015

2016


2.4
2.5

2.6
3
3.1
3.2
3.3

Đất ở nghĩa trang, nghĩa
địa
Đất sông suối và mặt
nước
Đất phi nông nghiệp
khác
Đất chưa sử dụng
Đất bằng chưa sử dụng
Đồi núi chưa sử dụng
Đất núi đá không rừng
cây
( Nguồn: ………………)

3.3 Đánh giá thực trạng tình hình quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất của thị xã Phổ Yên trong giai đoạn
2014 – 2016
3.3.1 Kết quả việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển đổi mục
đích sử dụng đất của thị xã Phổ Yên trong giai đoạn 2014 – 2016.
3.3.1.1. Kết quả việc giao đất của thị xã Phổ Yên trong giai đoạn 2014 – 2016.
Bảng 3.2 Kết quả giao đất cho hộ gia đình, cá nhân tại thị xã Phổ Yên giai
đoạn 2014 – 2016.
Giao đất theo hình thức

Tổng

Năm
Số lô

chỉ định

Diện

Tiền sử

Diện

Tiền sử

tích

dụng đất Số lô

tích

dụng đất

(m2)

(tr.đồng)

(m2)

(tr.đồng)

Giao đất theo hình

thức đấu giá quyền sử

Số


dụng đất
Diện Tiền sử
tích

dụng đất

(m2)

(tr.đồng)

2014
2015
2016
Tổng
Bảng 3.3: Kết quả giao đất cho tổ chức tại thị xã Phổ Yên giai đoạn 2014 –
2016


×