Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 93 trang )

LA PHÚC LỢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

ĐỊNH GIÁ VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
GÓP VỐN VÀO CÔNG TY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2014 - 2016

LA PHÚC LỢI

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

ĐỊNH GIÁ VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN
VÀO CÔNG TY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LA PHÚC LỢI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy , chính sác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác Giả Luận Văn

La Phúc Lợi

LỜI CẢM ƠN


Trong quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp cao học, được sự
giúp đỡ của các thầy, cô giáo Viện Đại Học Mở Hà Nội, sự tham gia góp ý
của các nhà khoa học, các nhà quản lý, bạn bè, đồng nghiệp và cùng sự nỗ lực
của bản thân. Đến nay tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sỹ với đề tài luận
văn: “Định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” chuyên nghành Luật Kinh Tế.
Tác giả bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Đồng Ngọc Ba – Cục

trưởng cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư Pháp đã hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình và cung cấp các kiến thức khoa học cần thiết trong quá
trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Luật
và Quản Lý, phòng đào tạo Đại Học và sau Đại Học Viện Đại Học Mở Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành tốt luận văn
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một học
viên, luận văn này không thể tránh được những thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để tác giả có điều kiện
bổ sung, nâng cao ý thức của mình,phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này.
Xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 26 tháng 08 năm 2016
Tác giả

La Phúc Lợi

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 2
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
5. Kết cấu của Luận văn .......................................................................................... 3
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY VÀ GÓP VỐN VÀO
CÔNG TY .............................................................................................................. 4
1.1. Khái quát về công ty ......................................................................................... 4

1.2. Góp vốn vào công ty ....................................................................................... 12
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 18
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐỊNH GIÁ VÀ
CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY .............. 19
2.1. Các loại hình công ty theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam ............................ 19
2.2. Định giá tài sản góp vốn vào công ty .............................................................. 42
2.3. Chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty .......................................... 59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 76
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, BẢO ĐẢM ........................ 77
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊNH GIÁ VÀ CHUYỂN
QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP VỐN VÀO CÔNG TY ................................ 77


3.1. Tiếp tục hoàn thiện, quy định chi tiết các quy định của Luật doanh nghiệp về
vấn đề định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty .................... 77
3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp luật về định giá tài sản và chuyển
quyền sơ hữu tài sản góp vốn vào công ty.............................................................. 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 82
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 84


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua
ngày 26/11/2014, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/7/2015 và thay thế Luật
Doanh nghiệp năm 2005. Đó là cơ sở pháp lí thúc đẩy đổi mới tư duy theo hướng
thừa nhận và tôn trọng quyền thành lập doanh nghiệp để kinh doanh của công dân.
Cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật Doanh nghiệp đã thể hiện bước tiến
quan trọng trong việc xác định địa vị pháp lí cho doanh nghiệp tư nhân và các loại

hình công ty, góp phần cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh ở nước ta. Một
trong những điểm mới và tiến bộ của Luật Doanh nghiệp thể hiện các quy định về
chuyển quyền sở hữu tài sản và định giá tài sản góp vốn vào công ty. Tuy nhiên, các
quy định này cũng vẫn chỉ dừng lại ở những nguyên tắc cơ bản và hiện chưa có
những hướng dẫn cụ thể. Trong thực tiễn, cách hiểu và áp dũng các quy định về vấn
đề định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty nhiều khi
còn chưa thống nhất. Để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các chủ
thể có liên quan trong quá trình góp vốn vào công ty, cần có những giải pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu qủa của các quy định về định giá tài sản và chuyển quyền
sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
Trong điều kiện trên, việc nghiên cứu đề tài “Định giá và chuyển quyền sở
hữu tài sản góp vốn vào công ty - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” góp phần phát
huy hiệu lực của Luật doanh nghiệp cũng như làm phong phú hơn lí luận và thực
tiễn vấn đề định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống trên cơ sở những
quy định về định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty,
tình hình thực hiện vấn đề này trên thực tế, tìm ra nguyên nhân của những mặt còn
1


tồn tại để có thể khắc phục và thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, Luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ một số khái niệm: công ty, góp vốn, phần vốn góp, định giá tài
sản, chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn.
- Phân tích những quy định của Luật doanh nghiệp và thực tế thực hiện vấn
đề định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty, trên cơ sở
đó rút ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và

nâng cao tính khả thi của vấn đề trên.
Luận văn này góp phần vào việc nâng cao nhận thức về vấn đề định giá tài
sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty đặc biệt là nhà đầu tư và
công ty tiếp nhận vốn đầu tư. Luận văn cũng đề xuất một vài ý kiến để tiếp tục hoàn
thiện và thực thi hiệu quả Luật doanh nghiệp 2014 về vấn đề định giá tài sản và
chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình thực
hiện các quy định của pháp luật về định giá tài sản góp vốn vào công ty được quy
định tại các Điều 35, 36, 37 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản pháp
luật có liên quan khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề định giá tài sản góp vốn vào công ty là một vấn đề không mới nhưng lại
thường xảy ra khá nhiều các vướng mắc trong quá trình thực thi các quy định của pháp
luật. Thực tế của việc định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn trong
các công ty diễn ra còn chưa thống nhất, chặt chẽ, chưa đảm bảo tốt quyền lợi của nhà
đầu tư, của công ty cũng như những thành viên còn lại của công ty. Để đạt được mục

2


đích nghiên cứu đã đề ra Luận văn đặt ra phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về nội dung: Phân tích, đánh giá ưu điểm, nhược điểm trong các quy định của
Luật doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản pháp lý liên quan về việc định giá tài sản
góp vốn vào công ty.
- Về đối tượng: Là việc định giá tài sản góp vốn của các thành viên công ty
trong bốn loại hình công ty theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 bao gồm:
công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.

4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật. Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu
khi nghiên cứu từng vấn đề cụ thể, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh luật học…
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu gồm 03 chương, cụ
thể như sau:
Chương 1: Khái quát về công ty và góp vốn vào công ty
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về định giá và chuyển quyền sở
hữu tài sản góp vốn vào công ty.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện, bảo đảm hiệu quả thực hiện pháp
luật về định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn vào công ty.

3


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY VÀ GÓP
VỐN VÀO CÔNG TY
1.1. Khái quát về công ty
1.1.1. Khái niệm công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan niệm truyền thống thì công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều
cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lí, nhằm tiến hành để đạt được một
mục tiêu chung nào đó1.
Công ty có các đặc điểm cơ bản sau:
- Sự liên kết của nhiều người.
- Sự liên kết được thực hiện thông qua một sự kiện pháp lí.
- Sự liên kết này đều nhằm đạt được mục đích tư duy nào đó.

Thực tiễn có rất nhiều loại công ty với các mục đích khác nhau, song dựa vào
mục đích của các thành viên, người ta chia công ty ra làm hai loại chính đó là: công
ty dân sự và công ty kinh doanh. Luận văn này này đề cập đến công ty kinh doanh.
Công ty kinh doanh là loại công ty do hai hay nhiều người (tổ chức) góp vốn
thành lập để kinh doanh với mục đích kiếm lợi nhuận.
Công ty kinh doanh là doanh nghiệp, vì vậy mang đầy đủ các đặc điểm của
một doanh nghiệp như: tự chủ trong kinh doanh, chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh, có tư cách pháp nhân, có vốn..., ngoài ra công ty còn có những đặc điểm
riêng là:
Thứ nhất, về địa vị pháp lí: công ty là một thực thể pháp lí nhận định, tức là
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân,
tr. 109.

4


một chủ thể do con người tạo nên trên cơ sở của pháp luật. Chủ thể này hoàn toàn
độc lập với các thể nhân đã thành lập ra nó. Tính độc lập này thể hiện ở hai mặt sau:
thứ nhất sự ra đi của các thành viên cũ hay sự gia nhập của các thành viên mới
không làm công ty chấm dứt hoạt động. Với tư cách là doanh nghiệp độc lập, công
ty vẫn hoạt động không phụ thuộc vào sự thay đổi của cơ cấu thành viên; thứ hai, tài
sản của các công ty thuộc sở hữu của nó dù bản thân công ty lại là sở hữu chung của
thành viên công ty.
Thứ hai, về trách nhiệm tài sản: công ty chịu trách nhiệm đối với các nghĩa
vụ trước các đối tác trong phạm vi tài sản của mình (công ty cổ phần và công ty
TNHH); đối với công ty hợp danh, các thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn (tất cả tài sản của các thành viên hợp danh) về các nghĩa vụ tài sản
của công ty.

Thứ ba, về vốn (tài sản) của công ty: Vốn của công ty là cơ sở vật chất quan
trọng để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn của công ty được hình
thành từ sự đóng góp của thành viên và tuỳ vào từng loại hình công ty mà hình thức
góp vốn là khác nhau.
Thứ tư, về thành viên công ty: thành viên công ty phải là người góp vốn vào
công ty và có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty. Thành viên công ty cùng
chia nhau lợi nhuận và chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp cũng như việc cùng chịu
những khoản nợ của công ty. Tuy nhiên, việc chịu những khoản nợ của thành viên
trong công ty đối nhân thì có thể là không giới hạn. Đối với loại hình công ty đối
vốn thì sự chịu trách nhiệm của các thành viên đối với các khoản nợ của công ty chỉ
giới hạn trong phần vốn góp của họ ở công ty.
1.1.2. Phân loại công ty
Trong lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường, đã xuất hiện và tồn tại nhiều
loại hình công ty khác nhau. Dưới góc độ pháp lí, căn cứ vào tính chất của sự liên
kết trong công ty, có thể chia công ty thành hai loại là: công ty đối nhân và công ty

5


đối vốn2.
a) Công ty đối nhân
Công ty đối nhân là những công ty mà sự liên kết giữa các thành viên để tạo
thành công ty bị chi phối trực tiếp và sâu sắc bởi mối quan hệ nhân thân giữa các
thành viên; vốn góp của các thành viên trong công ty đối nhân không phải là yếu tố
quyết định tới sự duy trì quan hệ hợp tác giữa các thành viên trong công ty. Công ty
đối nhân bao gồm hai hình thức phổ biến là hợp danh và hợp danh hữu hạn. Về quan
điểm pháp lý, nhiều nước quan niệm hợp danh và hợp danh hữu hạn là các loại hình
công ty (các nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa), trong khi các nước khác (các
nước thuộc hệ thống luật Anh - Mỹ) không quan niệm hợp danh và hợp danh hữu hạn
là công ty, hay chí ít thì hợp danh và hợp danh hữu hạn cũng không được điều chỉnh

pháp luật giống như các công ty. Cũng có quan điểm cho rằng “khác với sự liên kết
trong các công ty luôn tạo ra một chủ thể pháp lý mới, bản thân hợp danh không phải
là một chủ thể pháp lý (legal entity) tồn tại độc lập với các thành viên”3. Có thề nhận
thấy, sự liên kết trong trường hợp của hợp danh và hợp danh hữu hạn mặc dù không
tạo lập một pháp nhân độc lập với các thành viên, nhưng đã tạo ra một tư cách pháp
lý mới tách biệt (tương đối) với các hội viên, đó chính là tư cách pháp lý của hợp
danh và hợp danh hữu hạn. Với tư cách pháp lý này, hợp danh và hợp danh hữu hạn
có thể sử dụng khả năng, uy tín cũng như vốn góp của các thành viên để tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Có thể nói, mức độ liên kết trong hợp danh và hợp danh hữu
hạn không chặt chẽ bằng công ty theo đúng nghĩa, nhưng mức độ liên kết này không
còn dừng lại ở mức độ liên kết trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh hay các hợp
đồng thông thường khác. Mặc dù hợp danh và hợp danh hữu hạn có thể khác với
công ty ở chỗ, đối với công ty, tài sản, lợi nhuận và trách nhiệm thuộc công ty chứ
không phải của các thành viên công ty, còn đối với hợp danh, tài sản, lợi nhuận và
trách nhiệm thuộc về các thành viên, nhưng là các loại hình doanh nghiệp, hợp danh

2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân,
tr. 115
3
Vermeesh & KE Lindgrend, Business law of Australia, Butterworths 1995, page 581

6


và hợp danh hữu hạn xuất hiện trong nhiều quan hệ pháp luật với tư cách chủ thể
pháp luật (như quan hệ hợp đồng với khách hàng, quan hệ pháp luật lao động, quan
hệ pháp luật tài chính, quan hệ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp...). Như vậy,
nếu chỉ nhìn nhận hợp danh và hợp danh hữu hạn là những mối liên kết kinh tế như

trong các hợp đồng thông thường thì sẽ khó có thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề
pháp lý phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của chúng.
Mặc dù pháp luật các nước có nhiều sự khác nhau trong quan điểm về bản
chất pháp lý của công ty đối nhân, song về cơ bản đều thống nhất trong các quy
định về chế độ trách nhiệm tài sản áp dụng cho các hình thức tổ chức kinh doanh
này. Với hợp danh thông thường, các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới và
vô hạn về mọi khoản nợ của hợp danh; mọi tài sản của mỗi hội viên đều thuộc phạm
vi gánh chịu rủi ro của hợp danh. Đối với hợp danh hữu hạn, các hội viên nhận vốn
(thành viên hợp danh) phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của hợp danh
hữu hạn, trong khi các thành viên góp vốn chịu trách nhiệm về các khoản nợ này
trọng phạm vi phần vốn đã đóng góp. Ưu điểm của công ty đối nhân thể hiện ở
những khía cạnh pháp lý cơ bản là: Thứ nhất, công ty đối nhân ít chịu rằng buộc về
mặt pháp lý trong quá trình thành lập; Thứ hai, các thành viên (hợp danh) thông
thường có tư cách chủ thể kinh doanh (thương gia) độc lập và không bị hạn chế
trong hoạt động kinh doanh bởi chức năng kinh doanh của các thành viên khác cũng
như của công ty; ưu điểm này tạo ra sự linh hoạt (Flexbility) trong việc tổ chức kinh
doanh; tuy nhiên về nguyên tắc thành viên hợp danh không được hoạt động kinh
doanh (thu lợi cá nhân) cạnh tran với công ty; Thứ ba, công ty đối nhân theo pháp
luật hầu hết các nước có sự thuận lợi hơn so với các công ty về chế độ thuế. Thông
thường, hợp danh không thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập, thay vào đó thuế thu
nhập được đánh vào các thành viên; Thứ tư, tính bí mật (secrecy): nhìn chung theo
pháp luật các nước, hợp danh không phải công khai hóa những thông tin về công ty.
Bên cạnh những ưu điểm kể trên, công ty đối nhân cũng có những hạn chế
nhất định về mặt pháp lý: Thứ nhất, khả năng gánh chịu rủi ro lớn đối với các thành
viên hợp danh. Với quy chế trách nhiệm vô hạn, mỗi thành viên hợp danh phải chịu
7


trách nhiệm một cách vô hạn đối với các nghĩa vụ của hợp danh; Thứ hai, công ty
đối nhân là liên kết có tính không bền vững (lack of permanence): với tính chất đối

nhân sâu sắc, sự thay đổi cơ cấu thành viên có thể ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và
hoạt động của hợp danh và hợp danh hữu hạn; ngay khi một thành viên chết hoặc bị
phá sản đã có thể dẫn đến sự tan vỡ của những doanh nghiệp này. Vì vậy ngoại trừ
những trong những ngành nghề kinh doanh có tính nghề nghiệp cá nhân cao (dịch
vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán, khám chữa bệnh...), công ty đối nhân thường không
thích hợp để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn, ; Thứ ba, hạn chế trong việc huy
động vốn và mở rộng quy mô kinh doanh: hạn chế này cũng xuất phát từ đặc điểm
về tính chất đối nhân công ty. Đối với những doanh nghiệp này, về mặt thực tế, việc
tiếp nhận thêm thành viên mới khó khăn hơn rất nhiều so với trường hợp công ty.
Bên cạnh đó, theo pháp luật hầu hết các nước, hợp danh và hợp danh hữu hạn không
thuộc diện chủ thể có quyền phát hành chứng khoán để công khai huy động vốn ngoài
công chúng; Thứ tư, vấn đề chuyển nhượng vốn góp của các thành viên: việc chuyển
nhượng phần vốn góp của các thành viên hợp danh thường không đơn giản cả về mặt
pháp lý và thực tế, nhất là trong trường hợp người nhận chuyển nhượng vốn là người
ở ngoài hợp danh; Thứ năm, theo pháp luật nhiều nước, với quan niệm công ty đối
nhân không có tư cách pháp nhân độc lập với các thành viên, nên không thừa nhận
quyền của các thành viên hợp danh trong việc giao kết hợp đồng với công ty; thành
viên hợp danh cũng không có quyền khởi kiện công ty trong trường hợp có tranh
chấp về quyền lợi giữa thành viên và công ty.
b) Công ty đối vốn
Công ty đối vốn là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến nhất trên thế giới
hiện nay. Công ty đối vốn là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân, tồn tại một
cách độc lập với các thành viên của nó. Sự liên kết giữa các thành viên công ty đối
vốn dựa trên cơ sở quan trọng nhất là vốn góp. Trong công ty đối vốn luôn có sự
tách bạch về mặt pháp lý giữa tài sản của công ty và tài sản của các thành viên.
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới quy định phân biệt rõ hai loại hình công
ty đối vốn là: là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
8



Công ty cổ phần là hình thức công ty đối vốn điển hình. Công ty cổ phần có
cấu trúc vốn "mở", theo đó vốn của công ty có khả năng xã hội hóa cao. Vốn điều lệ
của công ty được chia thành các cổ phần có mệnh giá bằng nhau. Các cổ phần được
tự do chuyển nhượng. Công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng phát hành các loại
chứng khoán. Khác với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình
công ty vừa có tính chất đối nhân vừa có tính chất đối vốn. Số lượng thành viên của
công ty thường không nhiều và có sự quen biết lẫn nhau. Pháp luật các nước thường
quy định giới hạn tối đa về số lượng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn. Công
ty trách nhiệm hữu hạn có cấu trúc vốn "đóng", theo đó việc chuyển nhượng vốn
của các thành viên ra ngoài công ty bị hạn chế; mặt khác công ty không được phát
hành cổ phần để huy động vốn.
Xét theo lợi ích của các nhà đầu tư, công ty đối vốn là mô hình tổ chức kinh
doanh có nhiều ưu điểm. Với mô hình công ty đối vốn, các nhà đầu tư có thể phân
tán và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, công ty
đối vốn là một chủ thể có tư cách pháp nhân, tồn tại một cách độc lập cả về tài sản
và thẩm quyền với các chủ thể khác. Điều này cho phép công ty có khả năng độc
lập, tự chủ cao trong việc tổ chức các hoạt động kinh doanh. Trong bối cảnh kinh tế
thị trường, công ty đối vốn (đặc biệt là công ty cổ phần) là mô hình kinh doanh có
khả năng hòa nhập và phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, các hình thức
sở hữu. Bản chất của công ty không lệ thuộc vào tính chất thành phần kinh tế và
tính chất sở hữu của các nhà đầu tư góp vốn vào công ty.
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật kể trên, công ty đối vốn cũng có những hạn
chế nhất định. Với sự liên kết giữa các thành viên dựa trên cơ sở vốn góp, việc quản
trị công ty đối vốn thường khó khăn, phức tạp hơn so với công ty đối nhân. Ngoài
ra, ở các mô hình công ty đối vốn, mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh đối với
người thứ ba (khách hàng của công ty) là rất cao. Cũng vì lẽ đó mà về mặt pháp lý,
các công ty đối vốn thường chịu sự ràng buộc bởi pháp luật chặt chẽ hơn nhiều so
với công ty đối nhân trong quá trình tổ chức và hoạt động.

9



1.1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về công ty
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về công ty là các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của công ty. Tổ chức và
hoạt động của công ty là một quá trình phức tạp, có thể nảy sinh nhiều quan hệ xã
hội thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, khó có thể liệt kê đầy đủ những
quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của công ty.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về công ty trải rộng
trên nhiều giai đoạn, nhiều lĩnh vực của quá trình tổ chức và hoạt động của công ty.
Khi thành lập công ty, nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật. Việc đăng ký kinh doanh làm phát sinh quan hệ quản lý nhà
nước đối với công ty. Sau khi được "khai sinh", công ty có tư cách là một loại chủ
thể pháp luật, và đồng thời công ty còn là đối tượng thuộc quyền sở hữu của những
người đã thành lập ra nó. Đây chính là cơ sở làm phát sinh nhiều nhóm quan hệ xã
hội khác nhau về công ty, trong đó có thể kể đến: quan hệ giữa nhà nước với công
ty; quan hệ giữa chủ sở hữu công ty với công ty; quan hệ giữa các chủ sở hữu của
công ty với nhau (trong trường hợp công ty có nhiều chủ sở hữu); quan hệ giữa chủ
sở hữu công ty và người quản lý công ty; quan hệ giữa người quản lý công ty với
công ty; quan hệ giữa công ty và các chủ thể khác (trong sử dụng đất, thuê lao động,
trong lĩnh vực tài chính, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường...). Các quan hệ xã hội
này rất khác nhau, về cả tính chất nội dung và thành phần chủ thể.
Với đối tượng điều chỉnh như vậy, pháp luật về công ty, theo nghĩa rộng, có thể
được định nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của công
ty. Từ quan điểm truyền thống của lý luận pháp luật ở Việt Nam, thì pháp luật về công
ty là một lĩnh vực pháp luật, bao gồm các quy phạm, các chế định được quy định trong
các văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau (như Luật hiến pháp, Luật
hành chính, Luật dân sự, Luật thương mại, Luật lao động, Luật đất đai, Luật tài chính,
Luật hình sự, Luật môi trường...), điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức

và hoạt động của công ty.
10


Theo nghĩa hẹp, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về công ty là các quan hệ
pháp luật về tổ chức công ty. Căn cứ vào quá trình tồn tại của công ty, có thể xác
định được pháp luật về công ty điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các
giai đoạn sau:
- Gia nhập thị trường: Khái niệm gia nhập thị trường được hiểu dưới góc độ
pháp lý với nội dung cơ bản là thành lập công ty và đăng ký kinh doanh cho công ty.
- Quản trị công ty: Quản trị công ty thường được tiếp cận dưới góc độ của khoa
học quản lý. Có thể hiểu khái quát quản trị công ty là hệ thống định hướng và quản lý
công ty kinh doanh. Về mặt pháp lý, cơ cấu quản trị công ty xác định sự phân công
quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên và người quản lý trong công ty.
- Rút khỏi thị trường: Các quy định về rút khỏi thị trường đề cập tới vấn đề
chấm dứt hoạt động của công ty, và theo đó chấm dứt hoạt động kinh doanh của nhà
đầu tư. Việc chấm dứt hoạt động kinh doanh có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau và có ảnh hưởng trực tiếp tới những đối tượng có quan hệ với công ty (đối tác
hợp đồng, chủ nợ, người lao động...).
Các quan hệ pháp luật về tổ chức công ty phát sinh trực tiếp từ quá trình tạo
lập, duy trì, biến đổi và chấm dứt tư cách chủ thể pháp luật của công ty (thành lập
công ty và đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý nội bộ của công ty, tạo lập cơ cấu
vốn, tổ chức lại công ty, giải thể công ty...). Từ đó có thể định nghĩa, pháp luật về
công ty là hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình gia nhập thị trường, quản trị hoạt
động và rút khỏi thị trường của các công ty.
Có thể nhận thấy, khái niệm pháp luật về công ty được tiếp cận trong khoa
học pháp lý với những cách hiểu có thể không giống nhau cả về thuật ngữ và nội
dung pháp lý, nhưng nhìn chung pháp luật về công ty thường được hiểu là các quy
định về tổ chức công ty (gia nhập thị trường, quản trị công ty và rút khỏi thị

trường). Trong giáo trình này, pháp luật về công ty được tiếp cận nghiên cứu theo
nghĩa hẹp, với nội dung là các quy định về vấn đề tổ chức của công ty.
11


Với đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội về tổ chức công ty, chức năng
chủ yếu của pháp luật về công ty là đảm bảo an toàn pháp lý cho các nhà đầu tư
trong quá trình tạo lập công ty, đầu tư vốn và tổ chức vận hành công ty. Phương
pháp điều chỉnh của pháp luật về công ty chủ yếu là các phương pháp của luật tư (tự
do, bình đẳng, thỏa thuận...). Theo lôgic đó, các quy định nguyên tắc chung trong
pháp luật dân sự về chủ thể pháp luật dân sự, về tài sản và quyền sở hữu tài sản, về
đại diện... có mối liên hệ mật thiết và ảnh hưởng sâu sắc tới nội dung của pháp luật
về công ty. Nội dung của pháp luật về công ty thể hiện sự tiếp tục phát triển các quy
định của dân luật liên quan đến chủ thể pháp luật, phù hợp với tính chất của hoạt
động kinh doanh. Nếu như các quy định trong pháp luật dân sự truyền thống là cơ
sở pháp lý đảm bảo quyền sở hữu tài sản trong trạng thái "tĩnh", thì pháp luật về
công ty, với tư cách là một chế định của pháp luật kinh doanh, là cơ sở pháp lý để
đảm bảo quyền sở hữu tài sản trong trạng thái "động".
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng, việc phân biệt nội hàm của khái niệm pháp
luật về công ty theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp chỉ có tính chất tương đối. Hệ thống
pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của công ty là một chỉnh thể thống nhất;
các bộ phận cấu thành pháp luật về công ty dù được xác định trên nguyên tắc nào,
luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về mặt nội dung.
1.2. Góp vốn vào công ty
1.2.1. Khái niệm
Theo cách hiểu thông thường, góp vốn được hiểu là bỏ tiền mua cổ phần
hoặc phần vốn góp của doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận4. Góp vốn là cơ
sở tạo lập nên khối tài sản của công ty. Góp vốn vào công ty là một trong những
quyền cơ bản của nhà đầu tư trong nền kinh tế thị trường
Theo Luật Doanh nghiệp 2014 (Khoản 13 Điều 4), góp vốn được định nghĩa là

“việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành
4

Quy định chung về việc góp vốn, trích dẫn từ: cập nhật ngày 14/8/2016.

12


lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập”.
Vốn góp là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của những
tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty. Như vậy, vốn góp được định
lượng bằng giá trị, bằng tiền. Theo Luật doanh nghiệp năm 2014 (Khoản 1 Điều
35), tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá
trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các
tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết
góp hoặc cam kết góp vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lện
phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn đều lệ của công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Theo đó, phần vốn góp được xác định
bằng đại lượng số học (1,2... hay %).
1.2.2. Ý nghĩa của việc góp vốn
Góp vốn vào công ty là công việc hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc.
Khi hai hay nhiều người cùng góp vốn để thành lập một doanh nghiệp, để tiến hành
hoạt động kinh doanh kiếm lời chia nhau thì có nghĩa là đã thành lập một công ty.
Đồng thời với việc góp vốn để thành lập công ty, một nhà đầu tư còn có thể góp
vốn, hùn vốn kinh doanh vào một công ty đang hoạt động. Điều này sẽ góp phần
mở rộng quy mô công ty ở việc làm tăng vốn điều lệ, cũng như thúc đẩy khả năng
kinh doanh của công ty.
Có thể nói góp vốn là cách thức chủ yếu để xác lập tư cách thành viên công
ty. Nhà đầu tư sẽ có tư cách thành viên khi họ góp vốn vào một công ty nào đó. Khi

đó, họ có quyền sở hữu một phần công ty, được hưởng lợi nhuận tương ứng với tỉ lệ
phần vốn góp và chịu trách nhiệm trước các khoản nợ của công ty trong phạm vi
phần vốn góp của mình.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, các tổ chức, cá nhân được quyền góp vốn
vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, trừ những
trường hợp sau:
13


- Cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài
sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
Như vậy, Luật doanh nghiệp năm 2014 quy một phạm vi rất rộng các chủ thể
có quyền góp vốn vào công ty. Theo quy định trên có thể thấy các đối tượng không
được thực hiện việc góp vốn đều là các đối tượng do Nhà nước quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước và thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao, đó là cơ quan nhà nước, đơn
vị lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức.
Với quy định trên có thể thấy, mọi tổ chức, cá nhân đều được quyền góp vốn,
không phân biệt là người Việt Nam hay người nước ngoài không hạn chế tuổi tối
thiểu của cá nhân góp vốn vào công ty, ngoài ra người bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự cũng được quyền góp vốn vào công ty thông qua đại diện theo pháp
luật. Luật doanh nghiệp mở rộng tối đa phạm vi các chủ thể có vốn được đóng góp
vào hoạt động kinh doanh nhờ đó mà đã huy động được mọi nguồn lực cho phát
triển kinh tế, tạo dựng một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho tất cả các
chủ thể có mong muốn đầu tư kinh doanh cũng như tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thu hút các nguồn lực đầu tư ở trong và ngoài nước.
Luật doanh nghiệp năm 2014 đã khẳng định sự tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do kinh doanh trong đó có quyền góp vốn của người dân đã được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, điều đó cũng bảo đảm được sự tương thích giữa

quy định của Luật doanh nghiệp với các luật khác trong khung pháp luật hiện nay
như Luật Đầu tư năm 2014, Bộ luật dân sự năm 2015.
1.2.3. Kết quả của việc góp vốn
Trước hết, hành vi góp vốn chính là việc thực hiện quyền định đoạt đối với
tài sản thuộc sở hữu của nhà đầu tư nhằm tạo lập tài sản cho công ty. Xuất phát từ
nhu cầu mong muốn khai thác lợi ích tài sản, chủ sở hữu có nhu cầu thành lập công
ty (lúc này những người góp vốn xuất hiện trên thương trường với tư cách là những
14


nhà đầu tư). Thông qua việc thực hiện các hành vi liên kết, kí "hợp đồng thành lập
công ty", những nhà đầu tư này trở thành thành viên sáng lập công ty. Ngoài ra, trên
thực tế xuất hiện những cá nhân, tổ chức muốn mở rộng khả năng tài chính của
mình song không muốn hoặc không có khả năng trở thành người quản lí, điều hành
công ty mà chỉ muốn là người hưởng lợi nhuận từ số vốn mà mình có. Do đó, với
hành vi góp vốn vào một công ty nào đó, họ đã trở thành người đồng sở hữu công
ty. Một người sẽ là thành viên của công ty khi mang tài sản của mình góp vào công
ty. Tuy nhiên thời điểm xác lập tư cách thành viên có sự khác nhau nhất định giữa
các loại hình công ty. Đối với công ty TNHH từ hai thành viên trở lên, tư cách
thành viên công ty được xác định khi cam kết của nhà đầu tư về việc góp vốn vào
công ty có hiệu lực. Tuy nhiên, sau 90 ngày kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà thành viên chưa góp vốn theo cam kết thì
đương nhiên không còn là thành viên của công ty. Đối với công ty cổ phần, Luật
Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong trường hợp thành lập mới doanh nghiệp thì
tư cách cổ đông được xác định kể từ khi doanh nghiệp được đăng ký tại cơ quan
đăng ký doanh nghiệp. Theo đó, các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng
ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Sau thời hạn này mà cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đăng ký
mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty. Tuy nhiên, cổ đông chưa
thanh toán vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh giá cổ phần

đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn
90 ngày kể từ ngày Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (Điều 112). Trường hợp
công ty chào bán cổ phần hoặc cổ đông thực hiện quyền chuyển nhượng cổ phần thì
người mua cổ phần hoặc người nhận chuyển nhượng trở thành cổ đông của công ty
kể từ thời điểm những thông tin về người mua được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ
đông (Khoản 4 Điều 124, Khoản 7 Điều 126). Về mô hình công ty hợp danh, dường
như Luật doanh nghiệp chưa có điều luật nào trực tiếp chỉ ra thời điểm này, song
thông qua các quy định xung quanh loại công ty này thì chúng ta ngầm hiểu khi nhà
đầu tư cam kết góp vốn vào công ty, họ đã là một thành viên của công ty đó. Thành
15


viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết gây thiệt cho công ty
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty. Thành viên góp vốn không
góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ
của thành viên đó đối với công ty; trường hợp này có thể bị khai trừ khỏi công ty
theo quyết định của Hội đồng thành viên.
Dù là người quản lí, điều hành công ty hay đơn giản là nhà đầu tư thì người
góp vốn đã mang tư cách là thành viên của công ty nào đó. Tài sản mà họ đem góp
vào công ty không còn là của riêng họ nữa nhưng cũng không phải là tài sản thuộc
sở hữu chung của tất cả các thành viên công ty mà là tài sản của công ty. Vì điều đó
mà chế định quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty được Luật doanh nghiệp quy
định phù hợp với từng loại hình công ty.
Ví dụ như thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn phải chịu trách
nhiệm về các khoản nợ, các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số vốn đã góp vào công
ty (Điều 47 Luật doanh nghiệp). Quy định này cũng được áp dụng tương tự cho cổ
đông của công ty cổ phần. Còn đối với mô hình công ty hợp danh, Luật doanh
nghiệp quy định hai chế độ khác nhau áp dụng tương ứng cho hai kiểu thành viên
khác nhau. Thành viên hợp danh là những người quyết định sự tồn tại và phát triển
của công ty nên có trách nhiệm vô hạn và liên đới; còn thành viên góp vốn hưởng

chế độ trách nhiệm tài sản như một thành viên công ty đối vốn (tức là chỉ trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty).
Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư, Luật doanh nghiệp đã quy
định vấn đề cấp giấy chứng nhận phần vốn góp cho nhà đầu tư.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì khi thành viên công ty trách nhiệm
hữu hạn góp đủ phần vốn góp, sẽ được công ty cấp giấy chứng nhận phần vốn góp.
Giấy chứng nhận phần vốn góp phải mang đầy đủ nội dung luật định trong đó
không thể thiếu quy định về phần vốn góp và giá trị vốn góp của thành viên. Luật
cũng quy định thêm về trường hợp giấy chứng nhận phần vốn góp bị mất, bị hủy
hoại, bị hư hỏng hoặc bị tiêu hủy dưới hình thức khác, thành viên được công ty cấp
16


lại giấy chứng nhận phần vốn góp theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều lệ công ty.
Trong công ty cổ phần, Luật doanh nghiệp quy định cụ thể về thời điểm công
ty cấp cổ phiếu cho cổ đông là sau khi họ thanh toán đủ số cổ phần đăng kí mua
(khoản 3 điều 61). Trường hợp cổ phiếu bị mất, bị rách... thì cổ đông cũng có quyền
tương tự như thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn.
Vậy giấy chứng nhận phần vốn góp hay cổ phiếu là bằng chứng xác lập
quyền sở hữu của nhà đầu tư cũng như xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong
mối quan hệ với công ty.
Trên thực tế hiện nay, việc góp vốn đầu tư chủ yếu bằng tiền Việt Nam, việc
huy động vốn dưới các hình thức tài sản khác(cả tài sản hữu hình lẫn tài sản vô hình)
vào phát triển kinh doanh còn rất hạn chế. Có tình trạng này là do những hạn chế trong
việc chuyển đổi tài sản cá nhân thành tài sản của doanh nghiệp tại các cơ quan cấp giấy
chứng nhận sở hữu tài sản hoặc những khó khăn của việc định giá tài sản góp vốn.
Vì thế, để đảm bảo tối đa quyền lợi của nhà đầu tư, vấn đề định giá tài sản và
chuyển quyền sở hữu tài sản được đặt ra đồng thời với hành vi góp vốn và hành vi tiếp
nhận vốn. Có như thế mới có thể bảo vệ được quyền lợi của chính nhà đầu tư, của công
ty, của cả bên thứ ba. Quá trình định giá tài sản và chuyển quyền sở hữu phải được quy

định chặt chẽ từ đó làm cơ sở cho việc thực hiện thống nhất trên thực tế.
Từ sự phân tích trên đây, có thể thấy pháp luật đã ghi nhận và điều chỉnh
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật cũng như quyền tự do góp vốn
của mọi cá nhân, tổ chức. Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể về vấn đề định giá
tài sản và chuyển quyền sở hữu trên cả hai phương diện: quy định của Luật doanh
nghiệp và thực tế thi hành tại các công ty, từ đó kiến nghị một số giải pháp góp
phần thực hiện quá trình trên tốt hơn trong thời gian tới

17


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Để đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh các chủ thể có nhu cầu kinh
doanh thu lợi nhuận phải thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp. Trong đó, có thủ
tục góp vốn vào công ty khi thành lập. Đây là một thủ tục mang tính chất chuyển
quyền sở hữu tài sản từ nhà đầu tư sang cho công ty để đảm bảo sự tự do trong việc
hoạt động của công ty sau khi thành lập. Bởi vậy, nhằm tránh những rủi ro có thể
xảy ra trong quá trình thực hiện thủ tục này, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy
định khá cụ thể về thủ tục góp vốn vào công ty.
Để có thể phân tích làm rõ nội dung pháp luật doanh nghiệp về vấn đề này,
trong Chương 1, tác giả trình bày khái quát một số vấn đề lý luận về công ty và góp
vốn vào công ty. Trong đó, nội dung Chương làm nổi bật khái niệm, phân loại công
ty và nội dung cơ bản của pháp luật về công ty theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành. Đồng thời Chương 1 cũng trình bày khái niệm, phân tích bản chất
của hoạt động góp vốn vào công ty, nêu ra ý nghĩa to lớn của hoạt đồng này đối việc
thành lập, hoạt động của công ty từ khi thành lập đến quá trình phát triển sau này.
Các vấn đề này sẽ được sử dụng làm cơ sở để phân tích thực trạng các quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành về định giá và chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn
vào công ty ở Chương 2.


18


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐỊNH
GIÁ VÀ CHUYỂN QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN GÓP
VỐN VÀO CÔNG TY
2.1. Các loại hình công ty theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam
2.1.1. Công ty hợp danh
Quan niệm về công ty hợp danh theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam tương
đồng với cách hiểu về công ty đối nhân trong pháp luật các nước. Theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014 (Điều 172). Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có những
đặc điểm pháp lý sau:
Về thành viên: Công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh trở
lên. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn và có uy tín nghề
nghiệp. Ngoài các thành viên hợp danh, công ty hợp danh còn có thể có thành viên
góp vốn. Thành viên góp vốn có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Về chế độ chịu trách nhiệm tài sản: Các thành viên hợp danh phải liên đới
chịu trách nhiệm vô hạn về mọi nghĩa vụ tài sản của công ty. Nếu tài sản của công
ty không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn thì các thành viên hợp danh còn phải
dùng tài sản cá nhân (không đầu tư vào công ty) để thanh toán. Các thành viên góp
vốn (nếu có) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi
phần vốn của mình đã góp vào công ty (chế độ trách nhiệm hữu hạn).
Với quy định về thành viên và chế độ trách nhiệm tài sản của công ty hợp
danh cho thấy, công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp bao gồm cả hai loại hình
công ty đối nhân theo pháp luật các nước trên thế giới, đó là công ty hợp danh và
công ty hợp vốn đơn giản (còn gọi là hợp danh hữu hạn). Mặc dù công ty hợp danh
và công ty hợp danh hữu hạn đều được xếp vào loại hình công ty đối nhân, song

19



×