HỨA NHƯ ANH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬT KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
CHẾ TÀI XỬ LÝ ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI VI PHẠM
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH NHẰM BẢO VỆ LỢI
ÍCH NGƯỜI TIÊU DÙNG
HỨA NHƯ ANH
2014 - 2016
HÀ NỘI - 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHẾ TÀI XỬ LÝ ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH NHẰM BẢO VỆ LỢI ÍCH
NGƯỜI TIÊU DÙNG
HỨA NHƯ ANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ NHUNG
HÀ NỘI 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ có tiêu đề “Chế tài xử lý đối với các hành
vi vi phạm pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng” là công
trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn
trích dẫn đầy đủ và trung thực. Kết quả nêu trong luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn
Hứa Như Anh
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo nhiệt
tình và quý báu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhung và tập thể các giảng viên Khoa Đào
tạo Sau Đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn Ban giám hiệu Viện Đại học Mở Hà
Nội, Khoa Luật, Phòng Đào tạo và Khoa Đào tạo Sau Đại học của nhà trường cùng
các giảng viên, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc, tác giả xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ
Nguyễn Thị Nhung - Cô đã định hướng và chỉ dẫn cho tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian có hạn, luận văn của tôi sẽ còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của các Thầy/Cô và quý độc giả.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn
Hứa Như Anh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt
Tên Tiếng Anh đầy đủ
Tên Tiếng Việt đầy đủ
BLDS
Bộ luật dân sự
BLHS
Bộ luật hình sự
LCT
Luật cạnh tranh
CTKLM
Cạnh tranh không lành mạnh
HCCT
Hạn chế cạnh tranh
TTHCCT
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
BTTH
Bồi thường thiệt hại
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
LCT 2004
Luật cạnh tranh Việt Nam 2004
WTO
World Trade Organiztion
TPP
Trans-Pacific
Tổ chức thương mại thế giới
Partnership Hiệp định đối tác xuyên Thái
Agreement
Bình Dương
SHTT
Sở hữu trí tuệ
SHCN
Sở hữu công nghiệp
QLCT
Quản lý cạnh tranh
LTM
Luật thương mại Việt Nam
CQQLCT
Cơ quan quản lý cạnh tranh
USD
United states Dollar
Đô la Mỹ
EVN
Vietnam electricity
Tập đoàn điện lực Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................ Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI
CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT CẠNH TRANHError!
Bookmark
not defined.
1.1. Khái niệm chế tài ....................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Vai trò của chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh ...... Error!
Bookmark not defined.
1.3. Các hình thức chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
....................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3.1. Chế tài hành chính .........................................Error! Bookmark not defined.
1.3.2. Chế tài hình sự ...............................................Error! Bookmark not defined.
1.3.3. Chế tài dân sự ................................................Error! Bookmark not defined.
1.4. Căn cứ áp dụng chế tài đối với các hành vi vi phạmError!
Bookmark not
defined.
1.4.1. Các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh ......Error! Bookmark not defined.
1.4.2. Có thiệt hại xảy ra ..........................................Error! Bookmark not defined.
1.4.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại .................. Error!
Bookmark not defined.
1.4.4. Có lỗi trong cạnh tranh ..................................Error! Bookmark not defined.
1.5. Mối quan hệ giữa chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh với
chế tài của ngành luật khác ................................ Error! Bookmark not defined.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................. Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI VI
PHẠM PHÁP LUẬT CẠNH TRANH DƯỚI GÓC ĐỘ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU
DÙNG ............................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1. Thực tiễn áp dụng các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
dưới góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ..... Error! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng và những bất cập trong việc áp dụng chế tài xử lý hành vi vi phạm
pháp luật cạnh tranh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùngError!
Bookmark
not
defined.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................. Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ TÀI XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP
LUẬT CẠNH TRANH ................................... Error! Bookmark not defined.
3.1. Hoàn thiện về chính sách pháp luật cạnh tranhError!
Bookmark
not
defined.
3.2. Tăng cường thẩm quyền và năng lực thực thi pháp luật của cơ quan quản lý
cạnh tranh ........................................................ Error! Bookmark not defined.
3.3. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnhError! Bookmark not
defined.
3.4. Hoàn thiện pháp luật về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ............. Error!
Bookmark not defined.
3.5. Hoàn thiện quy định về chế tài xử lý vi phạmError! Bookmark not defined.
3.6. Hoàn thiện về xử lý vi phạm ....................... Error! Bookmark not defined.
3.7. Nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về bảo vệ quyền lợi của chính mình
....................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.8. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng
doanh nghiệp và người tiêu dùng ....................... Error! Bookmark not defined.
3.9. Tăng cường khả năng phối hợp giữa cơ quan, Bộ, ngành trong giải quyết vụ
việc vi phạm pháp luật cạnh tranh ...................... Error! Bookmark not defined.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......... Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hội nhập kinh tế toàn cầu, khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), thì cạnh tranh là một quy luật và thuộc tính tất
yếu của quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế. Cạnh tranh là một động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội, song cạnh tranh gay gắt quá sẽ có thể dẫn đến cạnh tranh
không lành mạnh.
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đã xâm hại
quyền tự do kinh doanh, gây hậu quả xấu cho môi trường kinh doanh, cho các
doanh nghiệp làm ăn chân chính và cho người tiêu dùng. Cơ chế thị trường cũng đặt
ra nhu cầu phải thiết lập và duy trì môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng
cho các chủ thể kinh doanh.
Khoản 2, Điều 51, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác
và cạnh tranh theo pháp luật”.
Khoản 2, Điều 4, Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định : “Việc cạnh tranh
phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của
nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của
người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của luật này”.
Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế cạnh tranh (độc
quyền) tiếp tục là vấn đề nóng bỏng và sôi động của khoa học pháp lý nói chung và
khoa học pháp lý kinh tế nói riêng. Không chỉ đối với các Quốc gia đã có nền kinh
tế thị trường phát triển mà còn có ở các Quốc gia mới chuyển đổi sang nền kinh tế
thị trường trong đó có Việt Nam. Những năm qua, ở nước ta vấn đề cạnh tranh đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều giới, nhiều nhà khoa học và có một số công
trình nghiên cứu về vấn đề này lần lượt ra đời.
Pháp luật vừa góp phần bình ổn các quan hệ kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ
kinh tế để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh, ổn định, có tổ chức, theo định
hướng, mục tiêu đã định.
Các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường giữa doanh
nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước; giữa hàng nội và hàng ngoại nhập;
giữa các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế quốc doanh… đã và đang diễn ra không ngừng.
Vì thế, việc xây dựng chế định pháp lý về cạnh tranh, chống cạnh tranh
không lành mạnh và chống độc quyền trong chính thể của hệ thống pháp luật kinh
tế nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt nhằm cải thiện môi trường pháp lý, khuyến
khích hơn nữa các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế
trong và ngoài nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển, sự vận động của các quan hệ kinh tế
càng phong phú, đa dạng thì quy mô và mức độ cạnh tranh không lành mạnh xuất
hiện ngày càng nhiều. Trong khi đó việc thực thi pháp luật cạnh tranh còn chưa thực
sự có hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh còn chưa phát huy hết vai trò của mình
trong việc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở một Quốc gia đang
trên đà phát triển và hội nhập như Việt Nam hiện nay là một vấn đề cần thiết.
Vì những lý do trên đây, tôi chọn đề tài: “Chế tài xử lý đối với các hành vi
vi phạm pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng” làm luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, ở nước ta pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, hạn
chế cạnh tranh ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà luật học. Nhiều
công trình khoa học ở những phạm vi và mức độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến
cơ sở lý luận về cạnh tranh và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, hạn
chế cạnh tranh của một số Quốc gia trên thế giới nêu ra nhu cầu và phương hướng
xây dựng pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh, hạn chế cạnh tranh nói riêng ngày một hoàn thiện hơn.
Trong số các đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này, tiêu biểu phải kể đến một số
tài liệu chuyên khảo và các công trình nghiên cứu khoa học như:
-
Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam (sách tham khảo), nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà Nội
năm 2004 của Tiến sỹ Đặng Vũ Huân;
-
Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh của
Việt Nam, Nguyễn Thị Vân Anh (2011), tạp chí Luật học, tr 3-11;
-
Tăng cường năng lực thực thi pháp luật hạn chế cạnh tranh của cơ quan
cạnh tranh Việt Nam, Phạm Thị Phương Thảo (2013);
-
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết được đăng tải trên các tạp chí như:
“Tạp chí nhà nước và pháp luật; Tạp chí luật học; Tạp chí kinh tế…” Các
công trình nghiên cứu này đã đưa ra những lý luận về cạnh tranh không lành mạnh,
hạn chế cạnh tranh; Tập trung vào phân tích, làm rõ các vấn đề pháp lý đối với từng
nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh; Phân tích các quan điểm, các quy định một số
nước khác nhau để đưa ra các tiêu chí xác định các hành vi cạnh tranh về chống độc
quyền; Đánh giá thực trạng về chế tài trong pháp luật cạnh tranh nhưng chưa đi sâu
vào nghiên cứu chế tài xử lý các hành vi vi phạm và đối chiếu với thực tiễn áp dụng
có bất cập và tồn tại gì để đưa ra hướng giải quyết và hoàn thiện.
Song các công trình nghiên cứu trên đã xây dựng và đóng góp nhiều ý kiến
quan trọng cho việc hoàn thiện chính sách pháp luật về chống cạnh tranh không
lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
Luật cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 3 tháng 12 năm 2004 và có hiệu lực chính thức ngày 01 tháng 07
năm 2005 có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự điều tiết nền kinh tế nước ta theo
cơ chế thị trường.
Tuy nhiên từ đó đến nay, sau 12 năm Luật cạnh tranh có hiệu lực chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về chế tài xử lý các
hành vi vi phạm với những bất cập về mức phạt vi phạm và hình thức xử lý… Từ
đó đưa ra các quy định phù hợp,đồng thời xây dựng nền kinh tế cạnh tranh ngày
càng lành mạnh trong quá trình hội nhập và phát triển.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
chế tài, vai trò của chế tài, các hình thức chế tài, mối quan hệ giữa chế tài xử lý các
hành vi vi phạm luật cạnh tranh với chế tài của ngành luật khác. Cách áp dụng chế
tài xử lý các hành vi vi phạm cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh trong
thực tiễn hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng quy định pháp luật cạnh tranh có
những bất cập gì trong việc áp dụng chế tài xử lý các hành vi vi phạm, từ đó đưa ra
những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về: Chế tài, vai trò của chế, các hình thức chế
tài, thực tiễn áp dụng chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Ngoài
ra, luận văn cũng đánh giá thực trạng trong việc áp dụng chế tài xử lý các hành vi vi
phạm đó vào thực tiễn có bất cập gì ?
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chế tài áp dụng trong Luật cạnh tranh
2004 và các văn bản hướng dẫn kèm theo có liên quan trong vấn đề bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó luận văn cũng tham khảo các hình thức chế tài của
pháp Luật cạnh tranh một số quốc gia khác trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Bên cạnh đó còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản
như phân tích, so sánh, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn để giải quyết các
vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế tài đối với các hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh nhằm bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
Chương 2: Thực trạng về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp
luật cạnh tranh dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh
tranh.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ TÀI
ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT CẠNH
1.1. Khái niệm về chế tài
Theo khoa học pháp lý, chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành của quy
phạm pháp luật, xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi trái
ngược với những quy tắc xử sự đã được ghi trong phần quy định và giả định.
Chế tài là một bộ phận không thể thiếu trong một quy phạm pháp luật, nhằm
bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Chế
tài thể hiện thái độ của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng
phòng ngừa giáo dục để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, góp phần thực hiện mục
đích của nhà nước trong mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an
ninh… từng giai đoạn cụ thể.
Hiện nay, khoa học học pháp lý không đưa ra khái niệm chế tài đối với các
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, nhưng căn cứ vào khái niệm chế tài nói chung
có thể hiểu:
Chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh là những hình thức
trách nhiệm pháp lý được nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh buộc
các chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có các hành vi phản cạnh
tranh gây thiệt hại cho chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác (người tiêu dùng).
Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật cạnh tranh
điều chỉnh, chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh được chia thành
nhiều loại:
Chế tài hành chính, chế tài hình sự và chế tài dân sự. Việc áp dụng chế tài
phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, tính chất của
hành vi phạm pháp luật, thiệt hai do các hành vi phản cạnh tranh gây ra.
Ngoài các đặc điểm chung của chế tài như: Chỉ áp dụng khi có vi phạm pháp
luật xảy ra; Là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm; Chủ thể
vi phạm phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nhất định. Chế tài đối với các hành vi vi
phạm cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam còn có những đặc điểm riêng:
Chủ thể bị áp dụng chế tài là các doanh nghiệp, hiệp hội hành nghề hoạt
động ở Việt Nam.
Về đối tượng chủ thể của quan hệ cạnh tranh được quy định tại Điều 2 Luật
cạnh tranh bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các hiệp hội
hành nghề hoạt động ở Việt Nam, trong tất cả các ngành nghề kinh tế, các khâu, các
công đoạn của quá trình đầu tư. Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh,
nếu các chủ thể đó có dấu hiệu vi phạm các quy định về cạnh tranh thì sẽ bị áp dụng
chế tài xử lý.
Bên bị áp dụng chế tài phải gây ra thiệt hại cho bên kia khi thực hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh.
Bản thân các hành vi vi phạm cạnh tranh đã mang đặc điểm là luôn gây ra
một thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại (thiệt hại ở dạng tiềm năng) cho chủ thể kinh
doanh khác, cho khách hàng, người tiêu dùng đồng thời tác động xấu đến môi
trường kinh doanh và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.
1.2. Vai trò của chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
Thứ nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống
lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp đối
thủ.
Pháp luật cạnh tranh có mục đích đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh tự do trên thị trường. Những thủ pháp bất chính và những biến tướng
của cạnh tranh đều tác động tiêu cực đến thị trường, xâm hại quyền và lợi ích hợp
pháp của các đối thủ kinh doanh khác. Lúc đó cần thiết phải có sự tồn tại của các
chế tài để lập lại trật tự thị trường, giải phóng các doanh nghiệp ra khỏi sự kiềm tỏa
và tác động không lành mạnh của hành vi cạnh tranh.
Pháp luật của Hàn Quốc quy định: “Ủy ban thương mại lành mạnh có thể áp
đặt một khoản tiền phạt đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia vào các hành
vi kinh doanh không bình đẳng vi phạm những quy định về kinh doanh không lành
mạnh” [6. Điều 24-2]. Luật Cạnh tranh thương mại của Thailand cho phép “người
bị hại do những hành vi vi phạm quy định về độc quyền có quyền đệ trình đơn kiện
đòi bồi thường thiệt hại từ người vi phạm” [7. Điều 40].
Luật cạnh tranh của Việt Nam cũng có quy định đảm bảo cho các doanh
nghiệp quyền được khiếu nại đến cơ quan quản lý cạnh tranh về hành vi vi phạm
của đối thủ xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, các quy phạm pháp luật cạnh tranh cùng với những chế tài của nó
được các Quốc gia xây dựng đã tạo điều kiện và cơ chế đảm bảo cho các chủ thể
kinh doanh tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trừng phạt các hành vi
phản cạnh tranh đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp và trật tự
thị trường.
Các chế tài còn có vai trò ngăn chặn các doanh nghiệp thu lợi bất chính bằng
việc thực hiện hành vi phản cạnh tranh, kiềm chế các chủ thể kinh doanh thực hiện
hành vi trái pháp luật, nâng cao nhận thức của họ về “đạo đức kinh doanh”, đảm
bảo chữ “tín” khích lệ sự năng động, tự chủ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
doanh nghiệp.
Thứ hai là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (khách hàng).
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp luôn gắn liền với thị trường
khách hàng, buộc các doanh nghiệp phải luôn xác định: Sản xuất cái gì, sản xuất
cho ai và sản xuất như thế nào ?
Khách hàng thường có xu hướng lựa chọn các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
phù hợp với nhu cầu, sở thích và túi tiền của mình. Điều đó sẽ định hướng cho các
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ. Nói cách
khác, khách hàng là đối tượng được các doanh nghiệp hướng tới để phục vụ và khai
thác.
Để tồn tại bền vững và phát triển, doanh nghiệp luôn tìm mọi cách lôi kéo
khách hàng về phía mình, tranh giành thị trường với các đối thủ khác. Tuy người
tiêu dùng là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp và quan hệ thị trường, là định
hướng cơ bản cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp bao giờ cũng hiểu rõ về sản phẩm và dịch vụ mà mình cung ứng hơn người
tiêu dùng.
Nhiều trường hợp, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng, các doanh
nghiệp đã cung cấp hàng hóa và dịch vụ kém chất lượng; gian dối che lấp những
khiếm khuyết của sản phẩm và dịch vụ hoặc cố tình đưa ra những chỉ dẫn gây nhầm
lẫn… Trong khi người tiêu dùng lại không có đủ cơ sở để khiếu kiện vì giao dịch
hoàn toàn thiết lập một cách tự nguyện.
Vì thế nguyên tắc “trung thực”, “thiện chí” trong giao kết hợp đồng dường
như rất khó để kiểm soát. Lúc đó, đạo đức trong cạnh tranh cùng với những quy
phạm mang tính cấm đoán của nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sự
trung thực của thị trường và lợi ích của người tiêu dùng.
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng pháp luật cạnh tranh ở các nước thuộc
liên minh Châu âu EU đã cho phép không chỉ người bị thiệt hại mà kể cả các chủ
thể khác đều có quyền khởi kiện đối với các hành vi vi phạm lĩnh vực cạnh tranh
điển hình trong đó là pháp luật cạnh tranh Thổ Nhĩ Kỳ. Mọi thỏa thuận, hành vi cấu
kết của các doanh nghiệp, các quyết định và hành vi của các hiệp hội doanh nghiệp
có tác động hoặc ảnh hưởng gây kìm hãm, bóp méo hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị
trường hàng hóa hoặc dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp gây ảnh hưởng đến
quyền lợi ích khách hàng (người tiêu dùng), đều là bất hợp pháp và bị nghiêm cấm.
Khi xảy ra hành vi vi phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu doanh nghiệp
hoặc hiệp hội doanh nghiệp thực hiện các chế tài như chấm dứt hành vi vi phạm,
thông báo về các biện pháp tiến hành hay không tiến hành để duy trì cạnh tranh và
khôi phục lại tình trạng như trước khi có hành vi vi phạm; buộc nộp phạt, bồi
thường thiệt hại…
Hay vấn đề chống độc quyền và cạnh tranh tự do, Luật cạnh tranh thương
mại của Vương quốc Thailand quy định: Trong trường hợp thương nhân vi phạm
các quy định về bán hàng đa cấp bất chính, quảng cáo, gian dối không trung thực…
gây thiệt hại đến người tiêu dùng, cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh có
quyền ra lệnh bằng văn bản hướng dẫn thương nhân tạm hoãn, đình chỉ hoặc điều
chỉnh lại các hoạt động; bị phạt tù không quá 3 năm và bị phạt tiền không quá 6
triệu baht hoặc cả hai.
Đối với những trường hợp vi phạm nhiều lần thì hình phạt nặng gấp đôi;
người bị thiệt hại cũng có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Đối với các
trường hợp tiết lộ thông tin số liệu liên quan đến thương nhân hoặc hoạt động của
thương nhân bất hợp pháp, thì bị phạt tù không quá một năm hoặc phạt tiền không
quá 100.000 baht, hoặc áp dụng cả hai hình thức chế tài đó.
Chế tài của các quy phạm pháp luật cạnh tranh được thiết lập đã góp phần
can thiệp để bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi trái pháp luật cạnh tranh
gây ra.
Thứ ba là công cụ góp phần tạo lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng và công bằng.
Cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công bằng là nội hàm của quyền tự do
kinh doanh của các doanh nghiệp. Pháp luật cạnh tranh nói chung và những thiết
chế chế tài của nó đã bảo vệ thị trường và quan hệ cạnh tranh bằng cách chống lại
các hành vi cạnh tranh trái với quy định pháp luật.
Như vậy, chế tài có vai trò vô cùng quan trọng, nó không chỉ nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tham gia thị trường và người tiêu
dùng, nó còn có chức năng ngăn ngừa và hạn chế vi phạm các quy định về cạnh
tranh, nâng cao đạo đức kinh doanh, ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền tự do
kinh doanh của chủ thể trên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh và các quan hệ
thị trường, đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế… Ở Cộng hòa Czech có
câu thành ngữ: “Laws without punishment are like bells with no clackers” (Pháp
luật mà không đi kèm với hình phạt thì chằng khác nào cái chuông câm) [25, tr. 15].
Hình phạt ở đây chính là chế tài.
1.3. Các hình thức chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh
1.3.1. Chế tài hành chính
Chế tài hành chính là biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với
cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trái pháp luật cạnh tranh xâm phạm đến doanh
nghiệp đối thủ, khách hàng, quyền lợi người tiêu dùng mà chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự. Việc xử phạt vi phạm hành chính này có thể dựa trên luật xử lý
vi phạm hành chính, luật bảo vệ người tiêu dùng và các luật khác.
Theo quy định của Luật cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi
phạm về cạnh tranh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy định trong các quy
phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra
(Điều 117).
Các hình thức xử lý đó đã được Nghị định số 71/2014/NĐ-CP thay thế Nghị
định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi
tiết, bao gồm: Hình thức xử phạt chính là phạt tiền, đồng thời có áp dụng các hình
thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả nếu văn bản có quy định. Các
hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này bao gồm: Tịch thu tang
vật, phương tiện sử dụng để vi phạm; Tước quyền sử dụng hoặc giấy phép, chứng
chỉ hành nghề; Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi; Buộc tiêu hủy
vật phẩm gây hại cho tính mạng, sức khỏe của con người… Với những quy định
trên, biện pháp hành chính đã tạo cơ chế để bảo vệ người tiêu dùng và ngăn chặn
cách hành vi vi phạm trái pháp luật cạnh tranh.
1.3.2. Chế tài hình sự
Chế tài hình sự là một bộ phận của quy phạm pháp luật hình sự, quy định
loại hình phạt và mức hình phạt đối với tội phạm. Trên cơ sở đánh giá tình chất và
mức độ nguy hiểm của loại tội phạm để quy định chế tài tương ứng.
Bản chất của các chế tài hình sự là sự lên án của Nhà nước đối với người đã
có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mục đích của các hình phạt là
trừng phạt người phạm tội, phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội,
giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật.
Quy định pháp luật về xử lý vi phạm được quy định trong Luật cạnh tranh
2004 không có chế tài hình sự. Tuy nhiên nếu hành vi vi phạm cạnh tranh trái với
quy định của pháp luật cạnh tranh xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng về vật
chất lẫn tinh thần có cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định của Bộ luật
hình sự.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam đối với các hành
vi này được quy định tại chương XVIII mục 3 các tội phạm khác xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế tại Điều 217 tội vi phạm về cạnh tranh và chương XIX các tội xâm
hại an toàn công cộng, trật tự công cộng của Bộ luật hình sự 2015.
Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo
không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất
nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra còn có thể áp dụng các biện pháp
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc công việc nhất định.
Đặc điểm chung của các tội phạm nói trên là đều xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế của Nhà nước; trật tự công cộng; lợi ích của người tiêu dùng. Đối tượng của
các tội phạm này đều là hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng. Phần lớn các hành vi
vi phạm trái với luật cạnh tranh xâm phạm đến quyền lợi người tiêu dùng bị coi là
tội phạm khi nó gây hậu quả ở mức độ nghiêm trọng.
1.3.3. Chế tài dân sự
Theo quy định của pháp luật dân sự, người nào gây thiệt hại cho người khác
thì phải bồi thường tương xứng với mức thiệt hại do mình gây ra. Pháp luật dân sự
là luật chung điều chỉnh các quan hệ giao dịch và giải quyết các tranh chấp trên thị
trường.
Quan hệ kinh doanh, thương mại cũng chỉ là một dạng cụ thể của quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng. Vì vậy một trong những nguồn quan trọng của pháp luật
cạnh tranh là pháp luật dân sự. Những quy định của pháp luật dân sự đã hỗ trợ cho
luật cạnh tranh trong việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh và kiểm soát những
hành vi pháp luật cạnh tranh cấm. Chế định bồi thường thiệt hại của pháp luật dân
sự cũng là một trong những nguồn quan trọng của luật cạnh tranh.
Việc quy định chế tài dân sự để bảo vệ người tiêu dùng trong Bộ luật dân sự
là điều hợp lý, phù hợp với lẽ công bằng tự nhiên. Theo đó chế tài về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong pháp luật dân sự là cách thức mà cá nhân bị hại có quyền
yêu cầu được bồi thường thiệt hại mà mình phải gánh chịu do những hành vi gian
dối, lừa đảo… gây ra.
Hình thức yêu cầu bồi thường được thực hiện thông qua phương thức hòa
giải, thương lượng trực tiếp với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc gửi đơn khởi kiện đến Tòa án
để buộc tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm những điều pháp luật cạnh tranh cấm
để thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà mình phải gánh chịu.
Về nguyên tắc áp dụng chế tài dân sự trong luật cạnh tranh, người tiêu dùng
khi có yêu cầu khởi kiện phải nộp đơn đến Tòa án và phải cung cấp chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu đòi hỏi bồi thường của mình. Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ,
Tòa án chỉ có thể buộc bên bị kiện bồi thường thiệt hại khi thỏa mãn các điều kiện
sau:
1) Phải có thiệt hại xảy ra (bao gồm cả thiệt hại về vật chất và tinh thần);
2) Phải có hành vi vi phạm trái pháp luật cạnh tranh;
3) Phải có mỗi quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp
luật cạnh tranh;
4) Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại, về trình tự thủ tục
khởi kiện tại Tòa án tuân theo trình tự và thủ tục chung của pháp luật về tố tụng dân
sự.
1.4. Căn cứ áp dụng chế tài đối với các hành vi vi phạm
1.4.1. Các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
Luật cạnh tranh điều chỉnh hai hành vi chính gây ảnh hưởng đến lợi ích
người tiêu dùng là cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến quyền lợi người
tiêu dùng gồm:
-
Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (chỉ dẫn gây
nhầm lẫn, hàng giả, hàng nhái…);
-
Quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh (Quảng cáo không trung thực, gian
dối, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng);
-
Khuyến mại cạnh tranh không lành mạnh (Tăng giá sản phẩm, khuyến mại
gian dối về giải thưởng đánh lừa vào lòng tham của khách hàng, người tiêu
dùng);
-
Bán hàng đa cấp bất chính (một dạng lừa đảo trong kinh doanh để móc túi
người tham gia vào mạng lưới).
Pháp Luật cạnh tranh cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên
và cho phép cạnh tranh trong kinh doanh nhưng đó là cạnh tranh dựa trên sự bình
đẳng, tự do và tôn trọng lẫn nhau.
Các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh với nhau tức là hướng đến lợi ích
người tiêu dùng. Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hàng hóa, dịch vụ hơn. Chất
lượng của sản phẩm cũng luôn được nâng cấp, cải tiến để theo kịp thị trường, theo
kịp đối thủ từ đó những nhu cầu của người tiêu dùng cũng được thỏa mãn hơn.
Đối với hành vi chống hạn chế cạnh tranh trong việc bảo vệ người tiêu dùng
gồm:
-
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
-
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền;
-
Hành vi tập trung kinh tế.
Theo Luật Cạnh tranh, các hành vi trên bị cấm khi thị phần kết hợp của các
doanh nghiệp vượt quá 30%, hoặc trường hợp tập trung kinh tế, nếu thị phần kết
hợp từ 30% - 50% thì các doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan quản lý cạnh
tranh, nếu thị phần kết hợp trên 50% thì hoạt động tập trung kinh tế đó sẽ bị cấm…
Bởi khi sở hữu tỷ lệ thị phần đó, các doanh nghiệp có thể gây hạn chế cạnh tranh
một cách sâu sắc mà không phải do năng lực tự sản xuất, kinh doanh của họ.
Biểu hiện của hành vi hạn chế cạnh tranh là khống chế thị trường nhằm mục
đích hạn chế đi đến triệt tiêu cạnh tranh, biến dạng thị trường, gây nguy hại không
chỉ cho đối tượng cạnh tranh, xâm phạm đến quyền lợi ích người tiêu dùng.
Luật cạnh tranh cấm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vị trí thống
lĩnh, tập trung kinh tế nhằm mục đích đảm bảo môi trường tự do cạnh tranh cho tất
cả chủ thể tham gia đồng thời cũng là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu
dùng.
Chỉ có cạnh tranh thật sự, thị trường minh bạch mới buộc các doanh nghiệp
phải kinh doanh có hiệu quả thông qua sử dụng tốt các nguồn lực, đầu tư đổi mới
công nghệ, nâng cao năng lực và trình độ quản lý, nâng cao chất lượng hàng hóa,
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
Nếu doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường sẽ gây độc quyền, lạm
dụng vị trí đó gây bất lợi cho người tiêu dùng thông qua việc tăng giá, áp đặt giá,
chất lượng không cao, đưa ra điều kiện khó khăn cho khách hàng.
1.4.2. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của các hành vi trái với pháp luật cạnh
tranh gây ra, tuy nhiên việc xác định thiệt hại để phân biệt thiệt hại do hành vi cạnh
tranh gây ra không phải là đơn giản.
Thiệt hại trong cạnh tranh cũng giống thiệt hại trong dân sự, có thể là thiệt
hại vật chất (cụ thể là xác định bằng tài sản), cũng có thể là thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại đó phải được chứng minh là có thật, đã xảy ra trên thực tế.
Nếu là thiệt hại về vật chất chứng cứ sẽ được thể hiện qua việc doanh thu bị
giảm sút do mất đi một lượng khách hàng thường xuyên; các chi phí để khắc phục
và hạn chế thiệt hại trực tiếp hoặc thiệt hại thương mại (như mất đi thương hiệu).
Đối với người tiêu dùng, thiệt hại về vật chất là thiệt hại về tài sản thực tế
được tính thành tiền mà đối tượng có hành vi trái pháp luật cạnh tranh gây ra cho
người khác. Thiệt hại về vật chất là sự giảm sút về sức khỏe, mất mát về tính mạng,
hình thể của người bị thiệt hại trước những hành vi trái pháp luật cạnh tranh gây ra.
Thiệt hại về tinh thần biểu hiện thông qua việc uy tín của doanh nghiệp bị
giảm sút, doanh nghiệp bị ức chế trong sự kiềm tỏa của các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh của bên vi phạm;
Đối với người tiêu dùng, thiệt hại về tinh thần giống như thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe. Thiệt hại về tinh thần cũng là loại thiệt hại khó xác định mức bồi
thường bởi có thể cùng chịu tác động bởi một hành vi tiêu cực nhưng với mỗi
người, mỗi đặc điểm tâm sinh lý khác nhau có thể sẽ có những tổn thất về tình thần
với mức độ khác nhau.
Ví dụ: Đội thanh tra thị trường phát hiện sử dụng chất cấm trong thực phẩm,
Chất vàng O được dùng để ngâm nhuộm măng có biến chứng di truyền gây ung thư
tủy sương cho các thế hệ sau…
Mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp trên đây sẽ do cơ quan có thẩm
quyền xem xét và quyết định. Đánh giá được thiệt hại là vấn đề rất phức tạp. Bên bị
thiệt hại phải đưa ra đầy đủ chứng cứ để chứng minh về những tác động tiêu cực
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh mà đối thủ đã thực
hiện gây ra bất lợi cho mình trong việc thu lợi nhuận, giảm sút năng lực cạnh tranh,
thu hút khách hàng…
Chứng cứ được quy định trong Luật cạnh tranh phải là “những gì có thật”.
Điều đó đòi hỏi chứng cứ phải có tính khách quan, không giả mạo; Phải có tính hợp
pháp, được thu thập theo trình tự mà pháp luật quy định; Phải có liên quan đến hành
vi cạnh tranh pháp luật cấm của đối thủ cạnh tranh.
1.4.3. Có mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
Nguyên nhân - Kết quả là cặp phạm trù cơ bản trong triết học duy vật biện
chứng. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao
hàm tính tất yếu: Không có nguyên nhân nào không dẫn đến kết quả nhất định và
ngược lại không có kết quả nào không có nguyên nhân. Cụ thể trong việc xác định
các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh gây thiệt hại đến quyền lợi người tiêu
dùng.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực
tiếp, nội tại, không phải là sự suy diễn chủ quan. Các hành vi trái pháp luật cạnh
tranh là những hành vi diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do các hành vi đó gây ra sau
(thông thường các hành vi này diễn ra trong thời gian dài trước khi bị phát hiện và
thiệt hại gây ra).
Bên thực hiện các hành vi cạnh tranh trái pháp luật chỉ phải thực hiện trách
nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh
tranh, cho người tiêu dùng. Do đó khi xác định thiệt hại do các hành vi trái pháp
luật cạnh tranh gây ra phải đặt nó trong mối quan hệ nhân quả với hành vi cạnh
tranh đó.
1.4.4. Có lỗi trong cạnh tranh
Mục đích của Luật cạnh tranh là bảo vệ các tác nhân cạnh tranh và bảo vệ lợi
ích người tiêu dùng. Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi
phạm, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà
họ thực hiện.
Việc xác định lỗi trong cạnh tranh thường phải dựa vào các tập quán nghề
nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan hệ cạnh tranh trên thị
trường.
Luật Thương mại lành mạnh của Hàn Quốc cũng quy định: “Không một
doanh nghiệp hay hiệp hội thương mại nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại lại
có thể tự miễn cho mình một trách nhiệm như vậy bằng cách chứng tỏ mình không
cố tình hay chỉ do sao nhãng mà gây nên hành vi làm người khác bị tổn hại” [6.
Điều 56]. Điều đó có nghĩa là tất cả các chứng cứ phải được chứng minh, kể cả bên
khởi kiện và bên có hành vi vi phạm. Nếu không vụ kiện sẽ thiếu căn cứ xác thực để
ra quyết định. Lỗi trong cạnh tranh có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý.
Theo Pháp luật Việt Nam: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ