Trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
Nguyễn Ngân Giang
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Như Phát
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Tổng thuật một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn pháp lý về an toàn thực phẩm.
Rà soát các hành vi vi phạm về điều kiện an toàn thực phẩm. Đánh giá hoạt động của các
cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị
để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an toàn thực phẩm. Xác định rõ
trách nhiệm pháp lý của các đối tượng trong xã hội đối với các hành vi vi phạm pháp luật
về an toàn thực phẩm. Nâng cao kiến thức về quản lý an toàn thực phẩm.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật kinh tế; An toàn thực phẩm; Hành vi vi phạm pháp
luật
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, tình trạng bùng nổ dân số ngày càng nhanh thì việc an toàn vệ sinh trong ăn
uống và sinh hoạt đặt ra những vấn đề bức thiết, tất cả mọi nhu cầu của người dân đều tăng cao
như là ăn, mặc, ở, sinh hoạt, vui chơi, giải trí, và nhiều nhu cầu khác, đều cần phải được đáp
ứng một cách đầy đủ. Nhưng trong các nhu cầu đó vấn đề ăn uống là một vấn đề được đặt lên
hàng đầu trong các vấn đề cần thiết, cấp bách nói trên. Hiện nay tại nước ta vấn đề an toàn thực
phẩm (ATTP) được xem là một trong các mục tiêu quốc gia. Và làm thế nào để đáp ứng được
đầy đủ nhu cầu ăn uống của con người đã là một cái khó, nhưng ngoài việc đáp ứng đầy đủ về số
lượng cho nhu cầu sử dụng thì việc đảm bảo thực phẩm đạt chất lượng và an toàn cho sức khỏe
của người tiêu dùng lại là một việc không dễ.
Cho đến năm 2003, nước ta vẫn chưa có pháp lệnh hoặc Luật về an toàn thực phẩm, mà
cao nhất mới chỉ là Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (15/4/1999). Tổ chức bộ máy về quản lý,
thanh tra chuyên ngành và kiểm nghiệm còn quá thiếu, các quy định và tiêu chuẩn về an toàn
thực phẩm hầu như chưa có, nhận thức và thực hành của người quản lý lãnh đạo, người sản xuất,
kinh doanh và người tiêu dùng còn rất hạn chế. Đặc biệt, trình độ sản xuất nông nghiệp, trong đó
có ngành trồng trọt và chăn nuôi còn nhỏ lẻ, cá thể, chưa phát triển. Tình trạng ô nhiễm môi
trường đất, nước còn quá trầm trọng. Công nghệ chế biến thực phẩm chưa phát triển, còn thủ
công, mang tính hộ gia đình và cá thể. Nhiều phong tục, tập quán và tiêu dùng còn lạc hậu.
Luật an toàn thực phẩm được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực vào
ngày 1/7/2011 là một bước đột phá của công tác quản lý an toàn thực phẩm. Là công cụ để cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý ATTP và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về
ATTP. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó là những khó khăn và thách thức đặt ra, một trong
những khó khăn đó là việc quản lý các lĩnh vực liên quan đến an toàn thực phẩm, đến xuất nhập
khẩu các hàng hóa là thực phẩm qua biên giới Trước sự phát triển của kinh tế, các doanh nghiệp
thực phẩm cũng như các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm trước mục tiêu lợi nhuận vì
chạy theo đồng tiền mà không màng đến tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. Với những
thủ đoạn ngày càng tinh vi, các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm diễn biến ngày
càng phức tạp. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, Bộ Y tế và các Bộ, ngành
có liên quan đã có những động thái tích cực để kiểm soát tình hình an toàn thực phẩm.
Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm pháp lý đối với các hành
vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm” là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong
khoa học pháp lý hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đã có Tác giả Nguyễn Thúy Vân sinh
viên khóa 32 khoa Luật trường Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu đề tài về “Quản lý nhà nước về
vệ sinh an toàn thực phẩm - Lấy thực tiễn tỉnh Kiên Giang”. Nhưng tác giả chủ yếu chỉ đi sâu
vào vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm chứ không
chuyên sâu vào quản lý nhà nước nên vẫn còn nhiều bất cập trong công tác quản lý, chính vì lý
do đó mà tác giả muốn nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện những thiếu xót về mặt quản lý của nhà
nước, nhằm đóng góp vào phương thức quản lý của cả nước nói chung.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thực hiện Đề tài này, Tác giả đặt ra những mục đích nghiên cứu sau đây:
- Tổng thuật một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn pháp lý về an toàn thực phẩm.
- Rà soát các hành vi vi phạm về điều kiện an toàn thực phẩm.
- Đánh giá hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an
toàn thực phẩm.
- Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các đối tượng trong xã hội đối với các hành vi vi
phạm pháp luật về an toàn thực phẩm.
- Nâng cao kiến thức về quản lý an toàn thực phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên
cứu khoa học khác nhau, trong đó tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Đồng thời sử dụng phổ biến các phân tích luật viết, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp thống kê, phương pháp biện chứng, kết hợp thực tiễn, nhằm để phân tích,
lý giải, chứng minh các vấn đề được nêu ra, trong đó có tổng hợp các bài viết, bài báo cáo khoa
học, các công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nghiên cứu, các cơ sở nghiên cứu và sử
dụng một số tài liệu có liên quan để thực hiện bài viết.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần danh mục từ viết tắt, mục lục, tài liệu tham khảo, thì bố cục nội dung
chính của Luận văn gồm có 3 chương và phần kết luận:
Chương1: Những vấn đề pháp lý chung về an toàn thực phẩm.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về an toàn thực phẩm tại Việt Nam.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Khái niệm về thực phẩm và an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm thực phẩm
“Thực phẩm là những sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã qua sơ
chế, chế biến, bảo quản. Khái niệm thực phẩm này không bao gồm thuốc dùng cho người, các
chất gây nghiện và thuốc lá”.[10]
1.1.2. Khái niệm an toàn thực phẩm
“An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại cho sức khỏe và tính
mạng con người”.[10]
1.2. Một số khái niệm liên quan an toàn thực phẩm
1.2.1. Các loại thực phẩm
Ngày nay với sự phát triển của xã hội thì thực phẩm xuất hiện ngày càng đa dạng, thực
phẩm không chỉ gói gọn trong các loại thực phẩm đơn giản mà nó đã được tinh chế thành rất
nhiều loại với nhiều mẫu mã đa dạng và tiện lợi cho người tiêu dùng. Đặc biệt phải kể đến như là
thực phẩm bao gói sẵn: có rất nhiều loại thực phẩm bao gói sẵn, có thứ có thể ăn ngay được như
các loại bánh, , có loại phải qua chế biến nhưng phần lớn nếu sử dụng chúng thì tiết kiệm được
thời gian rất nhiều mà vẫn đảm bảo được chất dinh dưỡng. Vì vậy mặc dầu việc sử dụng thực
phẩm bao gói sẵn là một nhu cầu không thể thiếu nhưng người tiêu dùng nên cận thận với loại
hàng hóa này để bảo vệ sức khỏe.
1.2.2. Các khái niệm truyền thống liên quan đến thực phẩm
Ngộ độc thực phẩm là tình trạng bệnh lý, xảy ra đột ngột, do hấp thụ thực phẩm bị ô
nhiễm hoặc có chứa chất độc”.
Sự cố về an toàn thực phẩm
“Sự cố về an toàn thực phẩm là tình huống ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng con người
xảy ra do ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm hoặc các tình huống khác phát sinh từ
thực phẩm”.[10]
Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm
“Điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm là những quy chuẩn kỹ thuật và những quy định
khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và hoạt động sản xuất, kinh
doanh thực phẩm, do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo
đảm thực phẩm an toàn đối với sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng thư
̣
c phâ
̉
m.”
1.2.3. Một số khái niệm mới được quy định trong Luật an toàn thực phẩm năm 2010
Thực phẩm chức năng
Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ một hoặc nhiều chức năng của cơ thể
người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ mắc bệnh, bao
gồm: thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học.
Hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
Hiện tại chưa có một văn bản cụ thể nào quy định về các hành vi vi phạm pháp luật về an
toàn thực phẩm mà chỉ được quy định chung trong các văn bản như Bộ luật hình sự (Điều 157,
158, 168, 187, 188 và Điều 244 ); Nghị định số 45 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
y tế (từ Điều 15 đến Điều 19);
Hiện nay, Bộ Y tế cũng đang dự thảo một Nghị định riêng về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và đang trình Chính phủ xem xét, dự kiến ban hành vào tháng
8/2012. Theo đó, các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm được hiểu là những hành
vi do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của an toàn thực phẩm
1.3.1 Vai trò của an toàn thực phẩm
Mọi người chúng ta đều nhận thấy tầm quan trọng của việc sử dụng thực phẩm, đó là nhu
cầu hàng ngày, rất cấp bách và phải đáp ứng. Nhưng nếu chúng ta sử dụng thức ăn không đảm
bảo vệ sinh thì nguồn nguy hại đó sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta, và bệnh có thể
vào từ "miệng". Việc đảm bảo an toàn thực phẩm là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách
hiện nay, muốn đảm bảo được sự sống và phát triển mạnh khỏe thì phải đảm bảo được an toàn
thực phẩm cho người sử dụng, có thể nói sức khỏe đóng vai trò quan trọng đối với con người bao
nhiêu thì an toàn thực phẩm đóng vai trò bấy nhiêu đối với việc đảm bảo sức khỏe.
1.3.2. Ý nghĩa của việc đảm bảo an toàn thực phẩm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng
ATTP không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe chúng ta mà còn liên quan chặt chẽ
đến năng suất, chất lượng lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tác động trực tiếp đến nguồn
lực và môi trường đầu tư phát triển kinh tế - văn hóa, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói, giảm
nghèo của cả một thế hệ tương lai nếu như không đảm bảo tốt ATTP. Chính vì lẽ đó mà việc
đảm bảo ATTP có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh
quốc phòng.
1.4. Vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, người tiêu dùng, người kinh doanh, nhà sản xuất,
chế biến thực phẩm
1.4.1. Vai trò của Nhà nước
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời điều chỉnh về an toàn thực phẩm; ban
hành các quy chuẩn về kỹ thuật, chất lượng và các quy chuẩn cần thiết cho công việc sản xuất
thực phẩm an toàn; quy định các hình thức kỷ luật, xử phạt, khen thưởng hợp lý làm cơ sở cho
người dân thực hiện, cho nhà sản xuất làm theo, đồng thời tạo ra một hành lang pháp lý vững
chắc cho công tác quản lý.
1.4.2. Vai trò người tiêu dùng
Ngoài việc quản lý của nhà nước bằng các biện pháp thanh, kiểm tra, giám sát và xử lý
các hành vi vi phạm thì người tiêu dùng cũng là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc đảm
bảo ATTP. Vì người tiêu dùng là người trực tiếp sử dụng thực phẩm, nếu người tiêu dùng nhận
thức được vai trò của mình là đảm bảo tốt vấn đề ATTP không để xảy ra tình trạng NĐTP thì sẽ
góp phần giúp nhà nước quản lý tốt vấn đề này.
1.4.3. Trách nhiệm của người tiêu dùng thực phẩm
Người tiêu dùng là người có trách nhiệm và thực hiện những phán quyết cuối cùng về
chất lượng sản phẩm. Trên thị trường, nơi có sự cạnh tranh buôn bán lành mạnh thì người tiêu
dùng sẽ là người quyết định xem sản phẩm có là thứ họ muốn hoặc cần không và giá của sản
phẩm có chấp nhận được không. Ở vào vị trí cuối cùng của dịch vụ lưu thông, phân phối, bản
thân người tiêu dùng không có khả năng thực hiện được vấn đề kiểm tra chất lượng thực phẩm.
1.4.4. Trách nhiệm của nhà sản xuất chế biến thực phẩm
Điều quan trọng là sản phẩm xuất xưởng phải luôn đáp ứng được yêu cầu cao về tiêu
chuẩn chất lượng và đủ nhu cầu cho người tiêu dùng. Có rất nhiều yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới
sự thể hiện chất lượng sản phẩm của người sản xuất và cũng có nhiều biện pháp kiểm tra khách
quan cần được sử dụng, để cung cấp các số liệu cần thiết nhằm hỗ trợ những yêu cầu đánh giá
xem xét chủ quan về chất lượng trong quá trình chế biến sản xuất.
1.4.5. Trách nhiệm của người kinh doanh
Người kinh doanh cung cấp nguyên liệu cho sản xuất, thực phẩm có thể là nông dân hay
nhà kinh doanh thương mại hoặc nhà sản xuất. Một số nhà sản xuất còn cung cấp các loại phụ
gia thực phẩm như hương liệu, phẩm màu, chất nhũ hóa, chất ổn định và các acid thực
phẩm…Việc xác định chất lượng của các chất phụ gia rất cần được kiểm tra một cách khách
quan về độ tinh khiết, ảnh hưởng tác động độc hại và giá cả…Người nông dân cung cấp các loại
thịt, rau, quả… làm nguyên liệu cho sản xuất thực phẩm. Như đã trình bày ở trên, việc kiểm tra
chất lượng nguyên liệu thường theo ý định chủ quan.
Người kinh doanh thương mại dịch vụ lưu thông thực phẩm cũng rất cần có sự hiểu biết
đầy đủ về các thực phẩm biến chất, hư hỏng, dễ gây độc hại để kiểm tra và cung cấp nguyên liệu
tốt nhất cho nhà sản xuất
1.5. Một số hành vi bị cấm và sẽ bị cấm về an toàn thực phẩm
1.5.1. Các hành vi bị cấm
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, các hình thức vi phạm pháp luật về an toàn thực
phẩm diễn ra ngày càng tinh vi, vì vậy Luật an toàn thực phẩm ra đời đã có các điều khoản
nghiêm cấm các hành vi vi phạm pháp luật trong: Trong sản xuất - kinh doanh thực phẩm;Trong
chế biến thực phẩm; Trong vận chuyển thực phẩm; Nhóm nhập khẩu, xuất khẩu thực phẩm;
Nhóm quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm…. Nếu tổ chức, cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định
của pháp luật.
1.5.2. Các hành vi sẽ bị cấm
Hiện nay ngoài các hành vi bị nghiêm cấm bởi Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm số
12 năm 2003 của UBTVQH thì vẫn còn một số các hành vi vẫn chưa được điều chỉnh, và để kịp
thời bổ sung hoàn thiện pháp luật thì Luật an toàn thực phẩm năm 2010 ra đời đã nghiêm cấm
những hành vi đó.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng an toàn thực phẩm tại Việt Nam
2.1.1 Hiện trạng ATTP ở Việt Nam
Bếp ăn tập thể, bữa ăn công nghiệp
Bếp ăn tập thể trong các trường học, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà máy, công
trường ngày càng tăng, nhưng mới chỉ có 52,6% các bếp ăn này đạt yêu cầu về điều kiện an toàn
thực phẩm. Phần lớn chưa được cấp giấy phép đủ điều kiện ATTP theo quy định của pháp luật.
Từ năm 2000 đến năm 2006 có 328 vụ ngộ độc thực phẩm tại các khu công nghiệp, chiếm 24,2%
tổng số vụ NĐTP và 82,6% tổng số người bị NĐTP. Đến năm 2011, NĐTP tại bếp ăn tập thể
vẫn diễn biến phức tạp: số vụ tăng 6 vụ (26,1%), số mắc tăng 575 người (27,6%) tuy
không có ca nào tử vong.[2]
Việc trồng rau quả, nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản
Hiện nay, chúng ta chưa kiểm soát được vấn đề này, từ môi trường nuôi trồng đến việc
chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh, thu hoạch và chế biến. Tình trạng dư lượng hóa chất bảo vệ thực
vật (HCBVTV), kháng sinh và hormone đang là mối lo ngại của toàn xã hội, ảnh hưởng tới phát
triển kinh tế, thương mại và an sinh xã hội. Nhiều loại thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) tìm thấy
trong các loại rau quả như Pyrethroid, Fipronil, Dithiocarbamate, Carbendazim, Endosulfan,
Methamidophos. Dư lượng thuốc BVTV trong một số loại rau có xu hướng tăng.
Vấn đề kiểm soát thực phẩm qua biên giới
Thực phẩm qua biên giới chưa kiểm soát được, thực phẩm nhập lậu còn khá phổ biến như
rau quả, gia cầm, trứng, thủy sản, thịt và phủ tạng gia súc, thuốc lá, rượu Đặc biệt các loại hóa
chất bảo vệ thực vật (HCBVTV), thuốc tăng trọng, thuốc diệt chuột, các phụ gia cấm còn được
nhập lậu khá phổ biến. Các cơ quan kiểm tra tại cửa khẩu chưa được thống nhất về tổ chức; thủ
tục, nội dung kiểm tra, còn chồng chéo và còn bỏ trống nhiều mặt hàng thực phẩm không được
kiểm tra.
2.1.2. Nguyên nhân gây mất an toàn thực phẩm
Thực phẩm nhiễm vi sinh độc hại là một nguyên nhân chính yếu gây nhiều trường hợp
ngộ độc thực phẩm tập thể.
Hoá chất, phụ gia dùng trong nông thuỷ sản, thực phẩm có thể ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ người tiêu dùng
An toàn thực phẩm và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật.
Việc kiểm soát an toàn thực phẩm đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là một nhu cầu bức
thiết, không thể không triển khai. Để triển khai được hoạt động này có hiệu quả đòi hỏi phải có
một hệ thống pháp luật đầy đủ và phải đáp ứng được các yêu cầu:
(1) Yêu cầu bảo đảm sức khỏe nhân dân và phát triển giống nòi:
(2) Phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và khu vực:
(3) Đáp ứng yêu cầu hội nhập và xuất khẩu:
(4) Đảm bảo tính bao phủ toàn bộ chuỗi thực phẩm “từ trang trại đến bàn ăn
(5) Đảm bảo kiểm soát bền vững các yếu tố nguy cơ vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2. Pháp luật an toàn thực phẩm tại Việt Nam
2.2.1. Một số văn bản pháp luật về an toàn thực phẩm
Năm 2006, ban hành Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH11 ngày
29/6/2006 và Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 1/8/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Năm 2007, ban hành Luật chất lượng, sản phẩm hàng hóa số 05/2007/QH12 ngày
21/11/2007 và Nghị định 132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật chất lượng và sản phẩm hàng hóa.
Mới đây nhất là việc Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm.
2.2.2. Các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
Vi phạm quy định về bảo đảm an toàn đối với sản phẩm thực phẩm
Vi phạm quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh
thực phẩm
Vi phạm quy định về điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm nhập khẩu, thực phẩm
xuất khẩu
Vi phạm quy định về quảng cáo thực phẩm; thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn
thực phẩm; ghi nhãn thực phẩm
Vi phạm quy định về kiểm nghiệm thực phẩm, phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục sự
cố về an toàn thực phẩm; truy xuất nguồn gốc, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm không an toàn
2.2.3. Xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
2.2.3.1 Về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành chính
Công tác kiểm tra, thanh tra về ATTP luôn được coi là một hoạt động quan trọng và ưu
tiên của công tác quản lý nhà nước về ATTP. Các thành tựu đạt được trong thời gian qua trong
công tác này có sự đóng góp đặc biệt tích cực của hoạt động thanh tra, kiểm tra. Hoạt động thanh
tra, kiểm tra được tiến hành đồng loạt ở cấp Trung ương và địa phương, tiến hành định kỳ vào
các đợt cao điểm như mùa lễ hội, bão lụt hay đột xuất như dịch bệnh, các sự cố đặc biệt như sữa
nhiễm melamine vừa qua
2.2.3.2. Về xử lý hình sự
Việc xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm pháp luật về ATTP còn ít (trong 5 năm 2004-
2008 toàn ngành tòa án đã thụ lý 160 vụ, chiếm 0,05% tổng số vụ án hình sự đã thụ lý) [1]. Thực
tiễn công tác xét xử vẫn tồn tại một số bất cập như căn cứ để chuyển các vi phạm pháp luật sang
xử lý hình sự; căn cứ xác định mức thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dùng để
khởi tố các vụ vi phạm pháp luật hình sự còn chưa được quy định cụ thể nên một số vụ vi phạm
không đủ căn cứ để chuyển sang xử lý hình sự.
2.2.3.3. Những tồn tại trong kiểm tra, thanh tra, xử lí vi phạm pháp luật về ATTP
Việc xử lý các vi phạm còn chưa kiên quyết, nhất là ở ở tuyến xã hầu hết không xử
phạt mà chủ yếu chỉ là nhắc nhở (số cơ sở vi phạm không bị xử lý trong tháng hành động năm
2012 chiếm 71,39% số cơ sở vi phạm).
Nhận thức của một số người dân thực hiện các quy định về ATTP còn hạn chế, nhất là
các đối tượng bán hàng rong.
Nhận thức, thực hành ATTP của doanh nghiệp, người tiêu dùng còn thấp, còn tồn tại
nhiều phong tục, tập quán sinh hoạt, canh tác lạc hậu nguy cơ ô nhiễm thực phẩm và bệnh truyền
qua thực phẩm.
2.3. Đánh giá về công tác tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP
2.3.1. Kết quả đạt được
Công tác quản lý và bảo đảm ATTP có tiến bộ rõ rệt. Điều kiện ATTP tại các cơ sở sản
xuất kinh doanh thực phẩm bước đầu được cải thiện hơn. ATTP của thực phẩm chế biến công
nghiệp được kiểm soát tốt. Ô nhiễm vi sinh vật trong một số sản phẩm thực phẩm tươi sống như
rau, thịt, thủy sản có chiều hướng giảm; số người bị ngộ độc thực phẩm trong một năm có xu
hướng giảm dần; tỷ lệ được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP của bếp ăn tập thể, cơ sở
kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố có tiến bộ.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế
Tổ chức bộ máy cơ quan chuyên ngành quản lý ATTP còn chưa hoàn thiện. Lực lượng
cán bộ quản lý, thanh tra, kiểm tra ATTP còn thiếu đáng kể, lại phân tán theo nhiều nhiệm vụ
quản lý khác nhau như thanh tra chuyên ngành về ATTP, thanh tra việc thực hiện pháp luật về
bảo vệ và kiểm dịch thực vật, về thú y ; việc xử lý vi phạm chưa kiên quyết.
Phân công nhiệm vụ quản lý giữa các bộ càn chưa rõ ràng; công tác phối hợp giữa các cơ
quan về quản lý ATTP ở Trung ương và địa phương còn chưa tốt, chưa đảm bảo quản lý một
cách liên thông theo chuỗi cung cấp thực phẩm.
2.3.3 Nguyên nhân
Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý ATTP và trách nhiệm của người sản xuất, kinh
doanh thực phẩm đối với cộng đồng còn chưa cao, một mặt là do người sản xuất, kinh doanh
chạy theo lợi nhuận trước mắt, coi thường tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng; mặt khác do
việc xử lý vi phạm còn nương nhẹ, chưa kiên quyết.
Do trình độ sản xuất còn chưa cao, tập quán ăn uống, trình độ dân trí, mức thu nhập
người dân còn chưa cao nên việc bảo đảm ATTP còn gặp nhiều khó khăn.
Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
3. 1. Giải pháp
3.1.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách
Triển khai thực hiện Luật an toàn thực phẩm và Nghị định số 38/2012/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 25 tháng 4 năm 2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm
Nhanh chóng ban hành Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an toàn thực phẩm để có biện pháp răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn
thực phẩm.
Sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn; sửa đổi, bổ sung
những quy định không còn phù hợp; bổ sung những quy định còn thiếu
3.1.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý của các cấp chính quyền; gắn kết
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách
pháp luật về quản lý ATTP.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về ATTP; trong khi
chưa kiện toàn được hệ thống thanh tra chuyên ngành về ATTP, cần có cơ chế phối hợp hoạt
động giữa lực lượng thanh tra của các bộ và với lực lượng quản lý thị trường.
3. 1. 3. Nhóm giải pháp về nguồn lực
Bố trí đủ nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn phục vụ công tác quản lý nhà
nước về ATTP.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Quốc hội
Tăng cường công tác giám sát việc thực hiện các văn bản pháp luật về ATTP và xử lý các
kiến nghị giám sát.
Chỉ đạo các cơ quan rà soát các văn bản QPPL có liên quan tới quản lý ATTP còn chồng
chéo, mâu thuẫn, không còn phù hợp hoặc còn thiếu để quyết định việc sửa đổi, bổ sung theo
thẩm quyền hoặc trình Quốc hội quyết định.
3.2.2. Đối với Chính phủ
Phân công rõ trách nhiệm và có cơ chế phối hợp giữa các Bộ có liên quan ở những khâu
có sự đan xen giữa các công đoạn để bảo đảm quản lý ATTP theo chuỗi thực phẩm. Đối với các
loại thực phẩm mà sự phân biệt giữa các công đoạn của chuỗi thực phẩm không rõ ràng (như rau
quả tươi, sữa, thịt chó ) thì cần quy định phân công cụ thể các bộ quản lý đối với từng loại thực
phẩm.
Phân cấp mạnh cho địa phương đồng thời với việc đầu tư nguồn lực để bảo đảm hiệu quả
quản lý trong một số hoạt động, nhất là phân cấp trong việc cấp giấy chứng nhận công bố tiêu
chuẩn sản phẩm, giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP, kiểm nghiệm, thử nghiệm,
3.3.3. Đối với các cơ quan tư pháp
Tăng cường năng lực điều tra, khởi tố các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
ATTP; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP.
3.3.4. Đối với các Bộ có liên quan đến quản lý ATTP
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản theo thẩm quyền trong lĩnh vực được phân
công quản lý; ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về ATTP thuộc phạm vi quản lý.
3.3.5. Kiến nghị đối với UBND cấp tỉnh
Ban hành kịp thời văn bản QPPL phù hợp với điều kiện địa phương và tổ chức tốt việc
triển khai thực hiện; xác định rõ chỉ tiêu, nhiệm vụ quản lý chất lượng ATTP trong kế hoạch hoạt
động hàng năm, trong đó có phương án ứng phó kịp thời khi xảy ra NĐTP quy mô lớn trên địa
bàn quản lý.
3.3.6. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần tăng
cường trách nhiệm giám sát hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện chính
sách pháp luật về quản lý ATTP; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện pháp luật về quản lý
ATTP.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu tổng quan về đề tài “Trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm”, cho thấy tình trạng vệ sinh an toàn thực phẩm hiện
nay đã và đang là vấn đề hết sức cấp thiết của xã hội, đòi hỏi sự tham gia của tất cả các cấp, các
ngành và trách nhiệm đảm bảo an toàn thực phẩm không chỉ là của nhà nước mà còn là trách
nhiệm của người tiêu dùng, người tham gia sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Cho đến năm 2003, Việt Nam vẫn chưa có Pháp lệnh hoặc Luật về an toàn thực phẩm,
mà cao nhất mới chỉ là Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (15/4/1999). Tổ chức bộ máy về quản
lý, thanh tra chuyên ngành và kiểm nghiệm còn quá thiếu, các quy định và tiêu chuẩn về an toàn
thực phẩm hầu như chưa có, nhận thức và thực hành của người quản lý lãnh đạo, người sản xuất,
kinh doanh và người tiêu dùng còn rất hạn chế. Đặc biệt, trình độ sản xuất nông nghiệp, trong đó
có ngành trồng trọt và chăn nuôi còn nhỏ lẻ, cá thể, chưa phát triển. Nhiều phong tục, tập quán
và tiêu dùng còn lạc hậu.
Luật an toàn thực phẩm được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010 và có hiệu lực vào
ngày 1/7/2011 là một bước đột phá của công tác quản lý an toàn thực phẩm. Là công cụ để cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý ATTP và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về
ATTP.
References
1. Bộ Y tế (2009), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm (giai đoạn 2004-2009).
2. Bộ Y tế (2012), Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia Vệ sinh an toàn thực phẩm năm
2011 và triển khai kế hoạch năm 2012.
3. Bộ Y tế (2012), Báo cáo tình hình ngộ độc thực phẩm và công tác phòng chống ngộ độc
thực phẩm năm 2011 và định hướng kế hoạch năm 2012.
4. Bộ Y tế, Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT ngày 04/4/1998 về việc ban hành “Danh mục
tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực, thực phẩm”.
5. Bộ Y tế, Quyết định số 4196/1999/QĐ-BYT ngày29/12/1999 về việc ban hành “Quy định
về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.”
6. Chính phủ (2012), Nghị định của chính phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật an toàn
thực phẩm số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012.
7. Chính phủ (2009), Báo cáo về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng
vệ sinh an toàn thực phẩm.
8. Chính phủ (2008), Đặc san tuyên truyền pháp luật số 12/2008, chủ đề Pháp luật về vệ sinh
an toàn thực phẩm.
9. Chính phủ (2005), Nghị định của chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế
10. Quốc hội (2010), Luật an toàn thực phẩm số 55/2010/QH12 ngày 17 tháng 6 năm 2010.
11. Quốc hội (2005), Bộ luật hình sự 2005.
12. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2008), Báo cáo kết quả giám sát thực hiện chính sách pháp
luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm.
13. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm.