Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn tại huyện mộc châu tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 113 trang )

LƯỜNG TẾN QUYNH

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

TÊN ĐỀ TÀI
Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
từ thực tiễn tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LƯỜNG TIẾN QUYNH

2014 - 2016

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
TÊN ĐỀ TÀI

Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
từ thực tiễn tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LƯỜNG TIẾN QUYNH


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN VĂN PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Lường Tiến Quynh

3


LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy, cô giáo Khoa sau đại học - Viện Đại học mở Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban nhân dân huyện Mộc Châu, Thanh tra
huyện Mộc Châu, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mộc Châu, đã giúp đỡ,
tạo điều kiện và cung cấp những số liệu, tài liệu cần thiết để nghiên cứu và hoàn

thành Luận văn này. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Văn Phương đã dành nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn tận tình, chỉ
bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề
tài và hoàn chỉnh bản Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích
lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong cuộc sống cũng như trong quá trình
học tập, nghiên cứu!
Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2016
Tác giả Luận văn: Lường Tiến Quynh

4


MỤC LỤC
Trang

Mở đầu ……………………………………..…………………………………..

1

Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ĐẤT ĐAI
1.1. Một số lý luận về khiếu nại, tố cáo……………………………………….….. 8
1.2. Quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất
đai........................................................................................................................... 11
1.3. Kết luận chương I…………………………………………………………..

43

Chương II: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ

CÁO ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYÊN MỘC CHÂU TỈNH SƠN LA
2.1. Khái quát về tình hình quản lý và sử dụng đất, khiếu nại tố cáo về đất đai trên
địa bàn huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La ………………………………………….

44

2.2. Đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai trên địa
bàn huyện Mộc Châu.……………........................................................................ 69
2.3. Kết luận chương II……………..…………………………………………...

81

Chương III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MỘC
CHÂU TỈNH SƠN LA
3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai
……………………………………………….…………………………………... 82
3.2. Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất
đai ………………………………………………………………………….......... 92
3.3. Kết luận chương III…………..………………………………………….. ... 98
Kết luận………………………………………………………………..……....

100

Danh mục tài liệu tham khảo……………………………….………….………

102

5



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa.
CNXH: Chủ nghĩa xã hội.
HU-HĐND-UBND: Huyện ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân.
HĐND-UBND: Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân.
HĐND: Hội đồng nhân dân.
UBND: Ủy ban nhân dân.
CNQSD: Chứng nhận quyền sử dụng.
KN, TC: Khiếu nại, tố cáo.

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại, tố cáo về đất đai là một hiện tượng xã hội gắn liền với lịch sử ra
đời của Nhà nước và pháp luật. Trong tiến trình phát triển đó, tùy mức độ khác nhau
nhưng Nhà nước luôn là chủ thể có nghĩa vụ tiếp công dân và giải quyết các khiếu
nại, tố cáo của công dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền dân sự - chính trị cơ bản của
công dân, có ý nghĩa quan trọng trong hệ thống các quyền cơ bản của công dân. Đảm
bảo cho công dân thực hiện quyền này chính là hình thức chủ yếu để nhân dân trực tiếp
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Sau khi giành chính quyền, quyền khiếu nại,
tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật của
Nhà nước ta. Điều này thể hiện rõ nguyên tắc: “Quyền lực nhân dân” trong công cuộc
đổi mới sâu sắc và toàn diện hiện nay do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đó chính là
phương hướng, mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đang nỗ lực hướng tới. Không thể có
dân chủ, không thể có công bằng thật sự nếu như không thường xuyên quan tâm mở

rộng sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua
việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, nền kinh tế nước ta từng bước phát triển, đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Quyền dân chủ của nhân dân không ngừng được
phát huy. Đặc biệt sự mở rộng dân chủ trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội đã tạo ra bầu không khí dân chủ thực sự trong các tầng
lớp xã hội, mở ra con đường cho nhân dân lao động vươn tới mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Một trong những vấn đề bức xúc mà các cấp, các ngành tập trung giải quyết
có hiệu quả các khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong thời gian qua các cấp, các
ngành đã tập trung chỉ đạo và tổ chức tiếp công dân, xem xét giải quyết các khiếu
nại, tố cáo của công dân và đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, nhiều vụ việc khiếu

7


nại, tố cáo của công dân đã được giải quyết, xem xét kịp thời, đúng chính sách, pháp
luật, qua đó góp phần vào việc duy trì trật tự, kỷ cương, pháp luật, giữ vững sự ổn
định an ninh chính trị - xã hội của Đất nước.
Cùng với những thành tựu đạt được về kinh tế, xã hội, cả nước và tỉnh Sơn
La nói chung, huyện Mộc Châu nói riêng đã có nhiều đổi mới, từng bước hoàn thiện
cơ chế chính sách, pháp luật để tổ chức thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước được đảm bảo,
pháp chế xã hội chủ nghĩa được thực hiện nghiêm minh, giữ vững lòng tin của dân
đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên bên cạnh những thành quả đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại
yếu kém ảnh hưởng đến quyền dân chủ của công dân, tình hình khiếu nại, tố cáo về
đất đai hiện nay vẫn chưa có chiều hướng giảm, số người đi khiếu nại, tố cáovề lĩnh

vực đất đai còn nhiều, tính chất khiếu nại, tố cáo ngày càng gay gắt và phức tạp,
nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo đất đai tồn đọng và vượt lên cấp trên; công tác tiếp
công dân ở địa phương còn là hình thức; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh
vực đất đai còn chậm, thiếu chặt chẽ, thiếu đồng bộ; một số vụ việc đã được giải
quyết đúng chính sách, pháp luật nhưng không được tổ chức thi hành; tình trạng vi
phạm pháp luật còn phổ biến.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do: Một mặt công dân chưa hiểu rõ về
quyền và nghĩa vụ của mình trong khiếu nại, tố cáo. Mặt khác các cấp các ngành
chưa tuân thủ đúng thẩm quyền, trách nhiệm của mình theo đúng quy định của pháp
luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất hiện nay là
hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn chưa
đảm bảo tính tính toàn diện, chặt chẽ và đầy đủ. Đó là những vấn đề cần được
nghiên cứu và giải quyết một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn hiện nay.

8


Vì những lý do đó, tôi chọn đề tài: “Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực đất đai từ thực tiễn tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La” làm chuyên đề tốt nghiệp
thạc sỹ Luật kinh tế.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử hình thành và phát triển nhân loại nói chung và lịch sử phát triển
dân tộc Việt Nam nói riêng, các nhà kinh điển triết học, chính trị học và các nhà khoa
học xã hội tuy đứng trên những quan điểm khác nhau để nghiên cứu về quyền con
người, đó là quyền được sống, được tự do, bình đẳng, dân chủ cho đến khi Nhà nước
xuất hiện cùng với pháp luật được ra đời. Quyền con người được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật, trong các tuyên bố của Cách mạng tư sản phương Tây. Năm 1689,
Nghị viện Anh đã thông qua Luật về con người. Hiến pháp năm 1787 của Hoa Kỳ đã
liệt kê danh mục các quyền của con người: Quyền tự do báo chí; quyền bất khả xâm
phạm về thân thể và chổ ở; cấm bắt người, khám người trái phép; quyền tự do tôn giáo,

tín ngưỡng. Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII quyền con người được coi là quyền
tự nhiên. Đầu thế kỷ XX, quyền con người được quốc tế hoá, được ghi nhận bằng văn
bản pháp luật quốc tế. Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tuyên
ngôn về quyền con người.
Trong chế độ Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta, quyền con người nói chung
và quyền khiếu nại, tố cáo của công dân nói riêng không những được Nhà nước
ghi nhận, mở rộng mà Nhà nước còn tạo điều kiện để nhân dân dễ dàng thực hiện,
từ việc quy định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong tiếp nhận và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đến việc nghiên cứu thiết lập cơ chế tái phân
cấp hành chính, mở ra cho người dân có khả năng khởi kiện các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan công quyền tại Toà án. Quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân ngày càng được đảm bảo thực hiện, quá trình giải quyết ngày càng
công khai, dân chủ. Tuy nhiên, những gì chúng ta đang cố gắng thực hiện và kết quả
đạt được như mong muốn vẫn còn là một khoảng cách, số lượng các vụ việc khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh ngày một tăng. Việc giải quyết chưa đat hiệu quả

9


mong muốn là điều đáng phải suy nghĩ. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên
nhân cả khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan. Đó là
tình trạng thiếu trách nhiệm trong hoạt động công vụ nhất là các lĩnh vực đụng
chạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phương thức giải quyết
khiếu kiện mà chúng ta đang áp dụng thực ra chưa thích hợp và hiệu quả, làm cho
vụ việc kéo dài, không có điểm dừng là thực trạng đáng báo động hiện nay.
Đề cao trách nhiệm và thái độ phục vụ của nhân dân đang là đòi hỏi bức
bách của quá trình cải cách nền hành chính và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo
định hướng pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Đứng trên phương diện đó thì cần phải
thấy rằng: Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là trách nhiệm của toàn bộ bộ
máy Nhà nước, thậm chỉ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, quyền khiếu nại, tố cáo liên quan chặt chẽ đến các quyền và nghĩa
vụ khác của công dân, chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các quyền cơ bản của
công dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống chính trị xã hội. Công dân thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo là điều kiện để các quyền khác được ghi nhận không bị
xâm hại, hay nói một cách khác, bất kỳ một vi phạm nào đối với quyền và nghĩa vụ
của công dân đều có thể dẫn đến việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
của mình. Trên cơ sở đó, việc xác định một cơ chế và đưa ra những giải pháp cụ
thể nào đó nhằm giải quyết có hiệu quả những khiếu nại, tố cáo sẽ là điều kiện để
công dân thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Ngay từ khi mới độc lập, Nhà nước ta đã ghi nhận việc khiếu nại, tố cáo là
một trong những quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 và
Hiến pháp 2012 tiếp tục ghi nhận và khẳng định việc khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền cơ bản của công dân, đồng thời Nhà nước cũng tạo mọi điều kiện
thuận lợi để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong các năm qua, vấn đề khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai đã được
nhiều tác giả nghiên cứu. Thời gian qua đã có các công trình nghiên cứu, sách báo
pháp lý và các bài viết liên quan đến vấn đề này dưới góc độ lý luận và thực tiễn

10


như: Sách chuyên khảo, Tiến sỹ Doãn Hồng Nhung, Kỹ năng áp dụng pháp luật
trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam (2014), nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội; Sách chuyên khảo, Tiến sỹ Doãn Hồng Nhung, Pháp luật về thanh tra
và xử lý vi phạm pháp luật đất đai ở Việt Nam (2013), nhà xuất bản Xây dựng;
Sách chuyên khảo, Viện khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ, Khiếu nại, tố cáo
hành chình và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay (2012);
Luận văn thạc sỹ, Trần Ngân Hà, Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
Nam (2013), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sỹ, Nguyễn Thị
Hồng Thơm, Hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành

chính nhà nước ở Ninh Bình hiện nay (2010), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Luận văn thạc sỹ, Phạm Anh Tuấn, Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở
Việt Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện (2011), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Chuyên đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai và giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo về đất đai...và các bài viết liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo
về lĩnh vực đất đai trên các trang báo: Bài viết “Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải
biến nhận thức thành hành động” trên trang www.thanhtra.gov.vn; bài viết “ Cần
đổi mới mô hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên trang www.thanhtravietnam.vn;
bài viết “Giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ
thống chính trị trên trang www.noichinh.com; bài viết “ Khiếu nại,tố cáo về lĩnh vực
đất đai vẫn tăng” trên trang www.dangcongsan.vn... đã thể hiện sự quan tâm của các
cấp chính quyền, của xã hội đến vấn đề nóng bỏng này. Tuy nhiên, kể từ khi Luật
Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành thì chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào
đề cập đến vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai tại địa bàn huyện Mộc
Châu, tỉnh Sơn La.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận của giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng công tác tiếp công dân, tình hình khiếu nại, tố cáo

11


và giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở địa phương, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở
huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của khiếu nại, tố cáo và công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Đánh giá thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở huyện

Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo
về đất đai ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai của công
dân là vấn đề rộng và phức tạp gắn liền với những bước phát triển kinh tế và biến
động xã hội, vì vậy, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản, rút ra một
số bài học kinh nghiệm và đặc biệt trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai của công dân ở huyện
Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Thời gian nghiên cứu từ năm 2013 đến năm 2015.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai ở huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La với mục đích đưa ra các luận cứ
khoa học và những quan điểm, giải pháp lý luận, thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chínhcũng như tổ chức thực hiện
pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp
phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về giải quyết khiếu nại hành chính.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy, học tập về giải quyết khiếu nại hành chính.

12


Luận văn cũng có thể phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn
giải quyết khiếu nại hành chính; giúp cán bộ, công chức và Nhân dân nâng cao nhận
thức về giải quyết khiếu nại hành chính để từ đó có hành xử đúng đắn trong khiếu
nại hành chính và hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Tiếp cận, nghiên cứu đề tài trên phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lê Nin.

Phương pháp cụ thể: Tiến hành khảo sát thực tế các đối tượng nghiên cứu
để thu thập thông tin, số liệu, tài liệu… nhằm thống kê, tổng hợp dữ liệu, số liệu để
làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng khiếu nại, tố cáo và tình hình giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở từng cơ quan, đơn vị.
Tổng hợp nguồn dữ liệu đã có của các năm trước, sử dụng các phương pháp
như xác xuất thống kê, lô gic học…để phân tích những vấn đề nghiên cứu, đồng
thời sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp để hệ thống hóa, đánh giá, nhận định,
luận giải và đưa ra được kết luận, đề xuất giải quyết các vấn đề nghiên cứu.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương:
Chương 1, Những vấn đề lý luận về khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực đất đai và giải
quyết khiếu nái tố cáo đất đai.
Chương 2, Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo đất đai trên địa bàn huyện
Mộc Châu tỉnh Sơn La.
Chương 3, Định hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại tố cáo đất đai trên địa bàn huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

13


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHIẾU NẠI, TỐ
CÁO TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ĐẤT ĐAI
1.1. Một số vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo
1.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận
tại điều 30 của Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đây là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã hội như là một phản ứng của con

người trước một quyết định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết
định hay hành vi đó là không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống
cộng đồng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Dưới góc độ pháp
lý, khiếu nại được hiểu là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1, điều 2, Luật khiếu nại năm
2011). Từ khái niệm có thể thấy rằng khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ
chức chịu tác động trực tiếp của quyết định hành chính hay hành vi hành chính hoặc
là đề nghị của cán bộ, công chức chịu tác động trực tiếp của quyết định kỷ luật đối
với cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Cùng với khiếu nại, quyền tố cáo của công dân đã được tiếp tục ghi nhận
trong Hiến pháp (cũng tại điều 30), Luật tố cáo và nhiều văn bản pháp luật khác.
Khái niệm tố cáo có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp
lý, tố cáo được hiểu: “là việc công dân theo thủ tục báo cho cơ quan, tổ chức, cá

14


nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (khoản 1, điều 2, Luật tố cáo năm
2011). Như vậy, công dân dù bị ảnh hưởng trực tiếp hay không bị ảnh hưởng bởi
hành vi vi phạm pháp luật là đối tượng của việc tố cáo đều có quyền thực hiện việc
tố cáo khi biết được có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội.
Công dân có thể cung cấp các thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cho các cơ
quan Nhà nước, nhưng khác với khiếu nại ở chỗ là tố cáo luôn được gửi tới cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, theo một trình tự thủ tục do pháp luật quy định và người tố

cáo luôn là chủ thể xác định, có những quyền, nghĩa vụ được quy định trong Luật
khiếu nại, Luật tố cáo. Khi công dân thực hiện quyền tố cáo thì giữa họ với cơ quan
Nhà nước sẽ phát sinh những quan hệ pháp luật nhất định và họ phải chịu trách
nhiệm về những thông tin mà mình cung cấp. Nội dung tố cáo của công dân rất đa
dạng và phức tạp; có tố cáo về những việc làm trái pháp luật của cán bộ, công chức
trong bộ máy Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; có những tố cáo về những
sai phạm trong công tác quản lý của các cơ quan, trong đó có cơ quan quản lý hành
chính Nhà nước. Ngoài ra, công dân có thể tố cáo các hành vi vi phạm về đạo đức,
lối sống của cán bộ, công chức… Khi thực hiện quyền tố cáo là công dân đã thực
hiện quyền làm chủ của mình trong việc xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước làm
cho bộ máy Nhà nước ngày càng phát huy hiệu quả trong quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội; hay nói rõ hơn thực hiện quyền tố cáo chính là việc tỏ rõ trách nhiệm của
công dân không chỉ trong việc giám sát hoạt động quản lý của Nhà nước để xây
dựng bộ máy Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh mà còn đối với cả việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước để đây thực sự là những “người đại
biểu của nhân dân”, góp phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ công chức
Nhà nước.
1.1.2. So sánh khiếu nại, tố cáo

15


Quyền khiếu nại, quyền tố cáo là những quyền cơ bản của công dân đã được
Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Quá trình phát triển của
pháp luật và do những đòi hỏi của thực tiễn mà khiếu nại và tố cáo dần dần có sự
phân biệt, nhất là kể từ khi ban hành pháp lệnh về khiếu nại, tố cáo của công dân
năm 1991 và qua một thời gian đã dẫn đến việc xuất hiện hai đạo luật: Luật khiếu
nại và Luật tố cáo riêng biệt vào năm 2011. Khiếu nại và tố cáo đều là quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, là biện pháp ngăn chặn và loại trừ vi phạm pháp luật,

ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cá nhân, tổ chức và Nhà nước
đồng thời đây cũng là phương tiện pháp lý thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân. Người khiếu nại và người tố cáo đều phải có nghĩa vụ “trình
bày trung thực về nội dung sự việc”. Do vậy, việc phân định giữa khiếu nại và tố
cáo là công việc không hề đơn giản ngay cả đối với những người thường xuyên phải
xử lý đơn thư hay các vụ việc nhận được. Sự phức tạp có thể do nhiều nguyên nhân:
Do quy định của pháp luật không thật rõ ràng; do sự lẫn lộn giữa khiếu nại và tố
cáo, vô tình hay cố tình, của người đưa đơn.
Chính vì khiếu nại và tố cáo không giống nhau cho nên Pháp lệnh giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Luật khiếu nại, tố cáo trước đây và Luật khiếu nại, Luật tố cáo
hiện hành đã quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo khác với thẩm
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, điểm khác nhau cơ bản giữa
tố cáo và khiếu nại là:
Về chủ thể: Chủ thể thực hiện quyền tố cáo theo quy định trong Luật tố cáo
chỉ là công dân. Như vậy, khác với khiếu nại, chủ thể khiếu nại là công dân, cơ
quan, tổ chức đều có quyền khiếu nại. Việc thực hiện quyền tố cáo chỉ quy định cho
đối tượng là cá nhân nhằm cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo, nếu có hành vi
cố ý tố cáo sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý
theo quy định của pháp luật.
Về đối tượng: Đối tượng bị khiếu nại gồm quyết định hành chính, hành vi hành
chính của các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức,

16


còn đối tượng của tố cáo rộng hơn, bao gồm mọi hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Bao gồm, hành vi vi
phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ và
hành vi vi phạm pháp luật về quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực.

Về mục đích: Về cơ bản, mục đích của tố cáo là bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, trong khi đó khiếu nại nhằm
bảo vệ hoặc khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Tuy nhiên, cũng có
một số trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của chính bản thân người tố cáo. 1
1.2. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
1.2.1.1. Khái niệm khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ chức theo thủ tục do Luật khiếu
nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.2
Như vậy, khiếu nại về đất đai là một khái niệm dùng để chỉ việc khiếu nại của
các cá nhân hoặc tổ nhằm hướng tới lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai.
Tố cáo về đất đai là việc công dân theo thủ tục do luật quy định báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật đất đai của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.3

1

Viện khoa học Thanh tra, Thanh tra Chính phủ (2012), Khiếu nai, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại,
tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay
2
/>3
/>
17


Ví dụ:

- Uỷ ban nhân dân huyện giao đất không đúng thẩm quyền.
- Người sử dụng đất sử dụng sai mục đích, huỷ hoại đất đai.
Tóm lại, khiếu nại, tố cáo về đất đai là việc công dân (cơ quan, tổ chức) đê
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét kết luận vê nội dung tố cáo
hoặc xem xét lại những quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ
cho rằng những hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
1.2.1.2. Đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
- Khiếu nại, tố cáo là những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp. Việc Hiến pháp ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân cho thấy
vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của quyền năng pháp lý này. Xét trên phương diện
lý thuyết thì thực hiện khiếu nại, tố cáo chính là phương thức quan trọng để công
dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo mà các
quyền cơ bản khác như: quyền được học hành, quyền tự do tín ngưỡng, quyền bầu
cử...sẽ được bảo đảm và thực hiện. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc
khiếu nại, tố cáo và giải quyết hiệu quả các khiếu nại, tố cáo nên Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm tới công tác này. Những năm qua, nhiều chỉ thị, nghị quyết của
Đảng đã đề cập đến việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở
đó, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng quy định về giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Quyền khiếu nại, tố cáo cũng là một quyền dân chủ cơ bản
của người sử dụng đất bởi lẽ Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hơn
nữa, đất đai ở nước ta thuộc sử hữu toàn dân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu,
thay mặt nhân dân thực hiện hoạt động quản lý đất đai để đảm bảo cho đất đai được
sử dụng hợp lý, phục vụ cho lợi ích của chủ sở hữu đích thực là toàn dân, cũng như
phục vụ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người sử dụng đất. Bởi vậy, bất kỳ
cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khi có đủ căn cứ đều có quyền khiếu nại, tố cáo những

18



gì mà mình cho là trái pháp luật nói chung, pháp luật đất đai nói riêng, xâm phạm
hoặc đe dọa xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác và
của toàn xã hội.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực
hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, và lĩnh vực tự do của cá nhân. Quyền
này được đảm bảo bằng nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và những người có chức vụ.
- Khiếu nại, tố cáo cùng có căn cứ là sự vi phạm pháp luật. Đó là các quyết
định, hành vi hành chính của các cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền hoặc bất
kỳ hành vi của bất kỳ cá nhân tổ chức, cơ quan nào trái hoặc vi phạm pháp luật đất
đai, xâm phạm hoặc đe doạ xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng đất cũng như của toàn xã hội.
Khi thực hiện khiếu nại, tố cáo người khiếu nại, tố cáo đều hướng tới mục
đích là chấm dứt những hành vi vi phạm, trái pháp luật ấy; yêu cầu phục hồi các
quyền và lợi ích bị xâm hại, bồi thường thiệt hại về vật chất, danh dự do những hành
vi đó gây ra, xử lý đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức đã vi phạm, góp phần củng
cố pháp chế xã hội chủ nghĩa và lập lại kỷ cương xã hội.
- Nội dung của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai rất phong phú và đa
dạng. Các hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm rất nhiều nội dung: ban
hành các văn bản qui phạm hành chính về quản lý, sử dụng đất đai, và tổ chức thực
hiện văn bản đó; xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính; khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ
địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất; quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
quản lý giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; quản lý tài
chính về đất đai…Chính vì thế mà nội dung của khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất
đai cũng rất phong phú và đa dạng.
- Khi xảy ra khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động của người sử dụng đất và hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước. Khi khiếu


19


nại, tố cáo xảy ra, bản thân người sử dụng đất không thể thực hiện được các quyền
lợi của mình đối với đất đai, không thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Còn cơ quan Nhà nước sẽ khó khăn trong hoạt động quản lý Nhà nước của mình về
đất đai, vì việc thực thi các quyết định, hành vi hành chính về đất đai bị đình trệ.
Về phương diện kinh tế, khi có khiếu nại, tố cáo, các hoạt động kinh doanh,
sản xuất liên quan tới đất đai sẽ bị ngừng trệ. Không những vậy, khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực đất đai thường kéo dài gây ra những thiệt hại không nhỏ về của cải
vật chất cho cả người sử dụng đất cũng như cho toàn xã hội.
Về mặt chính trị xã hội, khiếu nại, tố cáo xảy ra có tác động không nhỏ tới
tâm lý, tinh thần của nhân dân, gây mất ổn định trong các mối quan hệ xã hội, nhất
là các mối quan hệ xã hội giữa cơ quan Nhà nước với người sử dụng đất. Không
những vậy, khiếu nại, tố cáo xảy ra, nếu không được giải quyết đúng đắn, kịp thời,
triệt để còn gây mất niềm tin trong không ít bộ phận nhân dân, làm cho những chính
sách, đường lối của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để.
Bởi vậy, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng,
nhằm góp phần giữ vững trật tự xã hội và mang lại công bằng cho mỗi người dân.
Giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo về đất đai còn góp phần bảo đảm cho pháp
luật đất đai được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng
cường hiệu quả của công tác quản lý đất đai.
1.2.1.3. Phân loại khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai
Phân loại đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được tiến hành theo quy
định tại Thông tư 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ
quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh như sau:
Thứ nhất, phân loại theo nội dung đơn, bao gồm:
- Đơn khiếu nại.
- Đơn tố cáo.


20


- Đơn kiến nghị, phản ánh.
- Đơn có nhiều nội dung khác nhau.
Thứ hai, phân loại theo điều kiện xử lý, bao gồm đơn đủ điều kiện xử lý, đơn
không đủ điều kiện xử lý.
- Đơn đủ điều kiện xử lý là đơn đáp ứng các yêu cầu sau đây:
+ Đơn dùng chữ viết là tiếng việt và được người khiếu nại, người tố cáo,
người kiến nghị, phản ánh ghi rõ ngày, tháng, năm viết đơn; họ, tên, địa chỉ, chữ ký
hoặc điểm chỉ của người viết đơn.
+ Đơn khiếu nại phải ghi rõ tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân
bị khiếu nại, nội dung, lý do khiếu nại và yêu cầu của người khiếu nại.
+ Đơn tố cáo phải ghi rõ nội dung tố cáo; cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị
tố cáo, hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo.
+ Đơn kiến nghị, phản ánh phải ghi rõ nội dung kiến nghị, phản ánh.
+ Đơn chưa được cơ quan, tổ chức, đơn vị tiếp nhận đơn xử lý theo quy định
của pháp luật hoặc đã được xử lý nhưng người khiếu nại, người tố cáo được quyền
khiếu nại, tố cáo tiếp theo quy định của pháp luật.
- Đơn không đủ điều kiện xử lý:
+ Là đơn không đáp ứng các yêu cầu tại điểm a, khoản 2, điều 6, Thông tư
07/2014/TT-TTCP của Thanh tra Chính phủ.
+ Đơn đã được gửi cho nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong đó đã
gửi đến đúng cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc đúng người có thẩm quyền giải quyết.
+ Đơn đã được hướng dẫn một lần về cùng nội dung.
Thứ ba, phân loại theo thẩm quyền giải quyết:
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị.


21


Thứ tư, phân loại đơn theo số lượng người khiếu nại, người tố cáo, người
kiến nghị, phản ánh:
- Đơn có họ, tên, chữ ký của một người.
- Đơn có họ, tên, chữ ký của nhiều người (từ 05 người trở lên).
Thứ năm, phân loại đơn theo giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn:
- Đơn có kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc.
- Đơn không kèm theo giấy tờ, tài liệu gốc.
Thứ sáu, phân loại theo thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính Nhà nước (bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp và (cơ quan, tổ
chức trực thuộc Ủy ban nhân dân các cấp hoặc của cơ quan hành chính khác).
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan dân cử, gồm đơn thuộc thẩm
quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội; các Ban của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội đồng nhân dân các cấp và các ban của Hội
đồng nhân dân các cấp.
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án;
đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức tôn giáo.
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của doanh nghiệp Nhà nước.
Trong phạm vi của bài viết, tác giả tiến hành phân loại khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai theo nội dung đơn khiếu nại, tố cáo đất đai.
* Phân loại khiếu nại trong lĩnh vực đất đai:

22



Dựa trên thực trạng khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của nước ta hiện nay, có
thể chia khiếu nại thành 4 loại chính là:
Thứ nhất, là khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ tái định cư.
Để thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội đất nước, Nhà nước đã tiến
hành thu hồi đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án phát triển. Tuy nhiên
vấn đề bồi thường và hỗ trợ và tiến hành tái định cư cho những diện bị thu hồi đất ở
nhiều địa phương gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Một số dự án chưa có khu tái
định cư hoặc chưa giải quyết tái định cư đã quyết định thu hồi đất ở. Những trường
hợp bị thu hồi đất ở thì tiền bồi thường không đủ để mua nhà ở mới tại khu tái định
cư. Giá đất bồi thường thấp hơn giá đất cùng loại trên thị trường, đặc biệt là đối với
đất nông nghiệp trong khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn. Tiền bồi thường đất
nông nghiệp thường không đủ để nhận chuyển nhượng diện tích đất nông nghiệp
tương tự hoặc không đủ để nhận chuyển nhượng đất sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp để chuyển sang làm ngành nghề khác. Nhìn chung các địa phương chưa coi
trọng việc lập khu tái định cư chung cho các dự án trên cùng địa bàn, một số khu tái
định cư đã được lập nhưng không bảo đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ, giá
nhà ở tại khu tái định cư còn tính quá cao nên tiền nhận bồi thường không đủ trả cho
nhà ở tại khu tái định cư. Các quy định của pháp luật về đất đai để giải quyết vấn đề
tái định cư đã khá đầy đủ nhưng các địa phương thực hiện chưa tốt, thậm chí một số
địa phương chưa quan tâm giải quyết nhiệm vụ này dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo
dài.
Thứ hai, là khiếu nại về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đây là dạng khiếu nại rất phổ biến hiện nay. Dạng khiếu nại này phát sinh
một phần từ sai sót của cơ quan có thẩm quyền, như: Cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sai sót về tên chủ sử dụng, sơ đồ thửa đất, diện tích… Có những trường
hợp, không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không có lý do chính đáng
hoặc lý do không rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết lại
không giải thích rõ cho dân hiểu lý do tại sao không cấp giấy. Quá trình giải quyết


23


hồ sơ diễn ra chậm, gây phiền hà, sách nhiễu… gây khó khăn cho người sử dụng
đất. Một nguyên nhân khác là do quy hoạch treo hoặc do người dân không chấp
nhận dù lý do không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chính đáng….
Thứ ba, là khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm chế
độ quản lý, sử dụng đất đai.
Nội dung khiếu nại này cũng có nhiều dạng. Một số bộ phận người dân không
nắm rõ về Luật đất đai và Luật khiếu nại, tố cáo nên phát sinh tình trạng vi phạm
pháp luật hoặc các trường hợp lấn chiếm, vi phạm quy tắc xây dựng. Một số người
mặc dù khá am hiểu pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, khi bị phát hiện và xử
phạt thì ngoan cố khiếu nại. Bên cạnh đó cũng có phần trách nhiệm của các cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình giải quyết, như: Ra quyết định xử phạt sai đối tượng,
bị nhầm lẫn, sai tên chủ sử dụng; việc thi hành quyết định xử phạt có sai sót hoặc sai
pháp luật; việc ra quyết định không đúng căn cứ pháp luật; việc ra quyết định quá
nhẹ hoặc quá nặng (về mức phạt hoặc hình thức phạt) hoặc thiếu trách nhiệm, thiếu
khách quan.
Thứ tư, là khiếu nại việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đất đai của
các cơ quan Nhà nước.
Khiếu nại trong lĩnh vực này cũng rất phức tạp và đa dạng, như:
- Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp đòi lại đất cũ:
+ Đòi lại đất, tài sản của dòng họ, của người thân trong các giai đoạn khác
nhau, qua các cuộc điều chỉnh đã giao cho người khác sử dụng.
+ Đòi lại đất cũ do trước kia thực hiện chính sách "nhường cơm sẻ áo” của
Nhà nước trong những năm 1981 - 1986 (đã nhường đất cho người khác sử dụng
nay họ đòi lại).
+ Đòi lại đất khi thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp, theo mô hình sản xuất
tập thể quản lý tập trung.


24


- Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, thừa kế tài
sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
- Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp ranh giới sử dụng đất.
- Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp nhà đất do đã cho mượn, cho thuê, cho
ở nhờ.
- Khiếu nại việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất.
- Khiếu nại việc giải quyết tranh địa giới hành chính.
Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa 2 tỉnh, 2 huyện, 2 xã với nhau tập
trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hoá, bên
cạnh những vị trí dọc theo triền sông, những vùng có địa giới không rõ ràng, không
có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng. Các tranh chấp có thể diễn ra ở những nơi có
tài nguyên thiên nhiên quý, hiếm, nơi có nguồn lâm thổ sản có giá trị lớn. Khi Nhà
nước tiến hành phân tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, thị xã, xã mới thì tranh
chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính diễn ra ở nhiều địa phương trên cả
nước v.v…
* Phân loại tố cáo trong lĩnh vực đất đai:
- Các tố cáo chủ yếu tập trung vào các nội dung:
+ Thứ nhất, tố cáo cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng các chương
trình, dự án của nhà nước để bao chiếm ruộng đất, chia chác đất đai, nhất là đối với
chương trình trồng rừng, các dự án phát triển khu dân cư, các dự án tái định cư.
+ Thứ hai, tố cáo cán bộ cửa quyền, nhũng nhiễu trong việc thực hiện các thủ
tục hành chính về đất đai, như: giao đất; cho thuê đất; cho phép chuyển nhượng
quyền sử dụng đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không thực hiện đăng
trình tự, thủ tục thu hồi đất, đền bù, hỗ trợ.

25



×